Phần 1/3 Chương 1: Thời thơ ấu
Nền giáo dục Nho gia
Cần nói thêm rằng cha tôi vốn là một
người theo nghiệp đèn sách. Tất nhiên
là ông theo Hán học. Khi ở Ōsaka, công
việc của cha tôi là tiếp xúc với
những gia đ́nh giàu có ở Ōsaka như
Kazimaya (Gia-Đảo-Ốc), Kō-no-ike (Công-Tŕ)
[1] để
thỏa hiệp về các khoản nợ, nhưng
cha tôi không hề thích thú chút nào. Ông muốn
trở thành một trí thức chuyên việc
đèn sách, hơn là làm việc tiếp xúc
với tiền bạc. Vậy mà không ngờ
lại phải cầm lấy bàn tính, đếm
tiền hay thỏa hiệp xin hoăn các khoản
nợ. Trí thức thời xưa khác xa trí
thức Tây học thời nay. Thời xưa,
một trí thức thuần khiết là người
chỉ nh́n tiền bạc đă thấy đó
là điều dơ bẩn. Một người
như vậy mà phải làm công việc hoàn toàn
trần tục, th́ chuyện có tỏ ra bất
b́nh cũng không phải là không có lư. Bởi
vậy, khi dạy dỗ con cái ông cũng theo
những giáo điều Nho học. Tôi xin
đơn cử một chuyện thế này.
Hồi đó, tôi vẫn c̣n nhỏ, chưa
thể nói đến chuyện học chữ nghĩa
ǵ được, nhưng anh trai mười
tuổi và chị gái lên bảy, lên tám của
tôi th́ đă có thầy chuyên dạy viết
chữ đến nhà kèm cặp. Cả trẻ
con hàng phố cũng đến học cùng.
Thầy dạy chữ I, ro, ha, ni, ho, he, to [2]
th́ được, nhưng v́ là Ōsaka nên
thầy dạy luôn cả phép tính nhân như 2
nhân 2 bằng 4, 2 nhân 3 bằng 6. Đó là
chuyện đương nhiên, nhưng thấy
thế cha tôi bảo: “Thầy dạy những
điều không ra sao cả! Lại dạy
trẻ cả thói tính toán con buôn th́ tôi không
thể tưởng tượng được!
Tôi xin cho các con thôi học!”. Cha tôi nói rồi
lôi anh chị tôi đi ra khỏi lớp.
Sau này, tôi được biết chuyện đó
qua lời kể của mẹ. Qua đó, có
thể h́nh dung cha tôi là một người nghiêm
khắc trong mọi chuyện. Chỉ xem những
ghi chép c̣n lại cũng có thể thấy cha tôi
là một người thuần Nho. Sinh thời,
ông rất tin tưởng thầy Itō Tōgai
(Y-Đằng Đông-Nhai) [3]
của vùng Horikawa (Quật-Hà) và tâm đắc
với câu: “Sống phải thành tâm thành ư,
giữ ḿnh ở cả những nơi không ai
để mắt tới, không làm ǵ để
phải xấu hổ”. Câu nói đó đă
trở thành gia phong của gia đ́nh tôi.
Sau khi cha tôi mất, mẹ và năm anh em chúng tôi
không ḥa nhập với người khác, cũng
ít kết giao với người ngoài, từ
sớm đến chiều chỉ sống
với những câu chuyện kể của
mẹ và h́nh bóng của người cha đă
khuất mà như vẫn c̣n hiện hữu
đâu đó.
Anh em quần tụ, tách biệt với bên
ngoài
Ở Nakatsu, anh em tôi khác mọi người xung
quanh cả về áo Kimono và lời ăn
tiếng nói, nên tự nhiên đoàn kết
với nhau, ngầm thấy ḿnh cao quư hơn, coi
người xung quanh là trần tục. Ngay
cả với anh chị em họ, chúng tôi cũng
nh́n dưới tầm mắt và không bao giờ
đả động đến những
việc họ làm. Số ít chọi với đám
đông nên chúng tôi từ bỏ ư định
khuyên can họ, v́ dù có nói, họ cũng không
thấu. Trong thâm tâm, chúng tôi không coi đó là
chuyện ḿnh cần quan tâm. Tựu trung lại
là coi thường người khác.
Bây giờ, tôi vẫn c̣n nhớ như in là
mặc dù ở trong nhà tôi nói cười, đùa
nghịch rất hoạt bát, nhưng không
biết trèo cây và cũng không biết bơi.
Điều đó không phải do một nguyên nhân
nào khác, mà chỉ v́ không ra ngoài chơi ḥa
đồng với trẻ con cùng lănh địa
mà thôi.
Gia phong đúng mực, nhưng không hà
khắc
Như đă nói ở trên, anh em tôi từ
nhỏ đă khác với những người
xung quanh cả về lời ăn tiếng nói
lẫn lối sống. Bị tách biệt, nên
nhiều khi cảm thấy buồn mà người
ngoài không biết. Nhưng ngay cả những lúc
ấy, chúng tôi cũng vẫn giữ ǵn nền
nếp, gia phong. Trong nhà chúng tôi không c̣n người
cha nghiêm nghị, nhưng mẹ tôi sống
mẫu mực, nên anh em tôi không những không
một lần to tiếng với nhau, mà khi trưởng
thành lên cũng không biết đến những
chuyện xấu bên ngoài. Mặc dù không có ai
dạy dỗ, mẹ tôi lại không phải là
người nghiêm khắc, hay trách mắng, nhưng
tự nhiên gia đ́nh tôi trở nên như
thế là nhờ vào nền nếp mà cha tôi
để lại cùng với t́nh mẫu tử sâu
sắc của mẹ đă cảm hoá anh em chúng
tôi.
Tôi xin kể lại một chuyện có thực.
Về đàn nhạc th́ tôi chưa bao giờ có
ư định nghe đàn Shamisen
(Tam-vị-tuyến) [4]
hay một loại nhạc cụ nào khác. Tôi luôn
mang trong ḿnh một ư nghĩ cho rằng, đó là
thứ ḿnh không việc ǵ phải nghe, phải
chơi và từ đó trong đầu cũng không
nảy ra ư định đi xem các loại h́nh
nghệ thuật biểu diễn khác. Chẳng
hạn, cứ vào mùa hè, ở Nakatsu có diễn
ca kịch. Vào dịp này, người ta diễn
rộn ră suốt bảy ngày liền. Khi các
diễn viên người vùng quê công diễn th́
chức dịch lănh địa sẽ ra một
thông báo rất nghiêm quy định rằng: Các
vơ sĩ không được lại gần, không
được quanh quẩn bên ngoài tường
đá của đền thờ Sumiyoshi (Trú-Cát).
Nhưng dù sao đó cũng chỉ là một
tờ lệnh. Các vơ sĩ thô tục đeo
kiếm, che mặt nạ và phá hàng rào đi vào.
Nếu nhắc nhở th́ ngược lại
sẽ bị họ mắng té tát, nên ai cũng
sợ. Người hàng phố trả tiền
mới được vào xem, c̣n vơ sĩ đă
lén lút vào xem không mà lại c̣n tỏ vẻ ra
oai.
Trong số rất nhiều vơ sĩ như
thế th́ chỉ gia đ́nh tôi là không đi
xem. Nhất định không đi! Đă có
lệnh cấm không được vào phạm
vi này th́ không bén mảng đến dù chỉ
một bước chân! Mặc cho bên ngoài có
chuyện ǵ đi nữa th́ mẹ tôi, dù là
phụ nữ mà cũng không hề nói một câu
về ca kịch, anh trai tôi cũng không rủ các
em đi, trong nhà hoàn toàn không ai đả động
ǵ đến. Mùa hè trời nóng, người ta
thường ra ngoài hóng mát. Nhưng ngay gần
nhà có diễn ca kịch mà chúng tôi dường
như không bao giờ có ư định ra xem. Dù có
vở hay đến thế nào, chúng tôi cũng
không bàn tán và thản nhiên như không có
chuyện ǵ xảy ra.
Lớn lên thành nhà sư - ước vọng
của cha tôi
Như trên đă nói, sinh thời cha tôi chắc
hẳn không mấy hứng thú với công
việc quá ư tầm thường mà ông
phải làm. Nếu như vậy th́ t́m cách thoát
ra khỏi Nakatsu cho xong, nhưng dường như
ông không hề có ư định đó. Dù có
chuyện ǵ ông cũng ngậm đắng
nuốt cay và yên phận với chút bổng
lộc nhận từ lănh địa. Điều
này có lẽ là do thời thế lúc bấy
giờ, con người ta không thể tự do
tiến thoái. Bây giờ ngẫm lại, tôi
thấy thương cha vô cùng.
Khi cha tôi c̣n sống đă có một câu
chuyện thế này. Trong thâm tâm, cha tôi tính
sẽ trao cả quyền thừa kế tài
sản của gia đ́nh Fukuzawa cho anh tôi. Nhưng
đứa con thứ năm là tôi lại sinh ra.
Khi mới lọt ḷng tôi đă là đứa
trẻ khá khoẻ mạnh. Nghe bà đỡ
bảo: “Đứa trẻ này chỉ cần
cho ăn đủ sữa là sẽ lớn nhanh
như thổi thôi!”, cha tôi rất mừng. Ông
nói đi nói lại với mẹ tôi rằng:
“Nó có vẻ là đứa trẻ ngoan đấy.
Lớn lên chừng 10 hay 11 tuổi th́ cho nó vào
chùa làm sư”. Sau này, mẹ kể cho tôi như
vậy. Thỉnh thoảng bên lề câu
chuyện mẹ tôi c̣n bảo: “Ngày trước,
không hiểu sao cha con hay nói sẽ cho con vào chùa
học kinh Phật. Nếu cha con c̣n sống
thế nào con cũng vào chùa làm sư rồi
đấy!”.
Sau này, khi lớn lên và nghĩ lại lời cha
nói, tôi nghĩ có lẽ ông nghĩ như
vậy là v́ dưới thời phong kiến,
ở Nakatsu tồn tại một trật tự
xă hội ví như chiếc hộp bị chèn
cứng đồ, hàng trăm năm cũng
cứ y nguyên như thế, không hề nhúc nhích!
Cũng như: “Con vua th́ lại làm vua, con văi
ở chùa th́ quét lá đa”, ở Nakatsu con Karō
(Gia-lăo) [5] lại
làm Karō, con Ashigaru [6]
lại trở về với kiếp Ashigaru.
Những thứ bị chèn chặt trong đó có
qua bao nhiêu năm cũng không hề biến
chuyển ǵ. Thử ở vào địa vị
của cha tôi mà nghĩ, dù cố gắng
thế nào cũng không thể làm nên danh
tiếng. Nh́n ra bên ngoài thấy chỉ có đi
tu là giải pháp tốt nhất. Bao nhiêu người
vốn chỉ là con người hàng cá cũng có
thể trở thành chức sắc trong nhà chùa.
Tôi đoán việc cha muốn tôi trở thành nhà
sư có thể là v́ lư do như vậy.
Chế độ đẳng cấp là kẻ
thù ḱm kẹp cha tôi
Nghĩ như vậy th́ việc trong suốt 45 năm
cuộc đời, cha tôi bị bó buộc
bởi lề lối phong kiến, không thực
hiện được ư nguyện của ḿnh,
đành ngậm đắng nuốt cay từ giă
cơi đời mà thấy buồn thương
thay cho ông. Mỗi lần nhớ đến
nỗi dằn vặt trong thâm tâm cha tôi v́ lo cho
tương lai của đứa con mới
lọt ḷng đă phải quyết tâm cho đi
tu và t́nh phụ tử sâu sắc của cha làm
tôi càng thêm căm phẫn chế độ
đẳng cấp phong kiến. Tôi như
được tâm sự với cha và khóc
thầm một ḿnh v́ thương ông. Với tôi,
chế độ đẳng cấp chính là
kẻ thù ḱm hăm cha tôi.
Chương 4: Nếp sống của trường
Ogata
Sự học của các học tṛ trường
Ogata
Như vậy, kể cả ở trong trường
hay bên ngoài chúng tôi cũng vẫn khi th́
nghịch ngợm, khi lại tranh luận nghiêm túc.
Trong câu chuyện của tôi kể từ đầu
đến giờ, nếu nh́n qua có thể có người
cho rằng, dù thế nào chúng tôi cũng không
phải là những học tṛ chuyên chú
chuyện học hành, mà chỉ đua nhau
nghịch ngợm mà thôi, nhưng tuyệt nhiên
không phải như vậy. Về chuyện
học hành, có thể nói thời đó không ai
vượt qua được các học tṛ trường
Ogata.
Tôi xin kể lại một câu chuyện làm ví
dụ. Tháng 3 năm Ansei thứ ba (1856-ND), tôi
bị sốt, nhưng cũng may là sau đó
hồi phục lại được. Trong
thời gian điều trị, tôi đă dùng
chiếc gối quấn tṛn bằng đệm,
nhưng khi hơi đỡ một chút lại
muốn chuyển sang gối b́nh thường. Lúc
đó, tôi sống cùng với anh ở Kurayashiki
của lănh địa. Anh tôi có một người
hầu và tôi nhờ họ lấy cho. Nhưng
lục t́m trong nhà măi mà không thể nào
thấy được một chiếc gối. Lúc
đó, tôi mới chợt nhận ra rằng trong
suốt một năm ở Kurayashiki của lănh
địa chưa một lần dùng gối
để ngủ. Mùa nào cũng thế, hầu
như không phân biệt giữa ngày và đêm.
Đêm xuống cũng không nghĩ đến
chuyện ngủ, vẫn chong đèn đọc sách.
Đọc sách cho đến khi buồn ngủ
th́ hoặc là gục lên bàn, hoặc tỳ lên
mép Tokonoma (sàng-gian) [7]
mà ngủ.
Chưa một lần nào tôi trải đệm,
đắp chăn và dùng gối ngủ một cách
đàng hoàng. Lúc đó, lần đầu tiên,
tôi mới vỡ lẽ ra rằng: “Ừ đúng,
nhà ḿnh chắc không có gối thật. V́ cho
đến nay ḿnh đă ngủ bằng gối
bao giờ đâu”. Chỉ qua câu chuyện này
chắc bạn đọc cũng có thể
hiểu được sự t́nh thế nào.
Đấy không phải là riêng ḿnh tôi chăm
chú học, mà bạn bè cùng trường
tất cả đều như vậy. Chúng tôi
học say mê đến mức trên thực
tế chắc không thể làm ǵ hơn thế.
Chăm chú học không để ư đến
chuyện vệ sinh
Từ sau khi vào trường Ogata tôi có nhớ
một vài điều mà chính ḿnh đă
trải qua. Trong bữa tối, nếu có rượu
th́ uống và đi ngủ ngay từ canh
một. Ngủ một giấc, tỉnh mắt
dậy là vào khoảng mười giờ đêm
hay hơn ǵ đó theo cách tính hiện nay.
Từ lúc đó là thức thâu đêm để
đọc sách. Đọc đến rạng sáng,
khi nghe thấy tiếng cơm sôi lục bục
ở nhà bếp th́ theo dấu hiệu ấy mà
đi ngủ. Đến khi cơm chín dậy
đi tắm sáng. Sau đó trở về trường
ăn cơm và ăn xong lại vào đọc sách.
Nhịp sống của học tṛ trường
Ogata đại khái là theo chu kỳ như
thế.
Tất nhiên, chuyện vệ sinh th́ không hề
chú ư. V́ là trường chuyên về ngành y, nên
đáng lẽ sẽ phải nói nghiêm khắc
về chuyện vệ sinh, nhưng không có ai
để ư cả. Hoặc là do không nhớ ra
hay sao đó mà không hề có sự nhắc
nhở nào. Thế nhưng, mọi người
vẫn sống b́nh thường. Không hiểu
đó là do chúng tôi đều khỏe mạnh
hay do những học tṛ ngành y cho rằng,
giữ vệ sinh quá, ngược lại, làm người
ta yếu hơn?
Sao sách và cách tiến hành giờ đọc
hiểu
Đến đây tôi xin được kể
về cách học trong trường Ogata. Thường
những người mới đến học
đều chưa biết ǵ. Với những người
đó th́ phải dạy như thế nào?
Thời Edo, người ta có tiến hành in hai
cuốn sách tiếng Hà Lan là cuốn về
ngữ pháp và về cú pháp. Với những người
mới vào học th́ sẽ dạy cho họ
cuốn ngữ pháp, dạy đọc đánh
vần và giải nghĩa cho họ nghe. Xong
phần đó th́ chuyển sang cuốn cú pháp cũng
theo đúng tŕnh tự như vậy. Đọc
được xong hai cuốn này sẽ
chuyển sang giờ đọc. Trong giờ
học này, nếu học sinh có mười người
th́ mười, mà mười lăm người
th́ mười lăm, sẽ lập thành một
lớp, trong đó có một người sẽ
đóng vai tṛ như lớp trưởng, nghe xem
những thành viên trong lớp có đọc
hiểu được hay không, để đánh
các dấu chấm tṛn trắng hoặc đen.
Sau khi đă học đánh vần qua hai cuốn
sách kể trên và được nghe giải nghĩa
xong th́ đến giai đoạn tự học
tập, nghiên cứu. Có chỗ nào không hiểu
cũng không được hỏi người
khác, dù chỉ là một chữ hay nửa câu.
Nhưng nói chung học sinh trường Ogata không
ai dốt nát và hèn đến mức như
vậy. Trong trường chỉ có sách về ngành
vật lư và ngành y, nhưng tập trung lại cũng
chỉ được vẻn vẹn 10 bộ.
Những sách đó vốn là do người ta
chở bằng tàu từ Hà Lan về, nên
mỗi đầu sách chỉ có một bộ.
Những học sinh đă qua giai đoạn
học ngữ pháp sơ cấp th́ thế nào cũng
phải sao lại sách. Mọi người đều
phải tự sao. Mỗi tháng có 6 lần đọc
bằng sách đó. Nhưng giả sử lớp
học có mười người th́ không
thể mười người cùng chép mà
phải chia nhau bằng cách bốc thăm.
Về cách sao sách th́ thời đó không có
giấy kiểu Âu, tất cả đều
phải dùng giấy Nhật, trải thẳng
giấy ra và chép bằng lối Chân thư [8]
, nên rất khó. V́ vậy, thường phải
gột hồ lên giấy và dùng bút lông
ngỗng để chép. Loại bút này hồi
đó ở các hiệu thuốc của Ōsaka
thường có bán rất nhiều những
sống lông dài chừng 3 Shun (khoảng 9.09cm-ND)
của chim nhạn hay chim hạc ǵ đó, mà tôi
không rơ. Tôi c̣n nghe nói người ta thường
dùng nó để câu cá thu. Giá bút đó tính ra
rất rẻ. Chúng tôi mua lông chim về và dùng
kiếm nhọn gọt như h́nh bút, dùng
rất tiện. Mực cũng không thể có
mực kiểu Âu được. Lọ mực
của người Nhật thường là
thấm mực đă mài vào một mảnh bông
hoặc dạ, nhưng mực mà chúng tôi dùng
để sao lại sách nguyên bản lại là
mực mài và để nguyên như thế trong
b́nh mực.
Học tṛ trường Ogata ai cũng phải sao
sách, nên kỹ năng sao chép rất giỏi.
Đơn cử một ví dụ: Nếu có ai
đó đang sao sách nguyên bản ở bên
cạnh, nghe được giọng đọc
của họ th́ chúng tôi có thể chép nhoay nhoáy
mà không hề sai vần. Cứ như thế,
hai người phân chia nhau, người đọc
người chép, hoặc cũng có thể
tự ḿnh nh́n sách chép. Khi nào xong th́ chuyển
sách nguyên văn cho người khác. Chép xong
lại chuyển cho người tiếp theo.
Cứ như thế theo tuần tự. Một
giờ đọc hiểu được
chừng ba hoặc không nhiều hơn bốn, năm
trang giấy Hanshi (bán-chỉ) [9]
.
Tự thân, tự lực học tập, nghiên
cứu
Giờ đọc hiểu sách chuyên ngành vật
lư hay y học th́ không có người giải
nghĩa cũng chẳng có ai đọc cho nghe.
Cả chuyện bí mật nhờ người khác
chỉ giúp, cũng không ai vi phạm, v́ đó
bị coi là một điều đáng hổ
nhục. Chỉ c̣n cách là phải tự ḿnh
đọc và hiểu mà thôi.
Để đọc hiểu, ngoài việc
dựa trên cơ sở kiến thức về
ngữ pháp đă học và từ điển th́
không c̣n cách nào khác nữa. Từ điển mà
tôi nói ở đây là cuốn Doeff, mà
cả trường mới có một bản sao.
Cuốn này khá dày, khoảng 3000 trang giấy
Nhật. Việc sao chép cuốn này là một
việc lớn, không phải chuyện dễ.
Cuốn từ điển này do một người
Hà Lan tên là Hendrik Doeff, sống ở đảo
Dejima, Nagasaki, dịch cuốn từ điển
song ngữ Đức-Hà Lan ra tiếng Nhật.
Cuốn sách này là niềm mơ ước
của mọi người, được coi như
bảo bối duy nhất trong giới những người
theo Hà Lan học. Từ cuốn đó, người
Nhật sao ra và trường Ogata chỉ có duy
nhất một bản, nên hầu như lúc nào
cũng có ba, bốn người quay quanh cuốn
Doeff.
Sau này, thêm một bước nữa là có thêm
bộ từ điển Hà Lan do Weiland soạn.
Bộ này gồm 6 tập, có chú thích bằng
tiếng Hà Lan. Nếu đọc Doeff không
hiểu th́ lại xem Weiland. Nhưng trong
thời gian học sơ cấp, có xem Weiland
cũng không hiểu được. Bởi
vậy, chỉ có thể dựa vào Doeff mà
thôi.
Giờ học đọc thường quy định
vào các ngày một và ngày sáu (tức ngày 1, 11,
21, 31 và 6, 16, 26 -ND) hay các ngày ba và tám (tức là
3, 13, 23, và 8, 18, 28-ND). Nếu ngày mai có giờ
đọc th́ đêm hôm trước đó
kể cả những cậu lười
biếng nhất cũng không ngủ. Trong pḥng
để từ điển Doeff thế nào
cũng có năm, mười người túm
lại, im lặng ngồi học và tra cứu
từ điển. Sáng hôm sau là giờ đọc
hiểu. Đọc hiểu th́ cũng sẽ
bốc thăm xem ai phải đọc từ
đâu đến đâu. Lớp trưởng,
tất nhiên, được giữ cuốn nguyên
bản. Năm người th́ năm mà mười
người th́ mười, cứ lần lượt
đọc và giảng nghĩa những chỗ ḿnh
đă bốc thăm trúng. Nếu người
đó không đọc được, sẽ quay
ṿng sang người khác. Trong đó, người
nào đọc được th́ kư hiệu
bằng chấm trắng, người không đọc
được th́ đánh chấm đen và người
đọc lưu loát không vấp th́ đánh
dấu tam giác trắng. Đây là dấu của
điểm ưu, gấp ba lần dấu
chấm trắng tṛn.
Trường chia thành bảy, tám cấp học
khác nhau. Theo nguyên tắc, người đứng
đầu một cấp trong suốt ba tháng
sẽ được lên cấp trên. Ngoài
giờ đọc hiểu, lớp đàn anh có
thể giải nghĩa hay chỉ bảo
những chỗ không hiểu cho những người
học lớp dưới thân mật như anh
em một nhà. Nhưng một khi đă vào
giờ đọc hiểu th́ hoàn toàn phó
mặc cho mỗi người. Không ai giúp
cả, nên đối với các học sinh trường
Ogata sáu giờ đọc trong tháng không khác ǵ
sáu lần thi.
Cứ như thế dần dần lên những
lớp trên và đọc hết sách có ở trường,
không c̣n ǵ để đọc nữa. Khi đó,
phải đi t́m những ǵ khó hơn và chúng tôi
đă thu thập những lời giới
thiệu hay lời tựa sách, những thứ có
tác dụng tham khảo, chỉ để cho
những học tṛ lớp trên đọc. Có khi
lại nhờ thầy xuống giảng cho. Tôi cũng
chỉ là một học tṛ ngồi nghe
giảng, nhưng trong khi được nghe các
diễn giải khác nhau của thầy, lần nào
tôi cũng thấy khâm phục sự uyên thâm
của thầy, vừa cặn kẽ ngọn
nguồn, vừa vĩ đại cao siêu.
Thầy là một đại gia trong giới
những nhà Hà Lan học, một nhân vật
lớn vừa có danh, vừa có thực. Sau
giờ học, về lại trường tôi
vẫn nhớ là đă nói với các bạn
đồng môn: “Hôm nay cậu thấy bài
thuyết giảng của thầy thế nào?
Tự nhiên tớ thấy bọn ḿnh vẫn c̣n
dốt quá!”.
Nuôi dưỡng thực lực
Chúng tôi chỉ xuống phố uống rượu,
đùa nghịch vào những buổi tối ngay
sau giờ đọc hiểu hoặc ngày hôm sau,
v́ c̣n rảnh những bốn, năm ngày
nữa mới đến giờ học tiếp
theo. Sau mỗi giờ học, chúng tôi chơi
thoải mái như vậy và gần đến
ngày đọc hiểu lại lao vào học.
Một tháng có 6 kỳ thi, nên phải học
rất nhiều. Việc đọc được
sách hay không là tùy thuộc vào sự có tài hay
bất tài của từng người, nhưng
tuyệt nhiên chúng tôi không có chuyện trí trá h́nh
thức, chỉ cần lấy danh là đă
học bao nhiêu năm, lên bao nhiêu bậc và
tốt nghiệp, mà thực sự đă nuôi dưỡng
được thực lực của bản thân
ḿnh. V́ vậy, hầu hết các học sinh
đều đọc sách nguyên văn bằng
tiếng Hà Lan rất giỏi.
Hoạt động sao chép sách
Nhân nói về cuốn từ điển của
Hendrik Doeff, tôi xin được kể một câu
chuyện có liên quan. Thời đó, thỉnh
thoảng lại có ông lănh chúa đến đặt
trường sao giúp cuốn từ điển này.
V́ vậy, việc sao chép sách vở, từ
điển trở thành một nguồn thu
nhập của các học sinh trường Ogata.
Thời đó, giá sao sách tính là một trang
Hanshi chừng 10 ḍng, mỗi ḍng 20 chữ th́
một trang được vài Mon tiền. Nhưng
một trang từ điển Doeff viết
theo chiều ngang, gồm 30 ḍng, nên sao hết
trang đó th́ được những 16 Mon. Sau
đó, nếu sao cả phần chú thích bằng
tiếng Nhật, c̣n được cộng thêm
8 Mon nữa.
Đem so với việc sao chép những cuốn
sách thường khác th́ quả thực tiền
công sao cuốn này rất hậu. Một trang
được 16 Mon th́ 10 trang đă được
những 164 Mon [10]
. Nếu thêm phần chú thích bằng tiếng
Nhật nữa c̣n được thêm một
nửa số tiền ấy, tức là 80 Mon. Có
người chuyên chép chú thích, cũng có người
chỉ chép phần chữ ngang. Cuốn từ
điển Doeff dày 3000 trang, nên nhân
tiền công lên sẽ thành một khoản khá
lớn, có thể giúp ích cho cuộc sống
của các học tṛ. Bây giờ nghĩ lại
khoản tiền này không đáng là bao, chứ
hồi đó, tuyệt nhiên không phải như
thế.
Thời ấy, một Koku (Thạch) [11]
thóc giá 1 Bu 2 Shu, 1 Shō [12]
rượu giá từ 160 Mon đến 200 Mon. Chi
phí ăn học tại trường một tháng
chỉ cần khoảng từ 1 Bu 2 Shu đến
1 Bu 3 Shu là đủ. 1 Bu 2 Shu tiền vàng theo
tỷ giá lúc ấy khoảng 2 Kan 400 Mon tiền
bạc, nên một ngày chỉ mất chưa
đến 100 Mon. Một ngày mà chép mười
trang cuốn từ điển Doeff là đă
được những 164 Mon, có thể để
dư ra.
Tất nhiên, không phải ai cũng sao chép sách là
đủ tiền đi học, mà đây có
thể nói là một cách kiếm tiền của
riêng những người theo Hà Lan học. Tôi
xin đơn cử một chuyện thế này.
Edo quả đúng là nơi tập trung các lănh
chúa, nên không chỉ từ điển Doeff mà
những đơn đặt hàng chép sách cho các
học sinh theo ngành Hà Lan học cũng rất
nhiều. Tự điều đó làm cho giá sao sách
cao lên. So với Ōsaka th́ cao hơn nhiều.
Cậu Suzuki Giroku vốn người vùng Kanazawa,
lănh địa Kaga, là cậu học tṛ đă
từ Edo xuống Ōsaka học. Lúc đầu,
cậu ta không có một Mon nào trong túi, ở Edo
và đă chịu khổ sở, nhưng sau đó
nhờ công việc sao sách mà lập được
thân và c̣n tích lũy tiền nữa. Chỉ
một, hai năm mà cậu ta góp được
những 20 Ryō tiền vàng, sau đó dùng
tiền này vào trường Ogata học và
trở về quê Kanazawa. Sở dĩ cậu ta có
thể làm được như vậy là
nhờ vào Hà Lan học. Trong suy nghĩ của
Suzuki, Edo là mảnh đất thuận lợi
cho việc sao sách để kiếm tiền, nhưng
riêng việc học nếu không phải là Ōsaka
sẽ không thể học tập đến nơi
đến chốn. Cậu ta bảo quyết
định theo mục tiêu đó và mang tiền
kiếm được ở Edo để về
Ōsaka học.
Say mê với kỹ thuật, công nghệ
Hồi đó, sự phát triển của khoa
học, công nghệ c̣n chưa như bây
giờ. Những thứ như máy hơi nước
có muốn xem cũng không thể có được.
Ngay cả những dụng cụ thí nghiệm hóa
học cũng không ở đâu có một
bộ hoàn chỉnh. Bộ hoàn chỉnh th́ không
thể có được, mà những thứ
chắp vá cũng không. Trong hoàn cảnh đó,
cả về máy móc hay hóa học, chúng tôi đều
biết nguyên lư hoạt động, nên dù
thế nào cũng muốn tự ḿnh thí
nghiệm xem sao. V́ vậy, chúng tôi phải
khổ công xem sách nguyên văn, sao lại sơ
đồ để làm giống hệt như
trong sách.
[1] Tên tuổi
của các thương gia lớn hồi bấy
giờ. Họ thực hiện việc lưu thông
tiền tệ giữa các lănh chúa.
[2] Trước
đây, để cho dễ nhớ người
ta ghép các chữ cái Hiragana làm thành một bài hát
gần như đồng dao (gồm 47 chữ cái).
I, ro, ha, ni, ho, he, to là phần đầu
của bài hát đó. Nhưng hiện nay người
Nhật học chữ theo bảng chữ cái
gồm 54 chữ, bắt đầu bằng
a,
i, u, e, o.
[3] Itō Tōgai
(1670-1736), nhà Nho sống ở Horikawa, Kyōto. Cha
ông là Itō Jinsai, người đă mở ra
một học phái mới trong Nho học. Itō
Tōgai là người thừa kế và phát
triển học phái đó, gọi là Phái cổ
học.
[4] Kiểu đàn
ba dây, gần giống đàn tranh ở Việt
Nam. Đây được coi là nhạc cụ
quan trọng trong âm nhạc truyền thống
của Nhật Bản.
[5] Ở đây,
từ này được dùng với nghĩa
chỉ người chuyên cố vấn công
việc của lănh địa cho lănh chúa, có
chức vị cao nhất trong số những gia
thần của lănh chúa.
[6] Ashigaru là
những người thuộc đẳng cấp
dưới vơ sĩ. Thời b́nh họ có
nhiệm vụ canh giữ thành, c̣n thời
chiến th́ làm việc hậu cần, tạp
vụ.
[7] Là một
khoảnh nhỏ trong nhà, thường được
làm cao hơn nền nhà, rộng chừng một
tấm chiếu truyền thống của
Nhật. Ở mỗi vùng khác nhau th́ tấm
chiếu này được làm theo kích cỡ khác
nhau, nhưng thường chiều dài khoảng
từ 170cm đến 191cm và chiều rộng
khoảng từ 75cm đến 95 cm. Trong Tokonoma có
đặt những đồ trang trí như tranh
vẽ, b́nh hoa, bức thư pháp... Đây có
thể coi là nơi trang trọng nhất trong căn
nhà của người Nhật.
[8] Lối viết
bằng bút lông nhỏ với nét thanh mảnh.
[9] Trước
đây, từ Hanshi là để chỉ loại
giấy có kích thước bằng nửa kích
thước của loại giấy có chiều dài
8 Shun (khoảng 24.24cm) và chiều rộng 1 Shaku 1
Shun (khoảng 33.03cm), nhưng sau này, Hanshi là
để chỉ luôn loại giấy này.
[10] Cuối
thời Mạc phủ, người ta tính 1 Kan
bằng 960 Mon, chứ không phải 1000 Mon như
trước. V́ vậy, cứ 96 Mon th́ được
tính là 100 Mon, tức là sẽ dôi ra 4 Mon.
[11] 1 Koku bằng
khoảng 180kg thóc.
[12] 1 Shō
bằng 1,8 lít.
Nguồn : http://www.talawas.org
đăng lại với sự đồng ư của dịch giả
Xem phần 1 2
3