
Bài học tranh
chấp chủ quyền
quần đảo Malvinas-Falkland giữa Argentina và Anh
Ngô Khôn Trí (Exryu
Canada)
Ngày 26/3/2013 vừa qua, chính phủ Argentina đă kêu
gọi chính phủ Anh cùng ngồi vào bàn đàm phán về vấn đề chủ quyền
quần đảo Malvinas mà phía Anh gọi là quần đảo Falkland. Nhưng chính
phủ Anh đă từ chối viện lư do là 98,8% người dân sống trên quần đảo
tranh chấp này mong muốn duy tŕ quy chế là vùng lănh thổ hải ngoại
của Anh, căn cứ theo kết quả của cuộc trưng cầu dân ư vào ngày
12/3/2013 .
Argentina tuyên bố rằng: “ Trước đây nước Anh đă
vi phạm các nghị quyết của Liên Hợp Quốc yêu cầu Anh và Argentina
đàm phán đối với quần đảo tranh chấp và Argentina không công nhận
kết quả cuộc trưng cầu dân ư của dân chúng trên đảo Malvinas v́
trước đây Anh đă trục xuất người Argentina ra khỏi đảo đó”.
Để có được 1 nhận định đúng về tranh chấp giữa 2
nước, cần xem lại những diễn biến quan trọng trong lịch sử của quần
đảo Malvinas - Falkland .
Malvinas-Falkland là quần đảo nằm ở Nam Đại Tây
Dương, có diện tích 12 173 cây số vuông, cách bờ biển Argentina chỉ
có 483 km nhưng cách nước Anh tới 12 734 km, dân số chỉ có 2841
người (2012). Ngoài những hoạt động truyền thống về khai thác than,
đánh bắt cá, cảng biển, những giếng dầu phong phú trong vùng là tài
nguyên to lớn không chỉ giúp phát triển kinh tế cho người dân trên
đảo mà c̣n cho cả nước Anh. Ước đoán trữ lượng của khu vực lên tới
3,5 tỷ thùng dầu và trị giá khoảng 35 tỷ USD.

Bản đồ vị trí khu vực quần đảo
tranh chấp giữa Anh và Argentina
Nguyên thủy, đó là những ḥn đảo hoang vắng, người
Patagonian Indians đă đến đầu tiên bằng những chiếc xuồng (canoe).
V́ nằm trên vị trí có nhiều tàu bè qua lại nên các ḥn đảo này đă bị
chiếm đóng bởi Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Argentina.
Năm 1501, nhà mạo hiểm Tây Ban Nha, Amerigo
Vespucci khi du hành ṿng quanh vùng Nam Đại Tây Dương, đă quan sát
các hải đảo này, nhưng ông ta không đặt tên cho chúng. Năm 1520, các
thủy thủ của đoàn thám hiểm Magallan gọi các đảo đó là "Islas de
Sansón y de los Patos" ("Islands of Samson and the Ducks").
Năm 1690, thuyền trưởng người Anh, John Strong đă
đến 1 eo biển nằm giữa các ḥn đảo chính và đặt tên là “Falkland
Sound”.
Năm 1764, nhà thám hiểm Pháp, Đô đốc Louis Antoine
de Bougainville đă chiếm làm thuộc địa đầu tiên, đặt tên là Port St.
Louis, ông là người Pháp đầu tiên đi ṿng quanh thế giới trong thế
kỷ 18.
Năm 1765, John Byron, người Anh, không biết sự
hiện diện của Pháp nên đă khai thác phía tây của quần đảo, chiếm làm
thuộc địa năm 1766 và đặt tên là Port Egmont.

Năm 1767, Pháp đă bán các quần đảo thuộc địa cho
Tây Ban Nha với giá 603000 livres. Bougainville dùng số tiền đó để
sửa tàu và mua đồ dự pḥng cho chuyến du hành ṿng quanh thế giới.
Năm 1770, Tây Ban Nha đă dùng vũ lực tấn công Port
Egmont, trục xuất cư dân Anh ra khỏi đảo. Việc này đă đưa 2 nước đến
bên cạnh hố chiến tranh. Nhưng sau đó, Anh trở lại nhờ 1 hiệp ước
ḥa b́nh.
Năm 1774, v́ áp lực kinh tế do bởi Chiến tranh Độc
lập của Mỹ (1775-1783), Anh đơn phương quyết định rút khỏi các thuộc
địa. Nhờ đó, từ năm 1771 đến 1811 Tây Ban Nha bảo quản nhưng sau đó
bỏ đi vào năm 1811.
Năm 1828, Argentina thành lập thuộc địa dùng làm
nơi giam giữ tội nhân.Tháng 11 năm 1832 các tù nhân và hải tặc đă
nổi loạn và giết chết Thống đốc.
Tháng giêng năm 1833, lực lượng Anh trở lại, đưa
dân của ḿnh vào sinh sống và chiếm lấy làm căn cứ hải quân cho
Hoàng gia Anh, sau đó biến thành 1 căn cứ chiến lược quan trong của
Anh trong suốt 2 cuộc đệ nhất và đệ nhị thế chiến.

Căn cứ quân sự của Anh tại đảo
Malvinas-Falkland
Khi Anh trở lại, tại quốc hội Argentina, trưởng
đảng Federal, ông Manuel Moreno đă đứng ra phản đối việc tái chiếm
đóng của Anh. Từ đó trở đi cho đến năm 1849 việc tranh giành chủ
quyền trở thành đề tài gây tranh căi hàng năm trong quốc hội
Argentina giữa 2 phái ôn ḥa và hiếu chiến. Chính phủ Anh đă từ chối
kháng nghị đầu tiên và làm ngơ không trả lời ǵ về các kháng nghị
sau đó của chính phủ Argentina.
Vào năm 1850, một hiệp định thuộc địa, hay c̣n gọi
là hiệp ước Arana-Southern, đồng ư khôi phục mối quan hệ hữu nghị
giữa 2 nước, tuy không đề cập đến chủ quyền của các hải đảo nhưng
trong bản đồ tài trợ (Sponsored map) chính thức có ghi nước
Argentina bao gồm những hải đảo Mavinas/Falkland. Nhờ đó chính phủ
Argentina đă không gởi thêm những kháng nghị nữa cho tới năm 1885.
Năm 1888, Argentina đưa ra đề nghị về chủ đề
“trọng tài phân xử “ nhưng chính quyền Anh từ chối ngay. Khác với
cuộc phản kháng của năm 1885, chính phủ Anh đă không thụ nhận bất cứ
kháng nghị nào của Argentina nữa trong suốt thập niên 1940. Mặc dù
các chính phủ kế tiếp của Argentina đều chính thức tŕnh kháng nghị
đến Vương quốc Anh. Chính phủ Argentina khai rằng đă gởi tất cà 27
kháng nghị cho chính phủ Anh và các cơ quan quốc tế nhưng không xác
định rơ thời gian. Theo luật quốc tế , nếu giữa các kháng nghị có 1
khoảng gián đoạn 50 năm hoặc nhiều hơn th́ những đ̣i hỏi lănh thổ
trở nên vô hiệu.
Sau Thế chiến thứ hai, đế quốc Anh suy yếu, các
thuộc địa ở châu Á, châu Phi và vùng Caribbean giành lại được độc
lập. Argentina nhận thấy đây là một cơ hội tốt để giành lại chủ
quyền trên các quần đảo nên đă nêu rơ yêu sách của ḿnh sau khi gia
nhập Liên Hiệp Quốc vào năm 1945. Anh đề nghị đưa vụ tranh chấp ra
Ṭa án Công lư Quốc tế ở The Hague (vào năm 1947, 1948 và 1955 ) để
t́m sự giàn xếp. Thế nhưng, trên mỗi cơ hội đó Argentina đều từ chối.
Năm 1964, Liên Hiệp Quốc đă thông qua một nghị
quyết kêu gọi Anh và Argentina tiến hành các cuộc đàm phán hầu t́m
kiếm một giải pháp ḥa b́nh về vấn đề chủ quyền mà nó “mang ư nghĩa
tinh thần “ (bearing in mind) cho các quy định và mục tiêu của nghị
quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng Liên hợp quốc và lợi ích của người
dân sống trên quần đảo Malvinas/Falkland.
Một loạt các cuộc đàm phán giữa hai nước đă diễn
ra trong suốt 17 năm tiếp theo cho đến năm 1981, nhưng cũng không
đạt được một thỏa thuận nào về chủ quyền. Mặc dù đă có một số thành
công trong việc thiết lập các quan hệ kinh tế và vận chuyển giữa các
đảo và Argentina.
Sau khi kư kết thỏa thuận truyền thông, ngày 03 /
7/ 1971 Không quân Argentina đă phá hủy sự cô lập các đảo bằng cách
mở đường hàng không với một chuyến bay đổ bộ từ Comodoro Rivadavia.
Năm 1972, Anh đồng ư cho phép Argentina xây dựng một đường băng tạm
thời gần thủ đô Stanley theo yêu cầu của phía Argentina. Ngày 15/
11/ 1972 một đường băng tạm thời đă được khánh thành với sự xuất
hiện đầu tiên của 1 máy bay chở hành khách Fokker F-27, có 2 chuyến
bay trong 1 tuần. Các chuyến bay được nâng cấp vào năm 1978 bởi
Fokker F-28 (máy bay phản lực) nhờ một sân bay cố định do chính phủ
Anh tài trợ. Đường hàng không này là phương tiện duy nhất để liên
lạc giữa các đảo với nhau. được duy tŕ cho đến khi xảy ra chiến
tranh giữa 2 nước vào năm 1982. Công ty dầu khí YPF của Argentina
thường xuyên chịu trách nhiệm cung cấp năng lượng cho các ḥn đảo
này.
Trong khi đó, tại quốc hội Anh, chính phủ Anh hạn
chế những vận động hành lang về việc trao trả chủ quyền lại cho
Argentina. Bất kỳ biện pháp nào của Bộ Ngoại giao đề xuất về vấn đề
chủ quyền đều bị kịch liệt lên án bởi 1 số người dân trên đảo (những
người muốn ở lại với nước Anh). V́ thế chính phủ Anh duy tŕ vị trí
tùy theo quyền tự quyết của người dân trên đảo. Thế nhưng Argentina
th́ không công nhận quyền tự quyết đó. V́ thế những cuộc đàm phán về
vấn đề chủ quyền lại đi đến bế tắc.
Năm 1976, Argentina đưa 1 đội thám hiểm tới Nam
Thule, một ḥn đảo trong quần đảo Nam Sandwich mà tại thời điểm đó
là một phần phụ thuộc quần đảo Falkland. Việc đổ bộ này đă được báo
cáo về Anh vào năm 1978 nhưng chính phủ Anh tuyên bố bác bỏ ư định
gửi một lực lượng Hải quân Hoàng gia đến để tháo dỡ các cơ sở
Corbeta Uruguay của Argentina.
Vào năm 1977 đă xảy ra 1 cuộc đối đầu nghiêm trọng
hơn khi Hải quân Argentina ngưng cung cấp nhiên liệu cho Sân bay
Port Stanley và tuyên bố từ chối yêu cầu treo cờ Red Ensign của Anh
khi bay vào vùng biển Malvinas. (Red Ensign hay Red Duster là lá cờ
của hải quân Hoàng gia Anh). Anh cho rằng theo truyền thống, những
chiếc tàu của nước ngoài khi đi vào vùng biển của một quốc gia khác
phải treo cờ hàng hải của nước đó theo đúng trách nhiệm của ḿnh.
Chính phủ Anh nghi ngờ Argentina sẽ gởi thêm 1 đội thám hiểm nữa tới
miền Nam Thule, nên Thủ tướng Anh lúc bấy giờ, James Callaghan đă ra
lệnh cho một tàu ngầm hạt nhân ( HMS Dreadnought) và 2 tàu khu trục
(Alacrity và Phoebe ) tới Nam Đại Tây Dương, với vai tṛ chuẩn bị
giao chiến nếu xảy ra một cuộc đụng độ với hải quân Argentina. Anh
đă có dự định thiết lập một vùng ngăn chận xung quanh các đảo , Sự
kiện này đă được giữ bí mật cho đến khi xảy ra những cuộc tranh luận
ở quốc hội Anh trong lúc chiến tranh với Argentina bùng nổ vào năm
1982.
Năm 1982, Argentina rơi vào t́nh trạng khủng hoảng
kinh tế trầm trọng với những náo động trong dân chúng chống lại sự
đàn áp của chính quyền quân sự độc tài. Ngày 19/3/1982, Argentina
đưa 60 công nhân lên ḥn đảo Nam Georgia (thuộc quần đảo Falkland).
Họ tháo dỡ một trại săn cá voi bỏ hoang, sau đó dựng ngọn quốc kỳ
của Argentina, chính thức thách thức chủ quyền với Anh. Chính phủ
Anh công kích việc chiếm đóng phi pháp của Argentina và yêu cầu rút
lui. Vào ngày 2 tháng 4 năm 1982, Tổng tư lệnh hải quân Argentina,
Jorge Anaya đă kết hợp với lực lượng bộ binh, đưa 8000 quân lính và
20 chiến xa đổ bộ lên quần đảo Falkland, nắm quyền kiểm soát, lấy lư
do là v́ họ đă dành được độc lập, thoát khỏi nền cai trị của Tây Ban
Nha từ năm 1816 và Tây Ban Nha đă để lại các quần đảo đó cho họ.
Chính phủ Anh lập tức cắt đứt quan hệ với
Argentina và ra sắc lệnh trả đũa. Thủ tướng Anh đương thời là bà
Margaret Thatcher (mệnh danh là Iron lady) đă ra lệnh cho 27 000
lính và 100 tàu chiến bao gồm tàu sân bay, tàu khu trục, tàu ngầm,...
xuất trận.

Hải quân Anh xuất trận

Ngày 3 /4 /1982 Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết 502,
yêu cầu quân đội Argentina rút ra khỏi quần đảo và 2 bên phải đi t́m
1 giải pháp ngoại giao. Một nghị quyết khác kêu gọi ngưng chiến
nhưng đă bị Mỹ và Anh từ chối. Cộng đồng Âu châu lên án sự xâm lược
và dùng h́nh phạt kinh tế đối với Argentina. Mặc dù có 1 vài nước
trong EC bảo lưu ư kiến về chính sách của Anh. Đan Mạch và Ái Nhĩ
Lan là 2 nước không hợp tác. Pháp và Đức đ́nh chỉ các hợp đồng quân
sự với quân đội Argentina. Mỹ viện trợ rất nhiều cho Anh ngay từ đầu
nhưng đă ủng hộ làm trung gian ḥa giải. Thế nhưng, khi những cuộc
đàm phán thất bại th́ Mỹ công khai ủng hộ lập trường của Anh.
Quân đội Anh bắt đầu phản công vào ngày
23/04/1982. Chiến tranh diễn ra trên biển và trên không. Argentina
đă sử dụng chiến đấu cơ A-40 Skyhawks (của Mỹ) và Mirage (của Pháp)
đánh ch́m 3 chiến hạm Sheffield, Coventry và SirGalahad của Anh. Thế
nhưng, nhờ ưu thế về quân lực nên sau 72 ngày giao chiến, cuối cùng
ngày 14/6/1982, Anh bao vây và Argentina đầu hàng. Phía Anh có 225
lính tử vong, 3 cư dân chết 777 người bị thương và 59 tù binh. Phía
Argentina có 649 lính tử vong, 1068 người bị thương và 11 313 bị bắt
làm tù binh.

Quân đội Anh tại đảo Falkland

Quân đội Argentina đầu hàng
Kể từ 1/1/1983 chính phủ Anh trục xuất quân đội
Argentina ra khỏi quần đảo và không cho phép người Argentina trở lại,
số dân c̣n lại bị ép phải nhập quốc tịch Anh.
Quan hệ ngoại giao giữa 2 nước được nối lại vào
năm 1990. Năm 2007 Argentina lại lên tiếng đỏi chủ quyền trên quần
đảo Malvinas-Falkland, yêu cầu Anh trở lại bàn hội nghị nhưng Anh
tiếp tục làm ngơ. Đến năm 2009, Thủ tướng Anh, Gordon Brown gặp Nữ
Tổng thống Argentina, Cristina Fernandez de Kirchner, nói thẳng
thừng rằng sẽ không có cuộc nói chuyện về chủ quyền của quần đảo
Falkland nữa.
Một cuộc trưng cầu dân ư trên đảo Falkland đă được
tổ chức vào ngày 10 và 11/3/2013. với kết quả là 99.8% của 3000 dân
trên đảo đă đồng ư ở lại dưới sự thống trị của nước Anh. Argentina
cương quyết phủ nhận quyền tự quyết này của người dân trên đảo và
nói rằng : Từ năm 1833, chính phủ Anh đă dùng vũ lực trục xuất người
Argentina ra khỏi đảo rồi sau đó ngăn cản không cho họ trở lại.
Argentina chỉ thừa nhận chính phủ Anh là đối tác hợp pháp trong đàm
phán.
Ngày 18/3/2013, Nữ Tổng thống Argentina Cristina
Kirchner yêu cầu Tân giáo hoàng Francis gốc Argentina đứng ra làm
trung gian để giải quyết tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Malvinas/Falkland
giữa Argentina và Anh.
Mặc dù quần đảo Malvinas-Falkland nằm
trong thềm lục địa của Argentia tuân theo Hiệp ước Liên hiệp quốc về
thềm lục địa( năm 1958) và chính phủ hiện nay của Argentina nỗ lực
t́m mọi phương cách để buộc Anh ngồi vào bàn đàm phán giải quyết
tranh chấp nhưng London vẫn làm ngơ. Việc đấu tranh giành lại chủ
quyền của Argentina ngày càng trở lên khó khăn, gần như đi đến tuyệt
vọng (Anh đă chiếm đoạt trên 180 năm). Đó là hậu quả của những việc
làm thiếu sáng suốt, thiếu nhẫn nại và thiếu tầm nh́n xa của các
chính phủ trước đây của Argentina.
Việc Anh làm ngơ không nhận kháng
nghị của Argentina (cách hành xử của nước lớn) và sự giới hạn (bất
lực) của Liên Hiệp Quốc cho thấy tư thế thấp kém của Argentina. Đáng
lư ra, Argentina cần phải nhẫn nại, khiêm tốn hơn, chờ thời. Thế
nhưng, Argentia đă không chịu nhẫn nhịn, từng bước tranh thủ quyền
đối thoại khi Anh đề nghị đưa vụ tranh chấp ra Ṭa án Công lư Quốc
tế ở The Hague (vào năm 1947, 1948 và 1955).
Khi có được trong tay bản đồ tài trợ
(Sponsored map) chính thức có ghi nước Argentina bao gồm những hải
đảo Malvinas/Falkland, đă không gởi thêm những kháng nghị để củng cố
và nâng vị thế của ḿnh lên, đă không biết tận dụng những cơ hội để
duy tŕ và tăng dân số của ḿnh trên các đảo khi mở các chuyến bay
đến các đảo.
Argentian đă không nỗ lực tranh thủ
quan hệ ngoại giao tốt với các nước có mâu thuẫn với Anh, nhất là
các thành phần tiến bộ trong quốc hội Anh cũng như trong Liên Hiệp
Quốc ủng hộ việc trao trả lại thuộc địa.
Argentina đă không biết khiêm tốn,
không đánh giá đúng sức mạnh của ḿnh, chỉ v́ muốn giải quyết sự mất
đoàn kết trong nội bộ giữa 1 bên ôn ḥa tiến bộ và 1 bên háu chiến
bảo thủ, tránh bị chỉ trích là hèn nhát khiếp nhược, nên đă quá
khích đưa quân đổ bộ chiếm lại các hải đảo trong khi quân lực c̣n
yếu kém và không có đồng minh mạnh. Một hành động thiếu sáng suốt,
thiếu suy xét về hậu quả của thành phần lănh đạo háu chiến, yêu nước
cực đoan này đă tạo cơ hội cho Anh trục xuất tất cả người dân
Argentina trên các đảo. Điều quan trọng là đă tạo cho Anh có lư do
chính đáng để ở lại trên các đảo chiếm đóng, có thêm đồng minh và có
thêm tiếng nói mạnh trong Liên Hiệp Quốc. Tất cả những tài liệu nói
về cuộc chiến đều cho thấy Argentina hoàn toàn không thể thắng được
Anh. Có báo cáo nói rằng: Nếu Anh bị thiệt hại nặng khi giao chiến
với Argentina th́ có khả năng Anh sẽ thả bom nguyên tử lên đảo tranh
chấp.
Việc đấu tranh giành lại chủ quyền
trên các hải đảo từ 1 nước lớn là 1 nhiệm vụ vô cùng khó khăn v́
không tranh thủ được sự ủng hộ của các nước lớn khác, bản thân các
nước lớn đều là những nước đang có vấn đề với các thuộc địa mà họ đă
và đang chiếm đóng. Sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc cũng bị giới hạn
v́ mọi nghị quyết của Hội đồng Bảo an chỉ được thông qua với sự nhất
trí của 5 nước thành viên cố định. ( Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung
Quốc) Chỉ cần 1 nước thành viên cố định bỏ phiếu chống th́ nghị
quyết của Hội đồng Bảo an coi như bị phủ quyết.
Khi điều kiện chưa thuận tiện, cần
phải nhẫn nhịn chờ thời (chứ không phải khuất phục), tranh thủ thời
cơ giành từng vị thế đối thoại, mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều
nước, tập trung phát triển kinh tế, đoàn kết mọi thành phần, quyết
tâm dẹp tan những tệ nạn trong nước, nâng cao dân trí, đợi hoàn cảnh
thuận lợi là phương sách tốt nhất hay chăng?
Montréal, ngày 3/4/2013
Ngô Khôn Trí
Tham khảo :
http://en.wikipedia.org/wiki/Falkland_Islands
http://en.wikipedia.org/wiki/Falkland_Islands_sovereignty_dispute
https://en.wikipedia.org/wiki/Falklands_War
http://www.bbc.co.uk/news/world-europe-21835363
http://www.bernama.com.my/bernama/v7/wn/newsworld.php?id=939089
|