DIỄN TỪ NHẬN GIẢI NOBEL:
NƯỚC NHẬT ĐẸP ĐẼ NƠI TÔI SINH RA
(UTSUKUSHII NIHON NO WATASHI)
Nguyên văn: Kawabata Yasunari
Dịch chú: Nguyễn Nam Trân

|
Dẫn nhập:
Trước khi bắt đầu dịch, xin được kể hầu quí độc giả một giai thoại
nhỏ liên quan đến sự ra đời của diễn từ này:
Năm 1968, khi viết xong rồi gửi cho Edward Seidensticker vốn là dịch
giả của Yukiguni (Snow Country) và là người ông tín cẩn, rốt cuộc
Kawabata đă sửa một chữ trong nhan đề của nguyên cảo. Ông xóa chữ
“to” (và), thay vào bằng chữ “no”(của). Điều đó đă đổi mối quan hệ
đồng đẳng của “to” sang mối quan hệ tùy thuộc của “no”. Chỉ với một
chữ, nhà văn bày tỏ được ḷng khiêm tốn khi xem ḿnh như một bộ phận
nhỏ bé của quê hương lớn lao với nền văn hóa sâu dày. Tuy
Seidensticker đă kịp thời nhận được thông tin này từ tác giả nhưng
ông vẫn giữ nguyên nhan đề tiếng Anh đă dịch. Có lẽ với nhận thức
của một người Tây phương, ông thấy không cần có sự thay đổi đó.
Diễn từ này đă được dịch sang Việt ngữ từ lâu. Lần này, chúng tôi
không có tham vọng nào khác là đóng góp một bản dịch mới từ nguyên
tác có tham khảo bản Anh ngữ chính thức
mà Seidensticker đă
dịch cho The Nobel Foundation.. Đặc biệt chúng tôi mạn phép đính kèm
vài từ ngữ Phật giáo bằng Hán văn trong dấu ngoặc để quư độc giả
tiện bề theo dơi.
|
|
*****
Xuân sang cùng với hoa kia,
Vào hè cuốc gọi, thu về trăng trong.
Trắng tinh tuyết lạnh ngày đông.
Đó là bài thơ nói về “Bản lai diện mục” mà Thiền sư Dôgen
(1200-1253) đă viết ra.
C̣n sau đây là thơ của cao tăng Myôe (Minh Huệ, 1173-1232).
Trăng mùa đông từ mây ra,
Cùng nhau sóng bước với ta trên đường.
Biết chăng gió, tuyết lạnh lùng?
.
Đôi khi có ai đến xin thủ bút của ḿnh, tôi thường chép cho họ mấy
bài thơ trên.
Về bài thơ của ngài Myôe th́ đă có những lời chú thích mào đầu
(kotobagaki) đủ dài để giải thích rành mạch nội dung, giúp ta có
thể thưởng thức nó như một thi thoại (uta monogatari):
“Năm Gen.nin (1224), vào đêm 12 tháng chạp, trời có mây làm vầng
trăng bị che khuất, ta vào điện Hoa Cung (Kakyuuden) tọa thiền một
chút th́ đă đến giờ đi tuần nửa đêm. Ta bèn ngừng thiền định và
rời khu tăng pḥng trên đỉnh núi (sơn pḥng) để về khu nhà ở bên
dưới (hạ pḥng), mới thấy vầng trăng ló ra khỏi đám mây, chiếu
sáng trên tuyết trắng. Nhờ có vầng trăng bước theo chân, ta không
cảm thấy sợ hăi ǵ, ngay cả tiếng lũ chó sói đang tru trong thung
lũng. Sau khi đi vào khu hạ pḥng và rời nơi đó th́ vầng trăng lại
nấp trong mây. Đến lúc nghe chuông ngân nhắc giờ đi tuần về sáng,
ta phải leo lên lại sơn pḥng th́ vầng trăng đă ra khỏi đám mây để
tiễn chân. Lúc ta lên tới đỉnh núi và vào trong thiền đường, trăng
bắt đầu đuổi theo mây để về bên kia ngọn núi. Chuyện trăng theo
chân ta th́ ngoài nó và ta ra, chắc không ai biết được”.
Khi đă vào thiền đường và thấy vầng trăng sắp ngả bóng, Myôe mới
làm tiếp một bài thơ như sau:
Khi ta qua bên núi kia,
Trăng ơi xin hăy theo về cùng ta.
Đêm đêm ḿnh lại bạn bè.
Bối cảnh của tác phẩm ghi lại sau này là thời gian sau khi Myôe đă
vào thiền đường và ở đấy cho đến sáng hay rời nơi đó trước b́nh
ḿnh:
“Sau khi ngừng thiền định, tôi nh́n vầng trăng về sáng chiếu qua
khung cửa sổ. Trong bóng tối nơi tôi đang ở, tôi cảm thấy tâm hồn
ḿnh như chan ḥa ánh sáng mà tôi nghĩ đă đến từ vầng trăng”:
Nếu Saigyô (Tây Hành, 1118-90) được biết đến như nhà thơ của hoa
anh đào th́ Myôe được xem là nhà thơ của vầng trăng.
Sáng, sáng, sáng, sáng làm sao,
Sáng sao , trăng sáng, sáng nào sáng hơn.
Bài thơ này chỉ là một chuỗi âm thanh ông đă thốt lên v́ xúc cảm.
Thế nhưng trong 3 bài thơ tả cảnh“Trăng mùa đông” từ khi trời vào
khuya cho đến lúc hừng đông, ta thấy ḷng của Myôe đă hoàn toàn
rung cùng một nhịp với Saigyô, một tăng nhân thi sĩ tiền bối,
người từng viết:”Tôi đă làm một bài thơ mà không nghĩ rằng đó là
một bài thơ”. Trong ba mươi mốt âm tiết mỗi bài thơ waka của Myôe
đều thấy có sự chân thành và trực cảm như thể ông đang tṛ chuyện
với vầng trăng. Ông không chỉ xem trăng như “người bạn đồng hành”
mà c̣n thân thiết hơn v́ khi nh́n trăng, ông (cái ta) đă biến
thành trăng và vầng trăng được ông nh́n, cũng đă biến thành ông.
Ông (cái ta) đắm ḿnh vào trong thiên nhiên và trở thành một với
thiên nhiên. Ánh sáng toát ra từ tấm ḷng trong vắt của nhà tu khi
ngồi trầm tư trong bóng tối thiền pḥng trước khi b́nh minh đến,
đă trở thành ánh sáng của chính vầng trăng về sáng.
Bài thơ nói về “vầng trăng mùa đông, người bạn đồng hành” – đúng
như lời mào đầu (kotobagaki) khá dài đă giải thích – ca tụng sự
tương giao và tương ứng vi diệu giữa vầng trăng và tấm ḷng của
Myôe khi ông vào trong thiền đường để ṃ mẩm suy tư về tôn giáo,
triết học.
Ư của bài thơ là: “Trăng mùa đông ơi, lúc vào mây lúc ra khỏi đám
mây, hăy soi bước chân cho ta khi ta đi lên đi xuống chốn thiền
pḥng, giúp ta vững ḷng không sợ tiếng sói tru. Mi có thấm lạnh
v́ gió, mi có buốt giá v́ tuyết hay không đấy?” Lư do tôi chép bài
thơ này để tặng cho khách đến thăm là v́ nó nói lên được t́nh cảm
tinh tế, sâu sắc, ân cần và ấm áp của tác giả đối với thiên nhiên
và con người. Đó là một bài thơ rất thấm thía đối với những tâm
hồn Nhật Bản vốn cũng đáng yêu như thế.
Tiến sĩ Yashiro Yukio
- nhà nghiên cứu lừng danh thế giới về danh họa Botticelli
(1444?-1510) – một học giả hiểu biết rộng răi mỹ thuật cổ kim đông
tây, đă tóm gọn “Đặc trưng của mỹ thuật Nhật Bản trong một ư thơ:
“Khi đứng trước tuyết, nguyệt, hoa, người ta nhớ đến bạn ḿnh
nhiều nhất (Tuyết nguyệt hoa thời tối tư hữu)
Mỗi lần ngắm vẻ đẹp của tuyết, mỗi lần ngắm vẻ đẹp của trăng –
nghĩa là thưởng thức cái đẹp thiên nhiên bốn mùa – ta muốn chia
sớt niềm vui đang dậy lên trong người, hay cái hạnh phúc mà ḿnh
vừa bắt được, nên liền nhớ tới một người bạn thiết. Tóm lại, sự
cảm động trước một vẻ đẹp sẽ giục ḷng ḿnh nhớ về con người. Xin
hăy hiểu chữ hữu (người bạn) ở đây theo nghĩa rộng của nó là nhân
gian (con người nói chung). C̣n “tuyết, nguyệt, hoa” lại là chữ
dùng để biểu hiện cái vẻ đẹp chuyển đổi theo bốn mùa (tứ quí). Nó
tượng trưng cho tất cả sơn xuyên thảo mộc, sum la vạn tượng nghĩa
là tất cả thiên nhiên, kể cả t́nh cảm con người. Từ xưa nó vẫn là
danh từ để diễn tả cái đẹp nói chung. Ta c̣n thấy thái độ “Tuyết
nguyệt hoa thời tối tư hữu” ở trung tâm của Trà đạo Nhật Bản. Trà
hội (Chakai) c̣n là Cảm hội (Kankai) nghĩa là một cuộc gặp gỡ
(Kai) vào một thời điểm thích hợp giữa những người bạn quí. Nhân
đây cũng xin thưa là nếu độc giả đọc quyển tiểu thuyết Sembazuru
(Ngàn Cánh Hạc) của tôi, xin chớ hiểu lầm là tôi đang nói về cái
đẹp h́nh thức và nội dung của Trà đạo Nhật Bản. Ngược lại, đó là
một tác phẩm có tính phủ định, nó bộc lộ mối hoài nghi và là lời
cảnh cáo về cách thưởng trà hạ cấp, kém thanh nhă, đang thấy trong
xă hội ngày nay.
Xuân sang cùng với hoa kia,
Vào hè cuốc gọi cuốc, thu về trăng trong.
Trắng tinh tuyết lạnh ngày đông.
Bài thơ trên của Dôgen nói về vẻ đẹp của bốn mùa.Nó cũng giống như
những bài thơ đă có từ xưa và chỉ lắp ghép những h́nh ảnh đại diện
cho vẻ đẹp thiên nhiên một cách nông cạn theo thứ tự xuân, hạ,
thu, đông. Lối tŕnh bày khuôn ṃn, sáo rỗng, b́nh thường ấy, nếu
có gọi là thơ th́ cũng chưa chắc đúng. Bài thơ Haiku lúc lâm chung
(từ thế thi, jiseishi) của tăng Ryôkan (Lương Khoan, 1758-1831)
dưới đây cũng không phải là ngoại lệ:
Ta c̣n để lại ǵ đâu!
Hoa xuân, cuốc núi, rừng thu lá hồng.
Cũng giống như Dôgen, trong bài thơ trên, Ryôkan đă không do dự
khi dùng một số từ ngữ quen thuộc để tŕnh bày những cảnh tượng
được mọi người nhắc tới thường xuyên. Ấy thế mà, tuy không chủ
tâm, khi đặt chúng bên nhau, tác giả lại truyền đạt được cái cốt
lơi của tâm hồn Nhật Bản. Và như tôi đă thưa, nó là bài thơ tuyệt
mệnh của Ryôkan.
Đánh cầu với lũ trẻ con,
Ngày xuân dằng dặc ta c̣n mải mê,
Từ tinh sương đến tối về.
Trăng thanh gió mát nên chi
Hăy cùng nhảy múa đến khi đêm tàn,
Tháng ngày c̣n mỗi tấc gang.
Không phải thờ ơ với đời,
Niềm vui lớn nhất: làm người tự do.
Một ḿnh ta được nô đùa.
Ryôkan sống với một tâm cảnh như lời thơ, trú ngụ trong am cỏ, ăn
mặc thô sơ, đi dạo trên những con đường quê, cùng trẻ con chơi
đùa, tṛ chuyện với nhà nông. Ông không dùng lời lẽ khó khăn để
tŕnh bày triết lư, văn chương mà chỉ đến với họ băng nét mặt
khoan ḥa (ḥa nhan) với lời lẽ dịu dàng (ái ngữ) và cử chỉ không
gợn ẩn ư (vô cấu). Ngoài ra, với phong cách thi ca và thư pháp
của ḿnh, Ryôkan đă vượt lên khỏi tập quán đê tục thời Edo hậu kỳ
(cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19) mà t́m về cái cao nhă thâm sâu
của con người cổ đại. Cho đến ngày nay, phong cách thi thư của
Ryôkan vẫn là cái rất được trân quí. Bài thơ tuyệt mệnh của con
người đó cho biết ông không để lại kỷ niệm đặc biệt nào cho thế
gian và cũng không muốn để lại ǵ hết. Ông xem như sau cái chết
của ḿnh chỉ có mỗi vẻ đẹp thiên nhiên là c̣n tồn tại. Mong rằng
nó sẽ được xem như di vật của một nhà thơ để lại cho đời. Bài thơ
này không những đúc kết tâm t́nh của người Nhật từ thuở xa xưa mà
c̣n bày tỏ niềm tin tôn giáo của Ryôkan.
Ryôkan cũng là thơ t́nh nữa và đây là một bài mà tôi rất yêu
thích:
Bao lần mỏi mắt chờ trông
Nay ḿnh đoàn tụ, c̣n mong nỗi ǵ?
Ryôkan, ông già 69 tuổi (Tôi xin nói thêm rằng đây là cái tuổi tôi
được lănh giải Nobel),
đă gặp một ni-cô mới có 29 tên là Teishin (Trinh Tâm)và khám phá
được t́nh yêu. Bài thơ có thể được xem như chứng cớ của hạnh phúc
v́ ông đă gặp được một người đàn bà không tuổi, cũng là người đàn
bà ḿnh đă phải chờ đợi quá lâu. Câu thứ hai th́ khá đơn giản, tự
nó đă nói lên tất cả.
Ryôkan qua đời ở tuổi 74. Ông sinh ra ở vùng Echigo, nay là tỉnh
Niigata, cũng là nơi tôi chọn làm bối cảnh cho cuốn tiểu thuyết
Yukiguni (Xứ Tuyết). Đó là một vùng nằm ở bờ biển bên kia nước
Nhật (Ura Nihon), nơi hứng chịu những cơn gió lạnh lục địa từ
Siberia thổi qua biển Nhật Bản. Ông đă sống trọn cuộc đời trong
vùng tuyết giá này với “ánh mắt lúc lâm chung” , lúc ông đă già
nua mệt mỏi, cái chết gần kề và tâm hồn trở nên trong lắng v́ ngộ
được đạo. Nhân đó, tôi tưởng tượng rằng Xứ Tuyết hiện ra trong bài
thơ vĩnh biệt của thi tăng c̣n đẹp hơn thực tế nhiều. Tôi có viết
một thiên tùy bút tên là “Ánh mắt lúc lâm chung” (Matsugo no me).
Nhan đề của tùy bút đến từ bức di thư của nhà văn chuyên về truyện
ngắn là Akutagawa Ryuunosuke (1892-1927), viết khi ông tự sát. Chữ
dùng đó đă gây ra ấn tượng mạnh nhất trong tôi. Akutagawa cho biết
ông dần dần mất đi sức sống và cả bản năng động vật muốn bám víu
vào sự sống. Rồi ông viết tiếp:
“Hiện nay, tôi sống với một thế giới trong suốt như lớp băng và
mang một bộ thần kinh bênh năo. (Lược). Tôi không biết ḿnh sẽ tự
sát vào lúc nào. Có điều là lúc này tôi thấy thiên nhiên càng ngày
càng đẹp hơn trước. Có lẽ bạn sẽ cười tôi mâu thuẫn v́ tại sao vừa
yêu vẻ đẹp của thiên nhiên lại vừa muốn kết liễu đời ḿnh”.
Akutagawa Ryuunosuke đă tự sát vào năm 1927 ở tuổi 35.
Trong tùy bút “Ánh mắt lúc lâm chung” (Matsugo no me) tôi đă phải
nói:
“Cho dù con người ghét bỏ, muốn xa lánh (yếm ly) với cuộc đời này
thế nào đi nữa, tự sát không phải là một giải pháp giúp họ đạt đến
giác ngộ. Dù người tự sát là một nhân vật đức hạnh thanh cao đến
đâu, ta không thể nào coi ông ta như một bậc thánh nhân”.
Tôi không tán dương việc tự sát như Akutagawa tiền chiến và Dazai
Osamu (1909-1948).
hậu chiến đă làm, mà cũng không thể đồng cảm với họ. Thế nhưng tôi
có một người bạn, anh là một trong những họa sĩ tiền vệ
(avant-garde) của Nhật, đă chết khi hăy c̣n trẻ. Từ nhiều năm về
trước, anh đă mang trong đầu ư tưởng tự sát và tôi cũng có viết về
anh trong tùy bút “Ánh mắt trối trăn” bằng lời lẽ như sau: “Anh có
thói quen nhắc đi nhắc lại là không có nghệ thuật nào cao sang hơn
sự chết và chết có nghĩa là sống”. Tôi hiểu lắm chứ, dù sao một
người sinh ra trong chùa (con một nhà sư thế tục) và xuất thân từ
một ngôi trường Phật giáo như anh th́ cách nh́n về cái chết rất
khác với người Tây phương.
“Đă là người biết suy tư, hỏi có ai không có lần nghĩ đến cái
chết?”. Tôi nghe rằng “cái ông” (ano) Ikkyuu (Nhất Hưu, 1394-1481)
“kia” đă hai lần muốn tự sát. Tôi gọi ông là “cái ông kia” (ano)
bởi v́ Ḥa thượng Ikkyuu th́ đến trẻ con cũng biết là nhân vật hết
sức nhanh trí (độn trí ḥa thượng) và buồn cười. Thêm vào đó, giai
thoại để lại về hành v́ khác đời của ông th́ nhiều vô kể. Chẳng
hạn chuyện bọn trẻ con đă leo lên ngồi trên đùi và nghịch cḥm
râu, chuyện chim trời đến mổ ăn trong ḷng bàn tay ông. Mới nh́n
th́ người ta chỉ thấy ông như nhà sư hết sức đăng trí và hiền hậu
khiến ai cũng có thể đến gần. Thực ra, ông là một Thiền gia sở học
uyên thâm và được tôn kính vào bậc nhất. Tương truyền ông là con
của một vị Thiên hoàng và vào chùa từ năm 6 tuổi, ngay từ thời thơ
ấu, đă biểu lộ được tài năng thi ca thiên phú. Cũng vào lúc đó,
ông bắt đầu khổ tâm v́ đă mang những mối hoài nghi căn bản và sâu
sắc về tôn giáo và kiếp người. “Nếu Thần Phật hiện hữu, xin các
ngài hăy giúp tôi. Nếu không có ai cả, tôi sẽ gieo ḿnh xuống đáy
hồ này làm mồi cho cá!” Sau khi để lại những lời này, Ikkyuu đă
t́m cách gieo ḿnh xuống hồ nhưng bị người ta giữ lại được. Vào
một dịp khác, các bạn đồng tu với ông ở Daitokuji (Đại Đức Tự) bị
kỳ thị sau sự cố là có một tu sĩ trong chùa tự sát.”Ḷng nặng trĩu
như mang một gánh nặng trên vai”, ông trở về chùa và định tuyệt
thực cho đến chết.
Ikkyuu đă đặt nhan đề cho tập thơ của ḿnh là Cuồng Vân Tập
(Kyôunshuu) và lấy bút hiệu là Cuồng Vân (Kyôun). Trong tập thơ
này và những tập cùng tên về sau (tục biên) đă có những bài Hán
thi và Thiền thi kiệt xuất của ḍng văn học trung đại Nhật Bản.
Một trong những điều gây ngạc nhiên nhất là chúng mang màu sắc
nhục cảm (diễm thi) và đề cập đến cả chuyện kín chốn pḥng the
(khuê pḥng bí sự). Qua những hành động như ăn cá, uống rượu (ngư
hàng tửu tứ) hay gần nữ sắc (dâm phường), ông muốn vượt ra khỏi
những qui luật (cấm chế giới luật) của cửa Thiền thời đó để t́m sự
giải thoát. Từ đó, ông quay lưng lại với các h́nh thức tôn giáo
(h́nh hài) có sẵn và đi t́m nơi Thiền, sự tái sinh và khẳng định
yếu tính của sự sống cũng như ư nghĩa cuộc đời trong một thời buổi
chiến tranh,
khi mọi giá trị đạo đức (thế đạo nhân tâm) đều bị băng hoại.
Ngôi chùa của Ikkyuu là Daitokuji (Đại Đức Tự) nằm trong khu
Murasakino ở Kyôto vẫn c̣n là một trung tâm (bản sơn) của Trà đạo
và những mẫu thư pháp (mặc tích) được ngưỡng mộ của ông vẫn c̣n
được treo trong một hốc pḥng của trà thất. Bản thân tôi cũng có
giữ hai mẫu thư pháp của Ikkyuu. Một bức chỉ viết độc có một hàng:
“Vào cửa Phật th́ dễ, vào cửa Ma (vương) mới khó”.(Phật giới nhập
dị, Ma giới nhập nan). Những chữ này gieo ấn tượng mạnh cho tôi
nên mỗi khi có ai xin thủ bút, tôi thường chép câu này. Hai bức
liễn ấy có thể đọc theo nhiều cách và rất khó chọn cách nào nhưng
một khi kết hợp được thế giới của Ma vương với thế giới của Phật,
tôi cảm được ngay Thiền ư của Ikkyuu. Thực ra, đối với nhà nghệ sĩ
th́ trên con đường đi t́m lư tưởng Chân, Thiện, Mỹ, sự sợ hăi cũng
như lời khấn nguyện đối với thế giới của Ma vương thấy qua mấy chữ
của bức liễn này cũng chỉ là một thứ định mệnh khó ḷng tránh
khỏi. Lư do là thế giới ấy có thể lộ ra ngoài bề mặt nhưng có khi
lại tàng ẩn bên trong. Và thế giới của Ma vương không phải là chỗ
mà những kẻ yếu bóng vía có thể vào được dễ dàng.
Phùng Phật sát Phật. Phùng Tổ sát Tổ.
Đây là một phương châm (Thiền ngữ) nổi tiếng của Thiền tông. Phật
giáo đă được chia thành hai tông phái chính: một chủ trương được
cứu bằng ḷng tin vào Đức Phật (Tha lực bản nguyện), một chủ
trương tự t́m cách cứu ḿnh (Tự lực bản nguyện). Dĩ nhiên, v́ lẽ
ấy mà Thiền tông – với chủ trương tự cứu – mới đưa ra những câu
nói có tính cách khắt khe, ác liệt như thế. Trong khi ấy, giáo chủ
tông Shingon (Chân Ngôn) là Shinran (Thân Loan, 1173-1262) với chủ
trương nương cậy vào Tha lực, đă nói: “Người Thiện sẽ thác sinh
vào Cực Lạc nhưng số người Ác được vào cơi Cực Lạc c̣n đông đảo
hơn nhiều”. Quan điểm này có một cái ǵ đó giống cách nói của
Ikkyuu khi ông chủ trương có hai thế giới (Phật giới và Ma giới)
cùng tồn tại và ở bên trong mỗi thế giới ấy, hăy c̣n nhiều khuynh
hướng khác. Shinran lại tuyên bố: “Ta sẽ không thu nhận đồ đệ nào
cả!”
“Nếu các ngươi gặp Phật, hăy giết Phật. Nếu gặp một tổ sư, hăy
giết tổ sư!” “Ta sẽ không thu nhận một đồ đệ nào cả!”. Hai thông
điệp này có lẽ cho thấy nghệ thuật là cái có số phận rất nghiệt
ngă.
Trong Thiền tông, người ta không sùng bái h́nh tượng (ngẫu tượng).
Tuy trong chùa Thiền có đặt tượng Phật nhưng trong Thiền pḥng -
nơi mọi người tọa thiền - th́ không hề có h́nh ảnh chư Phật (Phật
họa) hay bút tích kinh văn. Thiền sinh ngồi hàng giờ không nói
năng, không nhúc nhích (vô ngôn, bất động), mắt họ nhắm nghiền
(minh mục). Đây là lúc họ rơi vào trạng thái thoát trần (vô niệm
vô tưởng), rủ sạch mọi ư tưởng và quên mất cái tôi (vong ngă) để
đi đến trạng thái Vô. Chữ Vô ở đây không phải là Hư vô
(Nothingness, Emptiness, theo E.S.) như người Tây phương nghĩ.
Ngược lại, nó là một vũ trụ tinh thần (tâm) cho phép mọi thứ chứa
bên trong (vạn hữu, vô tận tàng) có thể liên lạc với nhau một cách
tự do tự tại, biến hóa, kết hợp không giới hạn, không bờ bến (vô
biên, vô nhai). Tuy nhiên, vẫn cần đến sự có mặt của những vị
thiền sư chỉ đạo để qua những vấn đáp (mondo), thiền sinh thấu
hiểu được. Việc học tập các tác phẩm cổ điển (kinh văn / ngữ lục?)
dĩ nhiên rất cần thiết nhưng chủ yếu vẫn là việc ṃ mẩm suy tư để
tiến tới giác ngộ (satori) tùy theo sức lực mỗi người. Ngoài ra,
khi tiếp cận vấn đề, thiền sinh sẽ không vận dụng luận lư nhưng
dùng trực giác, không nhờ ai dạy nhưng bản thân tự giác ngộ. Chân
lư đạt được không thông qua chữ viết (bất lập văn tự) hay lời nói
(ngôn ngoại). Phải đi đến chỗ cực độ “Mặc như lôi” (Im như tiếng
sấm) như lời của Duy Ma cư sĩ (Duy Ma Cật) trong Kinh Duy Ma
(Vimalakirti Mirdesa Suutra).Tương truyền Đạt Ma đại sư
(Bodhidharma), một hoàng tử Nam Ấn sống vào thế kỷ thứ 6 và đă lập
ra ḍng Thiền Trung Hoa, sau chín năm nh́n vách để trầm tư trong
động đá (Diện bích cửu niên) mới đi đến giác ngộ. Như thế, phương
pháp thiền định bằng tọa thiền đă bắt đầu từ ông vậy.
Sau đây là hai bài đạo ca của Ḥa thượng Ikkyuu:
Tôi hỏi người mới trả lời,
Nếu tôi không hỏi th́ người lặng thinh.
Tổ Đạt Ma ơi,
Phải có chi trong tâm ḿnh?
Tâm là ǵ vậy, biết không?
Phải chăng tiếng gió rừng tùng trong tranh?
Linh hồn của hội họa Đông phương nằm ở đây. Cốt tủy của tranh thủy
mặc (sumie, mặc hội) nằm trong khoảng để trắng (dư bạch), sự tỉnh
lược nét bút (tỉnh bút) và những ǵ họa sĩ không đem ra vẽ. Theo
lời phát biểu của họa gia Trung Quốc Chin Nung
th́ “Nếu bạn vẽ một cành cây cho thật đẹp th́ bạn sẽ nghe được
tiếng gió thổi qua nó (Năng họa, nhất chi hữu phong thanh). Và
Thiền sư Dôgen (Đạo Nguyên) cũng có lần nói: “Không phải là nó
giống trường hợp của người ngộ đạo khi nghe tiếng trúc và ḷng
sáng sủa ra khi nh́n thấy những cánh hoa đào hay sao?” (trúc thanh
ngộ đạo, đào hoa tâm minh).
Ikenobô Sen.ô (1532-54), một nhà hoa đạo, chuyên gia ikebana, có
lần nói (v́ nhận xét này nằm trong Kuden
của ông) như sau: “Chỉ cần dăm cánh hoa và một chút ít nước, ta có
thể gợi cho người xem cái đại thể (omomuki) của sông của núi
(giang sơn sổ tŕnh).Trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, cảnh sơn thủy
nhỏ bé đó sẽ nở bừng ra, thiên biến vạn hóa. Giống như có pháp
thuật của thần tiên vậy”. Nghệ thuật viên đ́nh của Nhật Bản cũng
không khác. Khu vườn Nhật dĩ nhiên tượng trưng cho cái rộng lớn
của thiên nhiên. Trong khi vườn Tây phương phần lớn được kiến tạo
sao cho cân đối (symmetrical) th́ vườn Nhật thường bất cân xứng
(asymmetrical) bởi v́ sự bất cân xứng mới có sức mạnh để tượng
trưng cho cái bao la và khả năng sinh sôi nẩy nở. Sự bất cân xứng
này vốn dựa trên một thăng bằng được đặt để bởi người Nhật là
những kẻ có cảm tính tinh tế, vi diệu. Không có ǵ có thể phức
tạp, đa dạng và chú ư đến từng chi tiết cho bằng nghệ thuật viên
đ́nh Nhật Bản. Ngoài ra, c̣n có một h́nh thức tạo viên mang tên
Kare sansui (Khô sơn thủy) với một quần thể chỉ có đá. Sự sắp xếp
các phiến đá này với nhau (ishikumi) diễn tả được núi sông dù
chúng không có mặt, lại c̣n gợi cho ta h́nh ảnh của những đợt sóng
đại dương đang xô vào ghềnh, Nếu sử dụng phương pháp thu gọn đó
đến mức tối đa, khu vườn Nhật Bản sẽ trở thành vườn cây cảnh thu
gọn (bonsai) hay ḥn non bộ (bonseki) nằm trên cạn.
Người phương Đông đă dùng chữ sơn thủy” (sansui) để nói về cảnh
sắc thiên nhiên, ví dụ trong hội họa (tranh sơn thủy chính là
tranh vẽ phong cảnh) hay trong viên nghệ (như khô sơn thủy, NNT),
rồi từ đó nó dẫn đến cả những khái niệm như hoang liêu (sabita
sama), buồn bă tiêu điều (sabishii, misuborashii koto). Thế nhưng
hai trạng thái cô tịch (wabi) và sầu bi (sabi) vốn nằm trong 4
nguyên tắc Wa, Kei, Sei, Jaku (Ḥa, Kính, Thanh, Tịch) mà Trà đạo
coi trọng, dĩ nhiên cũng là biểu tượng của sự phong phú ẩn tàng
trong tâm hồn. Ngoài ra, căn pḥng cực kỳ chật hẹp và đơn sơ của
trà thất, ngược lại, có thể chứa đựng tất cả sự đẹp đẽ và thanh
nhă của một không gian vô tận.
Một đóa hoa đă đủ cho ta thấy vẻ đẹp của cả trăm đóa hoa, Vị đại
sư trà đạo và hoa đạo của thế kỷ 16 Sen no Rikyuu (Thiên, Lợi Hưu,
1522-91) đă dạy rằng việc sử dụng những đóa hoa đă măn khai là một
điều lầm lẫn. Ngay giữa thời đại chúng ta, trong cái hốc
(tokonoma) của gian pḥng cử hành Trà đạo, người ta chỉ trang trí
b́nh cắm hoa với độc một đóa hoa và hoa đó phải c̣n đang nụ.Vào
mùa đông, họ trưng bày một thứ hoa đặc biệt của mùa đông, chẳng
hạn chọn một loại hoa trà (tsubaki, camellia) có tên là tên là
Shiratama (Bạch ngọc) hay Wabisuke (Kẻ làm bạn lúc cô đơn). Đó là
giống hoa trà nổi tiếng nhất trong đám hoa trà v́ màu nó rất trắng
và nụ rất bé. Chỉ mỗi một búp được trưng trong cái hốc ở góc pḥng
mà thôi.Màu trắng là màu thanh nhă nhất trong các màu và bất luận
màu nào cũng phải chứa nó cả. Trên búp hoa, luôn luôn phải có
sương đọng. Họ hay vẩy một vài giọt nước lên búp hoa cho ướt. Vào
tháng 5, loại hoa trưng bày huy hoàng hơn cả v́ mẫu đơn sẽ được
đem cắm vào lọ sứ. Lần này cũng vậy, chỉ được phép cắm một nụ và
lúc nào nó cũng phải điểm sương. Không chỉ rảy vài giọt nước lên
búp hoa mà lọ sứ lúc nào cũng phải ướt nước.
Trong những độc b́nh dùng để cắm hoa, loại thượng hạng vẫn là độc
b́nh cổ của vùng Iga (Ko-Iga). Chúng được chế tạo từ thế kỷ 15 đến
thế kỷ 16 và rất cao giá. Khi những b́nh sứ ấy được đem nhúng vào
nước, lần đầu tiên màu sắc và vẻ sáng của nó mới lộ ra sự tươi
tắn. Đồ gốm Iga được nung ở nhiệt độ rất cao. Tro của rơm và khói
từ nhiên liệu dùng để đốt, hoặc rơi xuống hoặc chảy tràn trên thân
b́nh. Và như thế, đến khi nhiệt độ hạ dần, nó sẽ biến thành một
lớp men bóng láng. Sự biến hóa ấy không phải kết quả do thợ gốm
chủ tâm tạo ra nhưng đến từ phản ứng thiên nhiên xảy ra trong ḷ
nên có thể xem là nhờ sức ḷ mà có được những mô h́nh đa dạng trên
da gốm. Lớp da gốm Cổ Iga sần sùi, thô phác và mạnh mẽ, một khi ăn
nước, sẽ trở nên đẹp lóng lánh. Nó lại giao ḥa để có cùng một
nhịp thở với những giọt sương đọng trên búp hoa. Bát uống trà cũng
phải được tráng bằng nước trước khi đem ra dùng để cho nó có một
vẻ tươi nhuận th́ người uống mới có thể thưởng thức đầy đủ hương
vị.
Trong một trường hợp khác, nhà hoa đạo Ikenobô Sen.ô lại nhận xét
(vẫn thấy trong bí lục nói về vẻ đẹp (hana) mới mà ông đă t́m ra
cho môn phái của ḿnh) rằng b́nh hoa bị vỡ hay cành hoa khô vẫn có
vẻ đẹp (hana) riêng của chúng và người ta có thể ngộ đạo khi khám
phá vẻ đẹp đó. Ông bảo: “Cổ nhân nhiều người đă học cắm hoa để t́m
hiểu lẽ đạo” . Dưới ảnh hưởng của Thiền, ư thức thẩm mỹ nơi người
Nhật đă được đánh thức. Và tấm ḷng điêu tàn của họ, những người
đă phải sống qua một cuộc nội chiến lâu dài
gây nhiều tang tóc, chắc cũng phải giống thế mà thôi.
Truyện Ise (Ise Monogatari) – tác phẩm của thế kỷ thứ 10 – là một
tập truyện thơ kết hợp nhiều đoạn nhỏ, ra đời sớm nhất ở Nhật.
Nhiều đoạn có thể xem như một truyện ngắn độc lập. Trong một đoạn
như vậy, có cảnh nhà thơ Ariwara no Yukihira (Tại Nguyên, Hành
B́nh, 818-893)
tiếp khách và nhân đó cắm hoa:
“Vốn là người có tâm hồn nên ta đă chuẩn bị cái ṿ lớn để cắm một
cây hoa tử đằng loại hiếm có. Chùm hoa buông rủ dài đến 3 shaku 6
sun.
Chùm hoa này đẹp quyến rũ đến nỗi người ta ngờ rằng không biết nó
có thực hay không. Theo tôi th́ nó là một biểu tượng của văn hóa
thời Heian (thế kỷ 8-12). Hoa tử đằng (wisterias, glycines) có vẻ
đẹp thanh nhă theo phong cách Nhật Bản và của người phụ nữ. Khi
hoa buông lơi và đong đưa theo làn gió nhẹ th́ không có vẻ yêu
kiều (fuuzei, phong t́nh) nào có thể sánh bằng. Mềm mại, thon thả,
e ấp, thoáng ẩn thoáng hiện giữa đám lá xanh đầu hạ, nó hiện ra
trước mắt ta với một vẻ đẹp nhói tim, thường được người Nhật thu
gọn trong cái tên là Mono no aware (Niềm bi cảm do sự vật gợi ra).
Buồng tử đằng cao cả thước dĩ nhiên là một cảnh tượng hoa lệ dị
thường. Sau khi tiếp thu văn hóa nhà Đường, Nhật Bản đă biết tiêu
hóa nó và làm nở rộ văn hóa Heian cách đây một ngh́n năm về trước.
Giống như buồng hoa tử đằng nở ra lộng lẫy, nền văn hóa ấy và cái
đẹp Nhật Bản đă dần dần hiện ra như một chứng tích thần kỳ. Th́ ca
Nhật Bản đă có Kokinshuu (Cổ Kim Tập, 905), tập thơ Waka đầu tiên
soạn theo sắc chiếu (chokusen =sắc soạn), tiểu thuyết đă có Truyện
Ise (Ise Monogatari), Truyện Genji (Genji Monogatari) của Murasaki
Shikibu (khoảng 950 - khoảng 1002), tùy bút với Chẩm Thảo Tử
(Makura Sôshi) của Sei Shônagon (khoảng 966-1017, theo tài liệu
mới nhất) vv..., sau đó, những tác phẩm cổ điển trứ danh tột bậc
của Nhật Bản đă theo nhau xuất hiện. Truyền thống thẩm mỹ Nhật Bản
sau khi được xây đắp đă không chỉ ảnh hưởng tới 800 năm văn học
của đời sau mà c̣n chi phối cả chúng nữa. Đặc biệt Truyện Genji là
tác phẩm xuyên suốt cổ kim, được xem như bộ tiểu thuyết tuyệt đỉnh
của Nhật Bản và cho đến ngày nay, vẫn không có cuốn tiểu thuyết
nào bắt kịp. Trường thiên tiểu thuyết có màu sắc cận đại này được
viết ngay thế kỷ thứ 10 - một chuyện lạ trên thế giới – đă được
biết đến rộng răi ở hải ngoại. Hồi mới lớn, tuy chưa thông thạo cổ
văn, tôi đă t́m đọc rất nhiều tác phẩm cổ điển của thời Heian,
trong đó th́ Truyện Genji đă thấm sâu vào ḷng tôi hơn cả. Sau khi
bộ tiểu thuyết ấy ra đời, nhiều tiểu thuyết gia Nhật Bản đă v́
ngưỡng mộ danh tác này mà bắt chước hoặc chuyển thể và chuyện như
thế đă kéo dài hàng mấy trăm năm. Ảnh hưởng của Truyện Genji trong
thơ Waka là điều đương nhiên nhưng từ các mỹ nghệ phẩm cho đến
nghệ thuật vườn cảnh, đâu đâu cũng thấy nó đă thể hiện một cách
rộng răi, thâm sâu và tiếp tục là nguồn cảm hứng lâu dài cho việc
sáng tạo cái đẹp.
Murasaki Shikibu, Sei Shônagon rồi đến Izumi Shikibu (Ḥa Tuyền,
Thức Bộ, năm sinh 979 - năm mất không rơ) cũng như Akazome Emon
(Xích Nhiễm Vệ Môn, năm sinh khoảng 957 -1041)...đều là những nhà
thơ Waka phái nữ nổi tiếng và có chức phận trong hậu cung. Điều đó
khiến cho văn hóa thời Heian nói chung có tính cách cung đ́nh và
nhiều nữ tính. Lúc Truyện Genji và Chẩm Thảo Tử ra đời, văn hóa
vương triều đă bước vào thời toàn thịnh nghĩa là chín muồi và đang
đi xuống phía bên kia con dốc. Sau khi đạt đến tuyệt đỉnh vinh
quang, đă thấy phảng phất màu sắc buồn bă, u sầu nhưng chính lúc
này, văn hóa ấy mới thực sự măn khai.
Thế rồi khi vương triều suy thoái, quyền lực của quân chủ và quí
tộc chuyển qua tay giới vũ sĩ th́ Nhật Bản bước vào thời đại
Kamakura (1192-1333). Chính trị quân nhân (vũ gia) tiếp tục gần 7
thế kỷ cho đến năm Meiji nguyên niên (1868). Tuy vậy, điều đó
không có nghĩa là định chế Thiên hoàng và văn hóa vương triều bị
mai một. Thi pháp của Shin-Kokinshuu (Tân Cổ Kim Tập, 1205). tuyển
tập thơ soạn theo sắc chiếu ra đời vào đầu thời Kamakura đă thấy
có nhiều tiến bộ hơn thi pháp của Kokinshuu (Cổ Kim Tập) của thời
Heian về mặt kỷ xảo. Tuy bị sa vào tệ hại thích chơi chữ (kotoba
asobi, verbal dalliance) nhưng nó biết nhấn mạnh tính cách yêu
kiều diễm lệ (yôen), u huyền ( yôgen) và dư t́nh (yojô), cộng thêm
với huyễn tưởng do cảm giác tạo ra (kankaku no gensô) nên Waka
chẳng khác nào thơ cận đại của trường phái tượng trưng (modern
symbolist poetry). Có thể xem thi tăng Saigyô (Tây Hành, 1118-90)
là nhà thơ Waka tiêu biểu, kết nối được thi phong của hai thời
Heian và Kamakura này vậy.
Trong mơ, em thấy bóng chàng
Phải chăng mong nhớ đă làm em mơ.
Nếu gặp chàng được bây giờ,
Em đâu muốn tỉnh giấc mơ làm chi.
Mỗi đêm, từng mỗi giấc mơ,
Đến bên chàng, chẳng một giờ nào sai.
Tiếc thay, tỉnh giấc mơ mai,
Mới hay gặp gỡ có dài măi đâu.
Hai bài thơ trên là của nữ thi nhân Ono no Komachi, nhà thơ hàng
đầu trong Kokinshuu, tuy viết về mộng nhưng phải nói là hết sức
hiện thực. Sau đó, quá thời của Shin-Kokinshuu, th́ cách mô tả
sinh động (shasei = tả sinh, straightforward realism, theo E.S.)
đó càng thêm tinh tế.
Mấy bài thơ sau đây là của Hoàng thái hậu Eifuku (Vĩnh Phúc Môn
Viện, 1271-1342), người sống vào cuối thời Kamakura bước sang đầu
thời Kamakura (nghĩa sau thời của tập Shinkokin-shuu ít lâu).
Chúng trở thành biểu tượng cho nỗi buồn thương (ai sầu) của người
Nhật Bản. mà theo tôi, c̣n hiện thực hơn một bậc:
Bầy sẻ hót trong lùm tre,
Chính khi bóng nắng chiều về in lên.
Đất trời nhuộm sắc thu sang.
Gió thu ră cánh hagi,
Trên tường bóng nắng nḥa đi lần hồi.
Trong sân, hơi lạnh thấm người.
Người viết mấy vần thơ như “Trắng tinh tuyết lạnh ngày đông” (ngài
Dôgen) hay “Trăng cùng sánh bước với ta trên đường” (ngài Myôe)
đều đă sống vào khoảng thời gian Shin Kokinshuu ra đời. Hai ngài
Myôe và Saigyô đều có làm thơ (uta) tặng đáp và cũng có những thi
thoại (uta-monogatari) liên quan tới những cuộc thảo luận về thơ
giữa họ. Sau đây là điều đă chép trong tiểu sử của Myôe (Myôeden
=Minh Huệ Truyện) do Kikai (Hỉ Hải), đệ tử ngài:
“Pháp sư Saigyô thường đến thảo luận về thi ca (với Myôe). Ông cho
biết quan điểm về thơ của ông khác xa lối suy nghĩ thông thường.
Đứng trước hoa anh đào, tiếng chim cuốc, trăng và tuyết hay bất cứ
hiện tượng thiên nhiên nào, th́ đôi mắt và đôi tai ông đều trống
không (không giữ một vọng tưởng nào cả). Đây không phải là những
lời nói chân thực (chân ngôn) hay sao? Khi ông vịnh hoa anh đào
th́ trong đầu ông, sẽ không có hoa anh đào. Khi ông làm thơ về
trăng th́ trong đầu, ông không nghĩ về trăng. Ông làm thơ khi có
cơ hội (tùy duyên) hay khi có nguồn hứng (tùy hứng).Khi cái cầu
vồng màu đỏ bắc ngang trời, bầu trời mang sắc đỏ (hư không sắc).
Vào lúc b́nh minh, bầu trời cũng mang ánh sáng trắng (hư không
minh) của mặt trời mới mọc. Bầu trời tự thể là một vật trống không
(hư không). Nó không thể tự sáng và cũng không phải là một vật
biết bắt màu. Nhờ có cái tâm trống không như thế, bầu trời mới đem
đến được cho mọi vật đủ loại màu sắc và vẻ đẹp (fuuzei =phong
t́nh) khác nhau. Riêng nó th́ không giữ lại vết tích nào cả.Thơ
như vậy mới thể hiện được h́nh hài của Như Lai tức là chân lư tối
thượng.
Nơi đây chúng ta thấy cái trống không (Hư Không), cái Vô của
phương Đông. Những tác phẩm của tôi đă được đánh giá là tác phẩm
của sự trống không (Hư Không, Emptiness) nhưng không nên xem nó là
Hư Vô (Nihilism) như cách nh́n phương Tây. Cơ sở tinh thần của hai
bên vốn có một sự dị biệt lớn. Nhan đề bài thơ bốn mùa Dôgen là
“Bản lai diện mục” (Innate Reality, Mắt mũi lúc chưa sinh). Ngay
cả khi ông ca ngợi các đẹp của 4 mùa, ông cũng đă thấm nhuần tư
tưởng nhà Thiền.
Tháng 12 năm 1968
Kawabata Yasunari
Dịch ngày 13/1/2021 (NNT)
Tư liệu tham khảo:
-Kawabata Yasunari, Utsukushii Nihon no Watashi (Tôi của
Nhật Bản xinh đẹp), Diễn từ nhận Giải Nobel Văn Học ngày
12/12/1968 và bản dịch sang Anh ngữ của Edward G. Seidensticker
(Japan the Beautiful and Myself = Nhật Bản xinh đẹp và
tôi). Cả hai đều đăng trong Utsukushii Nihon no Watasahi, Tuyển
tập tùy bút và nghị luận của Kawabata do Kadokawa Bunko, Tôkyô
xuất bản ngày 25/4/ 2015 (sơ bản), tái bản lần thứ 7 ngày
15/10/2020. Nguyên tác Nhật ngữ và bản dịch chính thức Anh ngữ của
The Nobel Foundation.