|

Cuộc sống ở Nhật bản
Nguyễn Đ́nh Đăng
Nguồn
: Nguyen Dinh Dang's
Home Page
|
Rào trước:
Viết bài này, tôi không hề có ư định nói về cuộc sống
của người Việt Nam nói chung tại Nhật. Tôi chỉ nêu nhận xét chủ quan
của riêng tôi đối với những điều tai nghe mắt thấy tác động trực
tiếp đến cuộc sống của cá nhân và gia đ́nh tôi tại Tokyo. V́ thế nếu
các ư kiến của tôi khiến một số quư vị không đồng t́nh, mong các quư
vị bỏ quá. |
|
Trước khi tới xứ sở của hoa anh đào, tôi đă sống 18
năm thời niên thiếu của ḿnh rồi sau này làm việc vài năm tại Việt
Nam, 11 năm tại Liên xô cũ, một thời gian tại châu Âu, và thăm một
số trường đại học tại Hoa kỳ. Cuộc sống ở nhiều nước đă giúp tôi
kiểm chứng trong một chừng mực nhất định độ tin cậy của câu ngạn ngữ
tôi thường nghe thời c̣n là sinh viên tại Nga:
Ba năm đi Pháp bằng một giáp đi Nga.
Năm năm ở Tây bằng một giây ở Nhật.
Theo tôi, cái “may mắn” lớn nhất của thần dân xứ Phù
Tang có lẽ là nước Nhật đă thua trong Đại chiến thứ Hai.
Về mặt tâm lư, thất bại đó khiến người Nhật cảm
thấy nhục nhă, và quyết tâm đưa dân tộc ḿnh vươn lên về mọi mặt để
“rửa hận”. Thất bại đó cũng khiến dân tộc Nhật trở nên khiêm
tốn, nhún nhường hơn trong giao tiếp v́ có lẽ họ không có “chiến
thắng oanh liệt” nào để họ có thể “vênh váo” với thế giới, và quá
khứ thê thảm của Đệ Nhị Thế Chiến không để lại ǵ để họ có thể trở
thành “ăn mày dĩ văng” [1]. Về chính trị, thất
bại đó khiến nước Nhật ngay sau chiến tranh “bị” đặt dưới sự kiểm
soát cuả Hoa kỳ. Từ đó Nhật bản được Hoa
kỳ giúp đỡ về mọi mặt và trở thành đồng minh chặt chẽ của Hoa kỳ.
Bản Hiến pháp của Nhật sau Đại chiến thứ Hai là do người Mỹ viết năm
1946 [2]. Đó là một bản hiến pháp hết sức dân
chủ. Người Nhật, từ ông thủ tướng
(và gia đ́nh, họ hàng ông ta) đến cậu học sinh tiểu học, tất cả đều
rất tôn trọng pháp luật và thực hiện đúng Hiến pháp.
Đó là điều mấu chốt đưa đến những ưu điểm dưới
đây.
1)
Cuộc sống ở Nhật rất an toàn
Hồi c̣n đi học, tôi đọc sách thấy nói mô h́nh của xă
hội giàu có thanh b́nh là thời vua Nghiêu vua Thuấn bên Tàu, tiền
rơi ngoài đường không có ai thèm nhặt.
Lúc đó tôi đă tự hỏi không biết bao giờ và ở đâu
mới lại có được một xă hội như vậy. Nhật
bản là câu trả lời khẳng định cho tôi. Ở đây nếu đi tàu mà
bạn vô t́nh quên túi (trong đó có thể có tiền, máy ảnh, điện thoại
di động v.v.) trên tàu, bạn chỉ cần báo cho nhân viên nhà ga. Sau đó
họ sẽ gọi điện nhắn bạn đến nhận v́ thông thường là họ sẽ t́m thấy
đồ bạn để quên, do không có ai đụng đến nó cả.
Một lần chúng tôi đi tàu ra sân bay. Sau khi chúng tôi lên
tàu rồi, trong lúc chờ tàu khởi hành, bỗng một nhân viên nhà ga xuất
hiện, tay dơ cao một cái túi và nói to đủ để tất cả hành khách đều
nghe thấy: “Cái túi này của ai đây?”.
Vợ tôi giật ḿnh nhận ra đó chính là túi của
ḿnh để quên trên ghế pḥng đợi tàu, vội chạy tới nhận, chỉ vài giây
trước khi tàu chuyển bánh. Một lần khác,
vợ tôi đi chợ và đánh rơi ví. Trong ví có tiền, giấy căn cước,
ch́a khóa nhà, v.v. Hai hôm sau, người gác cửa báo xuống nhận.
Người nhặt được ví và mang đến trả tận nơi là
một sinh viên. Con trai tôi có lần đi chơi cũng đánh rơi ví
trong đó có thẻ học sinh và ch́a khoá vào nhà.
Mấy hôm sau, những thứ cháu đánh rơi đă được ai đó t́m thấy và gửi
đến địa chỉ nhà tôi mà không đề địa chỉ người gửi.
Năm 1999 chúng tôi tổ chức một hội thảo quốc tế
tại viện nghiên cứu vật lư hóa học Nhật bản (gọi tắt là viện RIKEN)
– nơi tôi làm việc từ 1995 tới nay.
Một nhà vật lư Italia đại biểu
hội nghị, trong khi đi chơi ở
Tokyo, đă đánh rơi hộ chiếu của ḿnh.
Anh ta hết sức hốt hoảng v́ chỉ sau hai ngày anh ta sẽ phải bay về
nước. Chúng tôi nói anh cứ yên trí, gọi điện báo
cho Đại sứ quán Italia, rồi ngồi chờ. Quả
nhiên ngày hôm sau, Đại sứ quán Italia gọi điện nói có người đă nhặt
được hộ chiếu của anh và gửi đến Đại sứ quán, anh chỉ việc đến nhận
lại hộ chiếu. Anh ta thốt lên: “Thật là không thể tin được!”.
Anh đă lên đường về nước
đúng như lịch tŕnh.
Mặc dù đôi khi đọc báo hay xem TV tôi cũng thấy tin
nói về các vụ kẻ trộm đột nhập nhà ở, kẻ cướp cướp nhà băng, kẻ cắp
móc túi người say rượu trên các chuyến tàu vắng khách về khuya,
nhưng tôi chưa hề bị hoặc chứng kiến bất cứ một vụ ăn cắp vặt nào ở
nơi công cộng tại Nhật, kể cả trên những chuyến tàu chật cứng người
vào giờ đi làm sáng sớm. Mới đến Nhật người ta có thể lấy làm lạ là
mọi người ra đường để đồ đạc của ḿnh rất hớ hênh: ví tiền bỏ túi
sau không cài, nhô cả ra ngoài, điện thoại di động nhét túi sau với
cả một đám dây trang trí như mời gọi kẻ móc túi, vào tiệm ăn th́ vứt
túi lên ghế rồi bỏ đấy đi nhà vệ sinh, mà không hề sợ là túi sẽ “bốc
hơi” lúc ḿnh vắng mặt. Sau khi đă sống ở Nhật một thời gian, người
ta hiểu rằng sẽ không có chuyện ǵ xảy ra với những “sơ ư” đó, v́ xă
hội ở đây rất an toàn.
Hầu như không có ai động đến sở hữu của người
khác. Đi chơi ban đêm mà bị trấn lột là chuyện khó xảy ra ở
Tokyo.
Người Nhật không ồn ào, không nói chuyện oang oang
hoặc gọi nhau í ới ngoài phố, và tất nhiên là tôn trọng luật đi
đường.
Nếu họ chẳng may đụng phải nhau, th́ cả hai cùng cúi xuống xin lỗi
nhau với một thái độ thực sự thành khẩn. Xe cộ rất nhiều nhưng hầu
như không nghe thấy tiếng c̣i xe hơi. Nếu
xe hơi hay xe máy quệt phải nhau thi họ
cũng từ tốn giàn xếp hoặc chờ cảnh sát tới. Tôi có lần chứng kiến
một xe hơi đi từ hẻm ra đường lớn, chẳng
may đụng phải một thanh niên đang phóng xe máy phân khối lớn. May
thay anh ta không việc ǵ, v́ nhảy vọt được ra khỏi
xe, như trong phim Holywood vậy. Chỉ có
xe máy là bẹp. Người lái
xe hơi chắc chắn là sai.
Ngay cả khi đó, anh thanh niên, trông rất “ngầu”,
cũng không hề to tiếng. Cả hai bên để nguyên hiện trường chờ
cảnh sát tới giải quyết.
2)
Quan chức hành chính và cảnh sát thực sự là các đầy
tớ của nhân dân
Điều 15 trong Hiến pháp của Nhật quy định “tất cả các
quan chức và nhân viên hành chính là đầy tớ của toàn thể cộng đồng”
[2].
Bộ máy hành chính của Nhật cũng khá cồng kềnh,
và mọi việc giấy tờ không phải khi nào cũng nhanh. Tuy nhiên,
những quan chức và nhân viên hành chính bao giờ cũng cố gắng giải
quyết công việc một cách tốt nhất cho dân, với một thái độ rất lịch
sự, niềm nở, kể cả khi “dân” là một cậu bé kém họ hai ba chục tuổi.
Nếu không giải quyết được ngay ngày hôm đó, th́ họ bao giờ cũng hẹn
chính xác ngày có kết quả, và không bao
giờ sai hẹn. Họ hiểu rất rơ là họ làm việc để
phục vụ nhân dân. Lương của họ là do dân đóng thuế mà có. Bất
cứ người dân nào cũng có thể phát đơn kiện nếu họ phục vụ kém, và họ
sẽ bị thải hồi ngay. Bất lịch sự, cửa quyền, sai hẹn, chứ chưa nói “ăn
hối lộ”, là điều xa lạ đối với hệ thống hành chính cơ sở ở đây.
Không bao giờ có hiện tượng nhân viên hành chính
lại dám “lên lớp” cho người dân.
Con trai tôi có lần thốt lên: “Công an ở Nhật hiền
thật, bố nhỉ!”. Đấy là sau cái lần cháu
đi chơi đánh mất ch́a khoá xe đạp. V́ lúc
đó đă muộn, các hiệu chữa xe đạp đă nghỉ,
nên cháu phải bê xe đến đồn cảnh sát gần đấy cầu cứu các chú cảnh
sát. Họ phải dùng ḱm cộng lực cắt khóa để cháu đạp
xe về nhà. Nói chung,
tôi chưa gặp trường hợp nào cảnh sát giao thông chặn người xét hỏi
vô cớ giữa đường, huống hồ là hành hung người dân. Họ luôn từ tốn,
lịch sự chỉ đường kỹ càng khi được hỏi, v́ các đồn cảnh sát thông
thường là nơi người đi đường vào hỏi đường. Họ
có đầy đủ bản đồ chi tiết của khu vực họ. Chuyện cảnh sát t́m
cách chặn xe để phạt tiền là chuyện không
có ở Nhật. Người lái xe bị phạt nếu họ thật sự phạm luật, gây tai
nạn, v.v. Cảnh sát Nhật không được phép dùng vũ khí nóng (như súng)
để uy hiếp dân chúng.
Trong những cuộc dẹp rối loạn trật tự công cộng, họ chỉ được dùng
quá lắm là gậy bằng gỗ.
3)
Khách hàng thực sự là vua
Ở Nhật người bán hàng hết sức lễ phép và thực sự
chiều chuộng khách hàng, cho dù khách hàng chỉ xem, không mua ǵ,
hoặc giá trị của thứ mua chỉ vài trăm yên (vài USD).
Không bao giờ người bán hàng nhận xét, b́nh phẩm
về sự lựa chọn của khách hàng. Sau khi khách hàng mua, trả
tiền xong, họ đều gói ghém hết sức cẩn thận trước khi trao hàng cho
khách, sau đó chắp hai tay trước bụng cúi
chào cung kính, mắt nh́n xuống. Nếu những người
bán hàng đó đi mua hàng (đi chợ chẳng hạn), họ cũng là khách hàng
như bạn và cũng được những người bán hàng khác phục vụ tử tế như vậy.
Ít lâu sau khi tôi vừa đến Nhật, một lần tôi ghé hiệu
Yamano Music - một hiệu bán nhạc cụ nổi tiếng ở khu Ginza – Tokyo.
Tại hiệu này có bán các đàn đại dương cầm Yamaha, Steinway,
Bechstein giá hàng trăm ngàn US dollars. Nhưng
thứ mà tôi mua chỉ là một miếng dạ đỏ để phủ phím đàn piano.
Giá miếng dạ đó là 600 yen (khoảng 6 USD).
Tôi gọi người bán hàng. Ông ta dạ ran
chạy đến. Tôi lại không có tiền lẻ, nên tôi đưa
ông ta 10,000 yen (khoảng 100 USD). Ông ta cúi người, hai
tay đỡ lấy tờ tiền, nói: “Xin quư khách
đợi cho một lát”, sau đó chạy nhanh vào phía trong. Một khoảnh khắc
sau, ông ta quay lại, hai tay cầm một cái
đĩa sứ nhỏ trên để miếng dạ đă được gói cẩn thận, hóa đơn thanh toán,
tiền thừa. Rồi ông ta lại cung kính cúi ḿnh hai
tay nâng cái đĩa lên ngang mặt để tôi dễ lấy. Sau đó, ông ta
lại cúi rạp xuống một lần nữa, miệng nói to: “Xin cảm tạ quư khách!”
Rất ấn tượng về điều này, tôi kể chuyện đó với một
giáo sư Nhật. Ông ta nói: “Đấy là tiêu chuẩn phục vụ thông thường ở
đây, nhất là tại các cửa hàng nổi tiếng như Yamano Music.
Anh trả tiền và anh có quyền được hưởng sự phục
vụ tốt nhất”. Sau này tôi thấy đó là tŕnh độ phục vụ rất
chuyên nghiệp của xă hội Nhật bản, vượt xa tất cả các nước khác mà
tôi đă đến (là Việt Nam quê hương tôi, Trung Hoa, Nga Xô, Ấn độ,
Pháp, Đức, Hà Lan, Italia, Hy lạp, Tây Ban Nha, và Hoa kỳ).
Miếng dạ là thứ nhỏ.
Bây giờ tôi kể đến thứ to hơn một chút.
Cách đây vài năm tôi mua một cái đàn đại dương
cầm (grand piano) ghép kỹ thuật số gọi là GranTouch cuả hăng Yamaha,
giá ngót nghét 6,000 USD (kể cả ghế ngồi).
Sau khi đàn được vận chuyển đến nhà, tôi chơi
vài hôm và phát hiện ra một trục trặc nhỏ là khi chơi một hợp âm
nhiều nốt, độ vang của một hai nốt thỉnh thoảng bị cắt sớm hơn các
nốt khác. Tôi gọi điện phàn nàn với cửa
hàng. Sau vài hôm, hăng Yamaha cử chuyên
gia tới nhà tôi dùng máy để kiểm tra, v́ hiện tượng này rất khó phát
hiện, và không phải lúc nào cũng xảy ra. Sau khi xác nhận là
có trục trặc thật, họ vận chuyển một cái đàn khác, cũng mới tinh đến,
để cạnh cái đàn kia để tôi chơi cả hai để
so sánh. Sau một hồi đắn đo, tôi đă chọn
cái đàn họ mới mang đến. Họ lại vui vẻ đem cái đàn
kia đi. Mỗi lần vận chuyển như vậy
xe cần trục phải trục cả cái đàn to tướng
lơ lửng qua bao-lơn nhà (balcony). Một tốp gồm
ba người đàn ông lực lưỡng, và một chuyên gia kỹ thuật cùng làm việc.
Tôi không phải trả thêm bất cứ một yen nào.
Thấy họ lao động vất vả, tôi mời họ uống
nước giải khát. Họ lễ phép từ chối với lư do là họ đang làm công vụ.
Vợ tôi luôn cảm kích mỗi khi nhớ lại lần phải nằm
bệnh viện nhà nuớc (công) ở Nhật. Tất cả mọi người - từ bác sỹ, y tá,
hộ lư, đến nhân viên phục vụ, quét dọn - đều rất lịch sự, dịu dàng,
quan tâm chăm sóc như thể cả bệnh viện chỉ có mỗi một ḿnh vợ tôi là
bệnh nhân vậy, khiến vợ tôi nói: “Ḿnh thật sự cảm thấy ḿnh là một
con người với ư nghĩa đầy đủ của nó.” Máy móc ở
bệnh viện đều rất tối tân. Phần lớn các
bác sỹ nói được tiếng Anh. Một số bác sỹ
trẻ nói tiếng Anh giỏi.
Mấy người bạn Việt
Nam khác ở đây, từng vào bệnh viện Nhật, cũng đồng ư
với chúng tôi như vậy.
Đến khi vợ tôi kể chuyện này với một người bạn
Nhật, bà này chẳng tỏ vẻ ǵ là ngạc nhiên cả.
Bà ta cho điều đó là tất nhiên. Bà ta bảo:
“Người bệnh là người ốm yếu, đầy lo lắng ưu tư, nên bác sỹ, y tá
phải có nhiệm vụ làm dịu đi sự băn khoăn đó”.
Nghe nói bệnh viện tư nhân phục
vụ c̣n tốt hơn thế.
Chuyện phục vụ tốt trên mặt đất ở Nhật kể không hết.
Phục vụ trên trời cũng “siêu” không kém.
Ai đă bay Japan Air Lines (JAL) có thể dễ dàng
nhận thấy điều đó. Các cô chiêu đăi viên của Nhật bao giờ
cũng hết sức nhă nhặn, lịch sự, nói như rót mật vào
tai. Có lần tôi đang ngồi trên một chuyến
bay của JAL từ Tokyo sang châu Âu, th́ một con muỗi từ đâu đó xuất
hiện vo ve trước mặt tôi. Tôi đành vỗ hai
bàn tay đập chết con muỗi.
Ngay lúc đó một cô chiêu đăi viên xinh đẹp t́nh
cờ đi ngang qua nh́n thấy. Cô ta lập tức cúi xuống, miệng mỉm
cười, bàn tay trắng muốt x̣e ra để … đỡ
lấy cái xác con muỗi đem vứt đi.
4)
Không ai xâm phạm quyền tự do biểu hiện
Điều 21 trong Hiến pháp cuả Nhật [2] đảm bảo hoàn
toàn không có bất cứ một sự kiểm duyệt nào đối với quyền tự do biểu
hiện của mỗi người dân. V́ vậy, ở Nhật không có bất kỳ tổ chức hoặc
cá nhân nào có quyền bắt bạn cắt xén sáng tạo của bạn, hoặc ngăn cấm
bạn triển lăm hoặc in ấn tác phẩm của ḿnh v́ những ǵ bạn viết hoặc
vẽ ra trong tác phẩm của bạn. Nếu có tranh chấp liên quan xảy ra,
th́ cả hai phía: phía muốn kiểm duyệt và phía tác giả hoặc nhà xuất
bản đều b́nh đẳng trước pháp luật, tức là đều có quyền mời luật sư
và giải quyết tranh chấp tại ṭa án (Như vụ con gái một chính khách
kiện một nhà xuất bản đă đăng vụ ly dị của cô ta lên báo gần đây).
Tiêu chuẩn duy nhất để một bức tranh được treo tại triển lăm tập thể
của một hội mỹ thuật nào đó, tại một địa điểm công cộng nào đó như
bảo tàng mỹ thuật, gallery, v.v. là nghệ thuật thuần tuư, và chỉ có
nghệ thuật mà thôi. Tranh đẹp th́ được treo.
Tranh xấu (hoặc không đẹp bằng) th́ bị loại.
Tất nhiên đẹp hay xấu c̣n tuỳ thuộc vào thẩm mỹ của hội đồng nghệ
thuật. V́ thế để giảm tối thiểu sự thiên vị của một vài “ủy viên hội
đồng nghệ thuật”, các hội mỹ thuật ở Nhật thường mời tất cả các hội
viên (vài trăm người) cùng họp để chọn tranh, bằng cách dơ
tay biểu quyết. Tranh
nào được nhiều hội viên chọn th́ được treo.
5)
Hệ thống văn hoá giáo dục và các viện nghiên cứu
Nhật bản là nước có tỷ lệ người biết đọc biết viết
cao nhất thế giới, tới 99% dân số.
Người Nhật kể cả tầng lớp lao động ít học
cũng hành xử rất có văn hóa. Mọi người nói năng
rất lịch sự. Không thấy ai nói tục chửi
bậy ở nơi công cộng. Trên các phương tiện giao thông công
cộng, ngoài phố, rất khó phân biệt người giàu người nghèo, v́ ai nấy
đều ăn mặc đẹp đẽ, lịch sự như nhau, tuy là không ai giống ai. Những
người làm cho các công ty thường mặc “com-lê” đeo “cà-vạt”. Giới trẻ
ăn mặc hiện đại, lố lăng hơn, nhưng không
hề có ai dám tỏ ư phê b́nh, chê bai, chứ chưa nói là cấm đoán, dù là
với bất cứ lư do ǵ kể cả “thuần phong mỹ tục”. Ai cũng hiểu đó là
quyền tự do cá nhân được hiến pháp tôn trọng tuyệt đối.
Một số ít trường không cho phép học sinh trung
học nhuộm tóc. Nhiều trường khác không hề
ngăn cấm. Có lần một thày giáo bị bố mẹ một học sinh kiện v́
đă bắt con của họ gội sạch mái tóc nhuộm, v́ như vậy là vi phạm tự
do thân thể của học sinh. Trừ một số người “vô gia cư” (homeless)
sống thường trực tại công viên Ueno ở trung tâm Tokyo, ngoài phố hầu
như không gặp người rách rưới hoặc người ăn
xin. Trong quan hệ giao tiếp, người Nhật thường
rất nhún nhường, ít khi nói về ḿnh, về gia đ́nh con cái ḿnh.
Đặc biệt họ không bao giờ khoe khoang, nhất là
khoe giàu, khoe giỏi hơn người khác, v́ họ tránh hết sức ḷng ghen
tị [3]. Họ đánh giá cao t́nh hữu nghị lâu
dài. Sau khi họ đă
tin tưởng bạn, họ giúp đỡ bạn vô điều kiện.
Nói chung học sinh Nhật
rất tôn trọng thầy cô giáo và các học sinh lớp trên.
Hệ thống tiểu học của Nhật khá nhẹ nhàng, học
như chơi. Lên trung học th́ bắt đầu căng hơn v́ phải học để
thi vào các trường cao học (cấp 3) tốt th́ mới có cơ may thi được
vào các trường đại học tốt.
Tốt nghiệp các trường đại học danh tiếng (như ĐHTH
Tokyo, ĐHTH Waseda, v.v.) th́ khả năng t́m được việc
làm ở các công ty tốt sẽ lớn hơn.
V́ thế học sinh Nhật cũng “học thêm” ở các trung
tâm luyện thi bên ngoài. Nhưng những thầy
dạy ở các trung tâm “học thêm” đó tuyệt đối không được dạy tại các
trường học chính quy. Hoàn toàn không có việc một thầy (cô)
giáo sáng dạy chính khóa, chiều lại dạy “thêm” cho chính học sinh
lớp ḿnh. Giáo giới được xă hội rất tôn trọng, và được trả lương khá
cao, tăng lương định kỳ, và được tiền thưởng hàng năm bằng 5 tháng
lương. Lương một giáo viên độc thân 23 –
24 tuổi mới vào nghề là khoảng 3 triệu yen (27 ngàn USD) mỗi năm.
Một giáo viên 40 tuổi có một vợ và 2 con hưởng lương khoảng 5.5
triệu yen (50 ngàn USD) mỗi năm, tương đương lương phó giáo sư đại
học (không quá 35 tuổi) khoảng 5 triệu yên (45 ngàn USD) mỗi năm
[4].
Sách vở, thiết bị phục vụ cho việc học ở Nhật rất đẹp,
hiện đại và đầy đủ.
Lớp học thường được trang bị các phương tiện
nghe nh́n như TV, video, v.v. Đặc biệt các môn ngoại khóa rất đa
dạng. Tất cả học sinh từ trung học trở lên đều tham gia hoạt
động ngoại khóa tại các câu lạc bộ khác nhau (âm nhạc, hội họa, thể
thao: bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, bóng chầy, tennis, badminton,
bơi, judo, karate, aikido, kiếm thuật, bắn cung, v.v.).
Tất cả đều được trang bị rất chuyên nghiệp và
luyện tập hàng ngày (Người Nhật đă làm ǵ th́ thích làm rất “chuyên
nghiệp”, ít nhất là về trang bị dụng cụ.).
Khá nhiều trẻ con Nhật được bố mẹ cho học nhạc, tuy
không phải tất cả theo được đến cùng.
Nhiều gia đ́nh có đàn piano đứng (upright
piano), thậm chí đàn grand piano (đại dương cầm). Hăng Yamaha
có một mạng lưới dạy âm nhạc trên toàn nước Nhật. Các cô giáo đều
tốt nghiệp đại học âm nhạc, tài nghệ cao, tŕnh độ sư phạm rất giỏi,
và không bao giờ quát mắng học tṛ. Một cô giáo piano, khi giảng cho
học sinh phải chơi không rung cổ tay, đă để một cục tẩy lên cổ tay
ḿnh rồi chạy ngón mà cục tẩy vẫn nằm trên cổ tay cô, không rơi
xuống đất (!) Học sinh học piano đến giờ lên lớp
bao giờ cũng được chơi đại dương cầm Yamaha.
Nhiều người khi vào đại học đă học 10 -12 năm
piano, sau đó lại tiếp tục học thêm, tuy không trở thành nhạc sỹ
chuyên nghiệp. V́ thế tŕnh độ âm nhạc
nghiệp dư của người Nhật khá cao. Các
kinh điển của các nhà soạn nhạc cổ điển như Bach, Mozart, Beethoven,
Mendelssohn, Chopin, Listz, các nhạc sỹ nghiệp dư này đều chơi như
“cháo” cả. Ở
Tokyo có nhiều pḥng hoà nhạc cho các nhạc sỹ nghiệp
dư biểu diễn không mất tiền, hoặc phải trả rất ít tiền, nhưng nhạc
cụ bao giờ cũng là hạng đầu bảng như Steinway hoặc Yamaha concert
grand piano.
Tất nhiên, không phải xin phép bất cứ một cơ
quan văn hoá nào để tŕnh diễn ca nhạc. Mọi việc đều do ca sỹ,
nhạc công và chủ pḥng ḥa nhạc quyết định.
Các viện nghiên cứu quốc gia lớn của Nhật thường giầu
có hơn các trường đại học.
Ví dụ là viện RIKEN đă nói ở trên.
Đây là một viện nghiên cứu hàng đầu trên thế
giới. Viện này có khoảng 5,500
người làm việc, trong đó chỉ có khoảng 700 nhân viên hành chính phục
vụ các nhà nghiên cứu.
Viện có 5 cơ sở đóng tại Wako (ngoại ô
Tokyo), Tsukuba, Harima, Yokohama, và Kobe.
Kinh phí nghiên cứu của viện hàng năm, chủ yếu do Nhà nước cấp, vào
khoảng 80 – 85 tỷ yên (ngót ngét 800 triệu USD), tức là trung b́nh
chi phí cho mỗi đầu người làm việc tại RIKEN là khoảng 150 ngàn USD
mỗi năm [5].
Khối cán bộ hành chính của RIKEN làm việc đúng như
“các đầy tớ của các nhà khoa học”. Ở đây không
hề có chuyện pḥng “Tổ chức cán bộ” hay vụ “Hợp tác quốc tế” “tác
oai” các cán bộ nghiên cứu. Các nữ thư
kư đều hiểu rất rơ vị trí và chức năng của ḿnh. Một số người trong
số họ cũng đă từng tu nghiệp ở Anh, Hoa Kỳ, nói tiếng Anh như người
Anh người Mỹ. Họ luôn luôn niềm nở, rất lịch sự, khiêm tốn, và rất
thành thạo trong công việc của ḿnh. Mỗi lần tôi đi công tác nước
ngoài (dự hội nghị quốc tế, hợp tác nghiên cứu), bất kể đó là Hoa kỳ,
châu Âu, Trung quốc, hay Việt Nam v.v., tôi chỉ phải làm hai động
tác. Đầu tiên là thông báo cho giám đốc của
laboratory của tôi. Sau khi giám đốc đồng ư (thường là bằng
miệng), tôi phải điền vào một trang A4 in sẵn hành tŕnh, thời gian
công tác của tôi, kèm theo một dự báo giá
vé máy bay của hăng du lịch. Tất cả mọi việc c̣n lại là công việc
của cô thư kư và bộ phận tài chính của
viện. Họ sẽ tính tiền công tác phí chi cho tôi (gồm
chi phí ăn, ở, đi lại) cộng với tiền vé máy bay.
Sau đó toàn bộ số tiền đó sẽ được viện tự động
chuyển tới tài khoản cá nhân của tôi tại ngân hàng, trước khi tôi đi
công tác. Sau khi đi công tác về, nếu có những khoản chi tiêu
khác liên quan tới công việc, viện sẽ thanh toán nốt
theo biên lai. Trong
9 năm trời làm việc ở RIKEN tôi chưa bao giờ thấy họ chậm trễ trong
việc chi trả đó. RIKEN quan niệm rằng việc một cán bộ khoa
học của RIKEN được mời dự hội nghị quốc tế, hoặc hợp tác quốc tế, là
một cơ hội để phát triển khoa học nói chung, đồng thời đem lại lợi
ích, danh giá cho RIKEN nói riêng trong cộng đồng quốc tế. Quà cáp
biếu xén sau khi đi công tác về là điều “bất ngờ”, không chờ đợi, và
không phải thông lệ ở đây, ngoại trừ đó là ư thích của cá nhân người
đi công tác. Và cũng không phải v́ thế mà người
đó được đối xử tốt hơn hoặc tồi hơn so với người khác.
Đón sau:
Một xă hội cho dù có văn minh đến đâu cũng có cả mặt
tốt lẫn mặt xấu.
Bài này chỉ liệt kê một số
mặt tốt của xă hội Nhật bản.
Một anh bạn Việt Nam mới sang Nhật cùng vợ và con
trai học lớp 1. Tôi hỏi cháu: “Cháu thấy trường Nhật khác với trường
Việt Nam thế nào?” Cháu trả lời: “Ở trường Nhật cháu cảm thấy được
nói năng tự do thoải mái.” Tôi nhớ lại câu chuyện không lấy ǵ làm
vui của chính con trai ḿnh. Cháu nói với tôi là
cháu đă nói dối lần đầu tiên khi cháu học lớp 1 ở Hà Nội. Hôm
đó cô giáo quát: “Ai quên mang lọ mực để tay lên bàn”. Các bạn để
tay lên bàn đều lănh một vụt thước kẻ của
cô vào tay rất đau. Con tôi cũng quên mực, nhưng không muốn ăn vụt,
nên cháu đă nói dối: “Thưa cô, sáng nay lúc em chuẩn bị lọ mực đi
học, mẹ em đă đánh đổ mất!”.
Cháu được cô tha. Dạy dỗ dựa trên sự sợ
hăi không cảm hóa được con người mà chỉ làm con người trở nên dối
trá, thủ đoạn.
Không thể xây dựng một xă hội tự do, văn minh, hạnh
phúc dựa trên sự sợ hăi của người dân. Có lẽ
người Nhật hiểu rất rơ điều đó khi xây dựng xă hội của họ.
Tokyo, 12 tháng 8 năm 2004
(thêm trích dẫn [3]
ngày 17/8/2004)
Trích dẫn:
[1] Theo tên một tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai
[2] Xem “The Consitution of Japan” tại
http://www.shugiin.go.jp/itdb_english.nsf/html/kenpou/english/constitution.htm
[3] Nước Nhật có khoảng 127 triệu dân.
B́nh quân thu nhập đầu người khoảng 27
ngàn USD. Theo tác giả Tomoko Otake (Japan Times, 17/8/2004), số
triệu phú tiền USD ở Nhật là 1 triệu 312 ngàn người, chiếm 1% dân số.
Phần lớn các nhà triệu phú Nhật nằm trong năm loại người: các nhà
kinh doanh, các nhà chuyên môn (như bác sỹ, luật sư, lực sỹ,…),
các giám đốc công ty, những người thừa kế gia tài, và các văn nghệ
sỹ (như các nhạc sỹ và các nhà văn). Các nhà triệu phú Nhật chi tiêu
ít hơn nhiều so với thu nhập của họ. Phần
lớn họ sống rất giản dị và tiết kiệm.
[4] Theo Japanese Education System – The Teaching
Profession tại
http://members.tripod.com/h_javora/jed4.htm
[5] Theo RIKEN: Personel/Budget tại
http://www.riken.jp/engn/r-world/riken/personnel/
|
|