Phạm
Thu Giang dịch
Phần 2/3 Chương 10: Vương chính duy tân
Bắt đầu thu học phí
Tôi chuyển trường từ Teppōzu đến
Shinsenza vào năm Minh Trị thứ nhất, hay c̣n
gọi là năm Keiō thứ tư (1868-ND). V́
trường có từ trước cuộc Minh
Trị duy tân, nên tôi lấy niên hiệu đó
để đặt tên cho trường thành Keiō-gijuku
(Khánh Ứng nghĩa thục). Các học tṛ
tản đi, nay quay trở về và trường
lại trở nên đông vui, tấp nập.
Số lượng học sinh nhiều lên,
cần thiết phải tăng cường
việc quản lư nơi ăn, chốn ở
chặt chẽ hơn, nên tôi đă viết
một cuốn sách nhỏ về nội quy trường
học. Nếu ngồi chép lại sẽ mất
nhiều thời gian, công sức nên tôi cho in và
phát cho mỗi học sinh một cuốn. Trong
đó có ghi nhiều điều, nhưng có
một điểm là hàng tháng sẽ thu học
phí từ học sinh. Đó là ư tưởng
mới, được thực hiện đầu
tiên ở trường Keiō-gijuku.
Trước đó, trong các trường tư
thục của Nhật đều theo cách
của người Trung Hoa, tức là các
thầy sẽ thu tiền hoặc lễ vật
khi nhập môn để nhận thầy. Trong
suốt quá tŕnh học, mỗi năm sẽ
phải mang lễ đến hai lần vào
dịp Obon [1] và
dịp cuối năm. Tùy từng học sinh mà
có thể chuẩn bị tiền hoặc đồ
vật ǵ đó, gói ghém cẩn thận mang
đến dâng thầy. Nhưng theo tôi th́
những đồ vật đó sẽ không có tác
dụng thiết thực. Giảng dạy cũng
là một công việc, mà đă là công việc
th́ phải được trả lương. Không
có chuyện ǵ xấu ở đó, nếu như
quy định mức lương rơ ràng và công
khai. Tôi gọi là “Tiền học phí” và hàng
tháng tiến hành thu của mỗi học sinh 2
Bu tiền vàng để các học sinh lớp trên
dạy lại các học sinh lớp dưới.
Thời đó, một tháng cứ có khoảng 4
Ryō tiền vàng là đủ để chi phí
cho việc ăn ở trong trường. V́
vậy, hàng tháng sẽ trích tiền học phí
mà học sinh nộp để chi cho giáo viên,
mỗi người 4 Ryō là coi như tạm
sống được, c̣n thừa sẽ đem
bổ sung vào quỹ của trường.
Ngày nay, việc thu học phí là chuyện
đương nhiên, nhưng khi mới bắt
đầu thực thi, thiên hạ xung quanh
phải trố mắt v́ ngạc nhiên. Tôi
bảo mỗi tháng học sinh chỉ cần mang
đến 2 Bu tiền vàng, không cần gói vào
giấy hay thắt dây ǵ hết. Có cả thông
báo rằng, nếu mang 1 Ryō sẽ được
trả lại tiền thừa. Thế nhưng cũng
vẫn có những học sinh gói tiền cẩn
thận vào giấy, buộc lại và đem
đến. Mà như thế th́ tôi bảo: gói vào
giấy buộc lại sẽ khó cho việc
kiểm tiền và cố t́nh tháo ra trả
lại học tṛ. Chúng tôi thực hiện quy
định này khá nghiêm chỉnh, nên việc
mọi người xung quanh lấy làm ngạc
nhiên cũng là điều dễ hiểu.
Thú vị là hiện nay, việc này đă
đương nhiên trở thành cách làm chung trên
toàn nước Nhật mà không ai có ư kiến ǵ.
Không cần nói đến ư nghĩa của
việc làm đó là lớn hay nhỏ, mà
chỉ riêng sự cố công thực hiện
những quy định mới như vậy
đă phải rất cần một sự táo
bạo, quyết đoán. Nhưng cũng may là
việc làm đó được tiến hành trôi
chảy từ đầu đến cuối và
nhanh chóng lan rộng ra nhiều nơi khác. Đối
với tôi, đó coi như một sở
nguyện đă thành hiện thực nên không c̣n
ǵ vui hơn nữa.
Keiō-gijuku, trường học hoạt động
duy nhất trong cả nước Nhật
Mặc dù tôi không động tĩnh ǵ, nhưng
diễn biến trong thiên hạn th́ thật khó
hiểu. Ngay trong cơn binh mă tao loạn mà
ở đâu đó tự nhiên lại rộ lên
phong trào t́m hiểu về phương Tây. Sau
trận khói lửa ở Ueno lại đến
chiến sự ở Ōshū (Áo-Châu) [2]
. Khi đó, vẫn có nhiều học sinh đến
nhập học và trường của tôi càng
nhộn nhịp hơn. Nh́n ra bên ngoài thấy các
trường học của Mạc phủ
tất nhiên đă bị xóa bỏ, thậm chí
các thầy đồ không biết đă đi
đâu về đâu. C̣n chính quyền mới th́
chưa b́nh tĩnh ngồi lại để nghĩ
đến việc mở trường học. Trên
cả nước Nhật chỉ có trường
Keiō-gijuku là nơi duy nhất duy tŕ việc
nghiên cứu, học tập.
Khi đó, có lần tôi nói chuyện với
học tṛ rằng: “Ngày xưa trong cuộc
chiến của Napoleon, vận mệnh nước
Hà Lan đă đi đến tuyệt vong. Không
chỉ ngay tại bản quốc, mà những vùng
đất người Hà Lan chiếm được
trước đây cũng bị tước
đoạt đến tận Ấn Độ,
đến mức người Hà Lan không c̣n
chỗ để cắm cờ. Nhưng may thay,
thế giới này c̣n một chỗ duy nhất,
đó là đảo Dejima (Xuất-đảo)
ở Nagasaki của Nhật Bản. Dejima vốn
là nơi người Hà Lan đến cư trú.
Chiến tranh ở châu Âu không ảnh hưởng
đến Nhật Bản, nên quốc kỳ
của Hà Lan vẫn được cắm hiên
ngang ở Dejima, có nghĩa là vương
quốc đó chưa hẳn đă tuyệt vong.
Đó là điều mà cho đến nay người
Hà Lan vẫn tự hào. Nói như thế để
thấy rằng, trong ngành Tây phương
học, trường Keiō-gijuku của chúng ta
cũng có thể ví như đảo Dejima, dù bên
ngoài có đổi thay, có biến động
thế nào th́ trường vẫn vững vàng
duy tŕ ngành Tây phương học. Trong t́nh h́nh
căng thẳng như vậy, nhưng chúng ta
quyết sẽ không nghỉ một ngày nào.
Chừng nào trường này c̣n th́ Nhật
Bản vẫn c̣n là một nước văn
minh trên thế giới. Các tṛ phải làm sao
để không bị chi phối bởi t́nh h́nh
bên ngoài”.
Tôi đă nói như vậy để động
viên đông đảo các học tṛ chú tâm vào
việc học.
Khó khăn trong việc quản lư trường
- Nạn viết bậy gia tăng
Mặc dù vậy, việc quản lư trường
cũng rất khó khăn. Sau chiến loạn,
số lượng học tṛ tăng lên ngoài
dự đoán, nhưng thành phần khá phức
tạp. Nhiều người là lính tham gia
chiến sự ở Ōshū hồi năm ngoái,
sau đó bị loại trừ khỏi đoàn
quân binh, không trở về quê mà gác súng
ống vào trường tôi xin học. Trong đó
c̣n có cả những tướng lĩnh trẻ
của vùng Tosa, đeo hai thanh gươm lớn
nhỏ. Họ không mang súng, nhưng mặt th́
hằm hằm như sẵn sàng tuốt gươm
bất cứ lúc nào. Có người c̣n mặc
áo kimono màu đỏ của phụ nữ.
Hỏi ra th́ họ hănh diện trả lời
rằng, đó là kimono đă lấy được
trong chiến trận ở Aizu (Hợp-Tân) [3]
. Thực ra, đó là những người hung hăng
và đáng sợ, chỉ nh́n qua đă thấy
không nên động đến là hơn.
Như đă nói, khi c̣n ở Shinsenza, tôi có
thảo một bản nội quy đơn
giản, quy định về việc cấm
học sinh cho nhau vay tiền. Phải đi
ngủ và thức dậy đúng giờ quy định.
Đến bữa phải xuống nhà ăn
đúng giờ. Ngoài ra, tuyệt đối không
được vẽ bậy. Vẽ lên tường,
lên tấm liếp ngăn tất nhiên là
cấm, mà vẽ lên giấy bao quanh đèn
lồng, bàn ghế hay bất cứ một đồ
vật ǵ của riêng ḿnh cũng không được.
Đă quy định như vậy có nghĩa là
học sinh phải nghiêm chỉnh thực
hiện. Tấm liếp nào bị viết
bậy, đích thân tôi mang con dao nhỏ đến
khoét đi và buộc học sinh ở pḥng đó
phải dán giấy mới vào. Trong trường
hợp giấy bao quanh đèn lồng bị
vẽ bậy, bất kể đó là đèn
lồng của ai cũng phạt chủ nhân
của chiếc đèn đó. Nếu các học
tṛ có biện luận: “Thưa thầy, không
phải con mà người khác vẽ!” tôi cũng
không tha.
Đổ lỗi cho người khác, không dám
nhận coi như là bao biện. Đèn của ḿnh
mà ngồi nh́n để người khác vẽ
bậy là không được. Đấy cũng
là một tội. Đèn có h́nh vẽ bậy không
được để trong trường mà
phải xé giấy ra dán lại. Tôi phạt
rất nghiêm, không tha cho một trường
hợp nào. Kể cả những cậu hung hăng,
có nói thế nào tôi cũng không chùn bước
và thực hiện rất triệt để.
Có một cậu học tṛ mà tôi không c̣n
nhớ tên đă viết bậy cả lên
gối đầu bằng gỗ. Tôi bắt
được và bảo: “Ǵ thế này?
Thầy đă quy định không được
vẽ bậy lên bất cứ vật ǵ, kể
cả đồ riêng mà tại sao tṛ lại
cố t́nh trái ư? Thầy muốn xóa đi, nhưng
gối bằng gỗ không xóa được.
Thầy sẽ đập vỡ. Con phải đem
gối khác đến!”. Nói rồi tôi lấy
chân giẫm cho vỡ chiếc gối đó.
Để xem các học tṛ phản ứng như
thế nào? Nếu họ tiến lại gần,
mặc dù không nói ra rằng, sẽ sẵn sàng
làm đối thủ của họ, mà chỉ
tỏ thái độ đă làm họ không dám.
Tạng người tôi vốn cao lớn, nhưng
thực ra đến Nhu đạo tôi cũng không
biết. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, tôi
chưa đánh ai bao giờ, nhưng vẻ
giận dữ th́ như sắp lao vào người
khác, không chỉ to miệng mà cả thân h́nh cũng
làm đối phương co rúm lại và nghe
theo. Những kẻ hung hăng từ chiến
trận trở về cũng phải im lặng và
trật tự trong trường tạm thời
được thiết lập trở lại.
Trong số đó cũng đă có nhiều
học tṛ ngoan, chịu khó học tập và
giữ nghiêm kỷ luật. Điều đó làm
cho không khí trong trường lành mạnh lên
rất nhiều. Tôi đă ở khu Shinsenza cho
đến năm Minh Trị thứ tư
(1871-ND).
Bộ Giáo dục đầu tiên
Những biến động bởi cuộc
cải cách dần cũng tạm lắng, thiên
hạ yên b́nh trở lại. Chính phủ
mới lao vào giải quyết những tàn dư
cũ. Đó không phải là việc dễ dàng,
nên cho đến măi năm Minh Trị thứ năm
(1872-ND), thứ sáu vẫn chưa thể quay ra
quan tâm đến giáo dục được. Lúc
đó, trên toàn quốc chỉ có một cơ
sở duy nhất dạy Tây phương học
là trường Keiō-gijuku của tôi. Cho đến
trước khi chính phủ thực thi chính sách
Haihanchiken (Phế-phiên-trí-huyện) [4]
th́ vẫn chỉ có trường Keiō-gijuku là
hoạt động. Sau đó, Bộ Giáo dục
mới được thành lập. Từ đó
trở đi, chính phủ bắt đầu
thực sự dồn sức vào phát triển giáo
dục.
Trường tôi vẫn dạy như trước
đây và ngày càng có nhiều học sinh đến
nhập học. Số lượng học sinh luôn
ở mức từ 200 đến 300 người.
Chúng tôi quyết định chỉ dạy cách
đọc và giải nghĩa sách viết
bằng Anh ngữ, chứ không dạy Hán
học như đă từng được
tiến hành ở Nhật từ trước
đến nay. V́ vậy, trong số học sinh có
rất nhiều người không đọc
được chữ Hán. Dần dần, càng
xuất hiện nhiều học sinh có thể
đọc được bất kỳ văn
bản bằng tiếng Anh nào, mà sách vở, thư
từ chữ Hán th́ lại không hiểu ǵ.
Hơi ngược đời, v́ người ta
học chữ Hán trước, sau mới
chuyển sang tiếng Anh, c̣n ở trường
tôi th́ có người học Tây phương
học xong mới chuyển sang Hán học.
Những người như cậu Hatano Shōgorō
(Ba-Đa-Dă Thừa-Ngũ-Lang) [5]
từ nhỏ học toàn sách vở tiếng Anh
và không đọc được sách vở
của Nhật Bản. Nhưng nhờ có văn
tài bẩm sinh và trí lực dồi dào, nên sau
khi học Tây phương học, cậu đă
chuyển sang Hán học và tiến bộ nhanh chóng.
Cho đến nay, cậu Hatano đă trở thành
một học giả xuất sắc và không
hề gặp trở ngại ǵ về mặt ngôn
ngữ.
Phương châm giáo dục: dạy chủ
yếu về khoa học tự nhiên và giáo
dục tinh thần độc lập
Nhờ có nhiệt tâm muốn quảng bá Tây phương
học trên toàn nước Nhật và muốn xây
dựng đất nước văn minh, giàu
mạnh như các nước phương Tây, nên
trường Keiō-gijuku của tôi đă
trở thành tiên phong, hướng đạo cho
ngành Tây phương học ở Nhật
Bản. Trường đă đóng vai tṛ như
một “đại lư” trong ngành nghiên cứu
Tây phương học, một việc không
phải do người phương Tây nhờ
vả. V́ vậy, chúng tôi bị những người
ngoan cố, cổ hủ ghét là chuyện dễ
hiểu.
Tư tưởng giáo dục của tôi là coi
trọng những quy luật tự nhiên, dạy
học sinh chủ yếu là hai bộ môn toán
học và vật lư. Tôi muốn họ suy nghĩ
về mọi sự vận động của
những vật hữu thể như con người,
vạn vật theo lối tư duy đó. C̣n
về mặt đạo đức, chúng tôi công
nhận con người là chí tôn, chí linh của
vạn vật nên phải trân trọng, không
được coi thường hay khinh miệt và
cũng không được làm điều ǵ trái
với nhân luân con người. Bất nhân,
bất nghĩa, bất trung, bất hiếu,
những điều xấu xa đó, dù có ai
nhờ hay thúc bách đến đâu, cũng không
được làm. Mỗi người đều
phải hướng đến những hành
động cao thượng và phải có tinh
thần tự lập cao. Trước hết,
phải có một cơ sở giữ cho tâm không
được động loạn và chuyên chú vào
điều ḿnh định hướng đến.
Thử nh́n tương quan giữa phương
Đông và phương Tây, về sự tiến
bộ trước-sau, nhanh-chậm sẽ
thấy một sự khác biệt lớn. Cả
hai nền học thuật đều thuyết giáo
các vấn đề về đạo đức,
đều có những lư luận về kinh
tế. Cả văn lẫn vơ, cả hai đều
có những sở trường, sở đoản
khác nhau. Nhưng nếu xét về sức
mạnh của một quốc gia, về phú
quốc cường binh và vấn đề
hạnh phúc của người dân th́ các
quốc gia ở phương Đông phải
chịu lùi bước trước các quốc
gia phương Tây. Sức mạnh của
bất kỳ một quốc gia nào cũng
sẽ bắt nguồn từ giáo dục, nhưng
phương pháp giáo dục của phương
Đông và phương Tây lại khác nhau. Phương
Đông nặng về tư tưởng Nho giáo,
c̣n phương Tây thiên về chủ nghĩa văn
minh.
Nếu so sánh như vậy th́ phương Đông
thiếu hai điểm. Về mặt hữu h́nh,
thiếu các khoa học tự nhiên, và về
mặt vô h́nh thiếu tinh thần độc
lập. Chính trị gia th́ trị nước,
doanh nhân th́ tiến hành các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, người dân phải
có tinh thần yêu nước, gia đ́nh
phải đoàn tụ, chan ḥa hạnh phúc.
Nếu t́m về cội nguồn sẽ hiểu
nguyên do tại đâu. Ví dụ một cách
gần gũi, dễ hiểu là phạm vi
một quốc gia, mà xa xôi hơn là phạm vi
toàn nhân loại. Toàn thể loài người và
vạn vật ở đâu cũng không thể
thiếu được các tri thức về khoa
học tự nhiên, ở đâu cũng không
thể thiếu tinh thần độc lập. Nhưng
điều quan trọng đó lại quá bị
coi thường ở Nhật Bản. V́ thế,
không thể mở cửa để sánh vai
với các cường quốc phương Tây
được. Tôi tin tưởng một cách sâu
sắc, đó là do lỗi của nền giáo
dục Hán học.
Trong hoàn cảnh hiện nay, không đủ kinh
phí, không thể xây dựng những khoa học
chuyên ngành, nhưng trong điều kiện có
thể, chúng tôi quyết định theo phương
châm giáo dục dạy chủ yếu về các
khoa học tự nhiên. Bên cạnh đó, về
mặt đạo đức th́ đề cao tư
tưởng độc lập. Từ sớm
đến chiều, trong bất cứ câu
chuyện nào, chúng tôi cũng đều nói
về sự cần thiết hoặc tiến hành
các bài giảng, viết sách chỉ dẫn
về phương châm đó.
Chúng tôi đă cố công mày ṃ và nỗ
lực thực hiện chủ trương đề
ra, nên niềm tin của các học sinh đối
với Hán học nhạt dần đi. Khi
được nghe kể, hiện nay các học
sinh cũ của trường đang tích cực
hoạt động bên ngoài xă hội, mặc dù
ở cương vị công tác nào họ
vẫn không rời xa các tri thức về khoa
học tự nhiên, giữ ǵn phẩm cách cao thượng
và tinh thần độc lập. Đối
với tôi, đó là niềm vui lớn lao
nhất trong những năm về già.
Một ḿnh đối địch với
cả nền Hán học trong nước
Tôi không tôn thờ Hán học và không đặt
Hán học ở vị trí quan trọng. Hơn
thế, từ lúc c̣n trẻ, tôi đă có tâm
huyết muốn loại bỏ hết những
học thuyết thủ cựu hủ nho.
Việc các thông dịch viên hay những nhà Tây
phương học phê phán các nhà Hán học là
chuyện b́nh thường, không hại ǵ
cả. Nhưng tôi lại là người đọc
khá nhiều sách Hán học. Tôi đọc, nhưng
luôn tỏ ra không biết để những lúc
cần thiết lại cho ra những phê phán thâm
sâu. Điều này đă làm cho các nhà Nho
thời đó không thể không hận tôi
được.
Với những người khác th́ tôi luôn
thật ḷng, nhưng với các nhà Nho th́ khác. Tôi
có biết các điển tích, điển
cố mà các nhà Nho thường dùng v́ như tôi
đă nói, từ thuở nhỏ tôi đă theo
học các sách vở kinh điển khó từ
những người thầy nghiêm khắc.
Những cuốn như Xuân thu tả thị
truyện, Quốc ngữ, Sử kư, Hán thư
th́ tất nhiên là tôi đă đọc. Ngoài ra,
c̣n học tứ thư ngũ kinh như Kinh
Thi, Kinh Thư... Cả những cuốn
rất thú vị của Lăo Tử, Trang Tử tôi
cũng đều đă được nghe
thầy giảng hoặc tự ḿnh nghiên
cứu. Đó là nhờ công dạy dỗ
của thầy Shira'ishi, một danh Nho của
Nakatsu.
Mặc dù thông hiểu những sách kinh sử như
vậy, nhưng tôi luôn tỏ ra không biết và
khi có dịp th́ nắm ngay những điểm
yếu của Hán học để tấn công
không thương tiếc, cả bằng lời
nói và trên sách vở. Chuyện đó người
ta gọi là “nuôi ong tay áo”, mà đối
với các nhà Nho th́ tôi là kẻ ngoại đạo
xấu xa.
Việc tôi lấy Nho giáo làm kẻ đối
địch của ḿnh đến mức như
vậy, v́ theo tôi, trong thời đại mở
cửa mà để tư tưởng thủ
cựu của Nho giáo đọng vào trong trí năo
lớp hậu thế, th́ tư tưởng văn
minh của phương Tây sẽ rất khó vào
được Nhật Bản. Tôi nỗ lực
hết sức để cứu lớp trẻ,
để đưa họ đến với
nền học thuật mà tôi đặt niềm
tin tuyệt đối vào đó. Thực tâm tôi
đă chuẩn bị tinh thần tập hợp
tất cả các nhà Nho đến để
một ḿnh đối đầu với họ.
Nh́n vào t́nh h́nh chính phủ và xă hội bên ngoài,
nói chung, việc giáo dục văn minh đă
được truyền bá khá rộng răi, nhưng
những người từ trung niên trở lên
lại không thể bước vào địa
hạt của Tây phương học được.
Khi làm chuyện ǵ đó, họ đều
phải dựa vào Hán học, mọi sự
đều suy tư từ Hán học. V́ thế,
việc tôi dám coi thường và thách thức
với cả nền Hán học mà họ cho là
thần bí, thâm hậu là việc rất nguy
hiểm cho bản thân tôi.
Một ḿnh viết và dịch sách
Hơn nữa, trước và sau cải cách Minh
Trị là thời kỳ mà tôi dồn sức vào
viết, dịch sách. Về bối cảnh ra
đời của các tác phẩm này, tôi có cho
in trong Tuyển tập Fukuzawa Yukichi, nên xin
được lược bớt, không tŕnh bày
lại ở đây. Việc dịch và viết
sách vốn là ư tưởng của riêng tôi. Tôi
không nhận lời yêu cầu, chỉ thị
của ai cũng như không bàn bạc cùng ai, mà
tự ḿnh viết theo ư của ḿnh. Không kể
với các nhà Nho thời đó, tất nhiên, mà
với cả bạn bè cùng chí hướng theo
Tây phương học, tôi cũng không
đưa cho xem và cũng không nhờ viết giúp
cả lời giới thiệu. Như thế có
lẽ không được hay. Đáng ra tôi nên
nhờ một ông thầy cao niên nào đó
viết giúp lời tựa th́ tốt hơn. Nhưng
tôi không thích như vậy. Dài ḍng quá, mà không
cần biết bản dịch của tôi
thực tế thế nào, tất cả những
người theo trường phái Hán học
cổ xưa có lẽ đều không ưa ǵ.
Mặc dầu vậy, những cuốn sách đó
vẫn được phổ biến rộng răi,
là v́ đang có cao trào tư tưởng mở
cửa, khai hóa văn minh.
Chương 13
Lấy danh nghĩa sách nguyên bản để
kiếm tiền
Có lần tôi đă mang sách nguyên bản đến
chỗ Karō tên là Okudaira Iki và nhờ mua giúp.
Karō vốn là một chuyên gia, nên khi nh́n
thấy cuốn sách liền bảo ngay:
“Cuốn này hay đấy. Chắc là đắt!”.
Ông ta hết lời khen ngợi, nhưng tôi
vốn biết rơ bụng dạ ông ta thế nào.
Nếu tôi vênh vang bảo cuốn đó rất
hữu ích và giá mà tôi bán là giá rẻ không
ngờ, ông ta sẽ nói: “Nếu đúng như
thế, cậu đem đi chỗ khác mà bán!”.
Tôi biết rơ tim đen của ông ta, nên đă
đón đầu: “Đúng là như thế,
đây là cuốn sách mà tôi rất cần và
việc tôi đến nhờ ông mua giúp là v́ tôi
có thể nhận tiền đó để chi tiêu,
nhưng lại có thể mượn về lúc nào
cần. Thực ra, đó là cách để tôi
nhận không tiền của lănh địa. V́
vậy, tôi mạo muội bày tỏ thật suy
nghĩ của ḿnh và mong ông cấp cho tôi
tiền, trên danh nghĩa là tiền mua sách. Nói tóm
lại, tôi chỉ là một kẻ ăn mày khéo
xin mà thôi!”.
Thấy tôi nói thẳng căng ra, ông ta cũng
đành chịu. Chuyện tôi dám làm như
vậy là v́, có nghe kể rằng, chính ông ta
đă đem bán một cuốn sách nguyên
bản cho lănh địa với giá 20 Ryō ǵ
đó, nên có một đối sách ngầm là
nếu ông ta từ chối, tôi sẽ làm tung
mọi chuyện ra. Đây quả thực là
một phương tiện uy hiếp hữu ích,
nên ông Karō không c̣n cách nào khác, đành
thuận theo. Tôi lấy danh nghĩa là bán sách
theo đúng như tiền lệ đă có từ
trước để lấy hơn 20 Ryō.
Trong đó, tôi gửi về quê cho mẹ 15 Ryō,
tạm thời giúp cụ qua cảnh nghèo túng.
Con người là sâu mọt của xă hội
Như vậy, tôi đă làm một việc
hết sức đáng bị khinh bỉ và không
c̣n ǵ để biện minh. Tôi làm việc
đó mà không hề biết xấu hổ, không
hề cho rằng, đây là việc xấu, mà
chỉ nghĩ, nếu không lấy th́ thiệt mà
thôi. Như người đi săn sẽ
chọn việc bắn một con chim nhạn hơn
là đem về một con sẻ nhỏ, tôi
đă chỉ nghĩ là làm thế nào để
có thể lấy được một khoản
tiền lớn và thầm hănh diện về
việc ḿnh làm. Đó thực ra là một điều
đáng khinh rẻ, nhưng bản chất
của tôi không hẳn là tồi tệ đến
mức đó.
Tôi sinh ra trong một gia đ́nh mà gia phong không
phải là tồi, từ nhỏ đă được
giáo dục bởi một người mẹ có
tâm hồn trong sáng và ngay thẳng. Tôi tự
đặt ra cho ḿnh một nguyên tắc: Khi giao
du với người khác, không bao giờ
được màng đến tiền bạc
của họ. Nhưng chỉ với những cơ
quan chức trách của Mạc phủ là tôi luôn
có dă ư làm những việc trái với nguyên
tắc sống của ḿnh mà không hề cảm
thấy xấu hổ. Thế mới thấy con
người chính là sâu mọt của xă
hội.
T́nh h́nh xă hội mà luôn ở một trạng
thái ổn định th́ sâu mẹ sẽ đẻ
sâu con và cứ như thế đến vô
tận. Để thay đổi bộ mặt
của những con sâu, tức những nô lệ
của thói tục cũ đó, xă hội
cần có một cuộc cải cách lớn.
Bởi vậy, sự kiện Mạc phủ,
tức bộ máy chính quyền đă từng
tồn tại trong suốt 300 năm bị
lật đổ, là một cuộc cải cách
lớn của xă hội Nhật Bản. Theo
đó, tôi cũng như người tỉnh
dậy sau cơn mộng mị và cũng
phải thay đổi cách ứng xử của
ḿnh với Mạc phủ. Cho đến nay, tôi
đă làm những điều đáng xấu
hổ, v́ đă quá tôn sùng người của
Mạc phủ, coi họ là người cao quí và
tài sản của họ là của công, của
thiên nhiên. V́ thế, chính tôi bất giác đă
trở thành kẻ vô liêm sỉ.
Nhưng từ nay, các lănh chúa cũng là
những người b́nh thường, b́nh đẳng
như bao người khác. Từ cách nh́n
nhận này tôi đi đến ư nghĩ cho
rằng, việc tham lam vơ vét đồ
của người khác là không xứng đáng
với một người đàn ông. Khi đó,
tôi không nghĩ sâu sắc và cũng không nói ra
bằng lời, nhưng hiểu trong ḿnh đă có
một sự chuyển biến lớn. Một người
trước đây đă từng làm những
việc đáng khinh rẻ với Mạc phủ
như vậy, mà sau này có lúc người
của Mạc phủ mang đến cho tôi cũng
từ chối thẳng thừng.
Tôi không từ chối th́ bên ngoài cũng không
ai cười chê mà tự nhiên lại biến
đổi ra như vậy. Kẻ mà cho đến
gần đây vẫn tham lam như người
Triều Tiên, bây giờ lại thẳng thắn
bỏ trả những thứ người ta
đem đến cho ḿnh và trở thành một
kẻ sĩ cao thượng, liêm khiết không
khác ǵ anh em nhà Bá Di, Thúc Tề [6]
. Đó há chẳng phải là một sự
chuyển biến phi thường hay sao? Đây
không phải là chuyện của người khác,
mà chính là chuyện của bản thân tôi, là
điều tự tôi nh́n lại và phê phán ḿnh.
Cũng phải nói thêm rằng, cùng với
việc chính quyền phong kiến trung ương
bị lật đổ th́ tâm lư bị coi là nô
lệ trong từng cá nhân cũng theo đó mà
mất đi.
Không nên đặt hy vọng vào văn minh
Trung Hoa
Nói rộng ra một chút phải nhắc đến
Trung Hoa. Nh́n vào thực trạng hiện nay, khi mà
nhà Măn Thanh vẫn tồn tại th́ việc
đưa người dân Trung Hoa tiến lên khai
hóa văn minh là điều không tưởng và
vô ích. Nói ǵ th́ nói, nếu đào đến
tận gốc rễ chính quyền cũ và
thiết lập một cơ cấu mới, ḷng
người cũng sẽ thay đổi theo. Chính
phủ mới, dù có những nhân vật
kiệt xuất đến thế nào, kể là
có một trăm ông Lư Hồng Chương [7]
cũng không thể làm được ǵ.
Người Trung Hoa muốn tiến hành khai hóa văn
minh, thay đổi nếp nghĩ của người
dân, không c̣n diệu kế nào khác hơn là
phải lật đổ chính quyền trung
ương hiện nay. Lật đổ
được chính quyền đó, nhưng
tiếp theo đó có tiến hành được
cuộc Vương chính duy tân như ở
Nhật hay không c̣n là điều khó mà bảo
đảm được. Muốn giành độc
lập cho đất nước, không c̣n cách nào
khác là phải lật đổ chính phủ
hiện nay. Chính phủ là của quốc gia hay
quốc gia thuộc về chính phủ, những
điều như vậy tôi chắc người
Trung Hoa cũng hiểu.
Sự yên ắng trong lănh địa là
nhờ chính ḿnh
Từ chuyện về tiền bạc tôi
viết lan man thành ra dài ḍng, nhưng tiện
đây, tôi cũng xin kể một chút về lănh
địa Nakatsu.
Như đă nói ở phần trên, tôi không tham
dự ǵ vào những cuộc tranh luận về
chính trị ngoài thiên hạ như Cần vương,
Tá Mạc. Về đường hướng chính
trị của lănh địa Nakatsu, tôi cũng
rất lạnh nhạt, nên tự do, không
phải vướng bận ǵ. Khi cuộc Vương
chính duy tân được tiến hành, quan sát
sự t́nh của các lănh địa, tôi
thấy những tranh luận về Cần vương,
Tá Mạc ngày càng lan rộng. Hơi xảy ra
chuyện ǵ là người ta liền bắt các
cựu đại thần mổ bụng tự sát.
Hoặc để cải cách thể chế hành
chính của Mạc phủ với một
quyết định anh minh nhất, lại
nổ ra những cuộc tranh luận và chia bè
phái dẫn đến mâu thuẫn, đổ máu.
Trong mười lănh địa, phải có đến
tám, chín lănh địa xảy ra t́nh trạng như
vậy.
Khi đó, nếu tôi có tham vọng chính trị
và về lănh địa phát biểu quan điểm
của ḿnh là Cần vương hay Tá Mạc th́
nhất định sẽ xảy ra bạo
loạn chứ không sai. Thế nhưng, tôi im
lặng, không hề phát ngôn ǵ. Hơn nữa, c̣n
thờ ơ đến mức có ai đến nói
ǵ, tôi cũng gạt đi bảo không cần nói
nhiều những chuyện như thế, nên thôi
đi th́ hơn. Nhờ vậy, lănh địa
Nakatsu rất yên ắng, không có chuyện
giết chóc lẫn nhau. Tôi nghĩ đó là do tôi
không b́nh luận, nên trong lănh địa không có
chuyện giết chóc, cũng không xảy ra
việc người này thăng quan, người
kia thoái chức hỗn loạn.
Nói chuyện một cách nửa vời với
những vị chức trách của lănh địa
Năm Minh Trị thứ ba (1870-ND) tôi về
Nakatsu đón mẹ. Khi đó, thể chế hành
chính của lănh địa đang ở vào t́nh
thế biến đổi mạnh mẽ. Nghe
phong thanh Fukuzawa từ Tōkyō về, người
ta cho gọi đến tư dinh của lănh chúa.
Ở đó đă tập trung đông đủ
những vị chức sắc quan trọng
của lănh địa. Có lẽ họ đều
chờ tôi đến và phát ngôn điều ǵ
ghê gớm.
Khi thấy tôi xuất hiện họ hỏi xem lănh
địa cần phải làm thế nào,
rằng, họ như đang đứng trong sương
mù, phân vân không biết nên đi theo đường
hướng nào. Họ nói với vẻ mặt
rất lo lắng, nên tôi trả lời rằng:
“Không cần phải làm ǵ cả. Các lănh
địa đang ầm ĩ về việc
phải chia lại bổng lộc cho đều,
c̣n theo tôi th́ cứ để nguyên như
hiện nay, không nên làm ǵ cả. Người nào
trước kia nhận 1000 Koku th́ nay vẫn
giữ nguyên 1000 Koku, người nhận 100 Koku
cũng cứ cho họ nhận 100 Koku. Giữ
nguyên sự yên b́nh như hiện nay là thượng
sách”.
Tôi nói cụ thể và rành rọt ư nghĩ
đó, nên tất cả những vị chức
sắc có mặt đều ngạc nhiên, đồng
thời vui mừng ra mặt, khi thấy tôi tṛ
chuyện một cách ôn ḥa như vậy.
Khuyên bán vũ khí
Câu chuyện tiến sâu thêm th́ tôi đưa ra
một đề nghị: “Như tôi vừa nói,
vấn đề bổng lộc hay đẳng
cấp nên để nguyên như vậy. Nhưng
tôi muốn khuyến cáo một điều
rằng trong lănh địa hiện nay có cả
súng lớn và súng nhỏ. Có vũ khí th́
lập được nước. Đó là
điều dễ thấy. Thế nhưng,
với những vũ khí mà các vơ sĩ và lănh
địa có trong tay, liệu trên thực tế
chúng ta có thể tiến hành chiến tranh
được không? Tôi cho là không thể!
Chẳng hạn như hôm nay mà người Chōshū
đến làm bạo loạn, chúng ta cũng
đành phải theo họ. Mà nhỡ quân Sasshū
có kéo đến tấn công, chúng ta cũng không
chống trả lại được, đành
khuất phục theo. Đây mới là điều
tôi thực sự lo lắng. Theo tôi, lănh địa
yếu thế không có lỗi, mà việc có vũ
khí chỉ gây họa thêm. Thế nên, tôi
chỉ muốn lănh địa bán hết vũ
khí đi. Nh́n lại, thấy đại bác
của chúng ta toàn là đại bác Krupp [8]
. Thời giá bây giờ mỗi khẩu có
thể bán được 3000, 5000 hay 10.000 yên. Chúng
ta nên đem bán hết đi như đảo Ryūkyū
(Lưu-Cầu) [9]
ngày xưa.
Khi người Chōshū đến, ta cũng
“Dạ, dạ”, mà người Sasshū đến,
ta cũng “Vâng, vâng”. Nếu người Sasshū
bảo thế này, thế kia, ta bảo họ
đi mà nói trực tiếp với Chōshū.
C̣n khi người Chōshū yêu cầu ǵ, ta
nên bảo họ trực tiếp đến
nhờ người Sasshū. Nghĩa là ta nên
chuyển những phiền toái cho người khác,
c̣n lănh địa chúng ta thế nào cũng
chấp thuận được. Theo tôi xử
sự như thế là hơn. Làm như vậy
sẽ không có chuyện giết người, mà
không giết người th́ họ sẽ không có
cớ ǵ để bắt ta. Hơn nữa, dù
thế nào đất nước này cũng theo
đường khai hóa văn minh. V́ vậy, chúng
ta nên xây dựng trường học, giáo
dục cho lớp trẻ trong lănh địa theo
chiều hướng đó là tốt nhất.
Nếu chúng ta quyết định thực
hiện theo phương châm này và bán hết
sạch vũ khí đi th́ quả là tuyệt
vời.
Ở đây có một chuyện thế này. Qua
khảo sát t́nh h́nh Tōkyō, tôi thấy chính
phủ mới đang định tiến hành
cải cách toàn bộ hải quân và đang bí
về chuyện tiền bạc. Thế nên, ta
thử viết giấy vừa như là
đơn xin vừa như là giấy đăng
kư xin bán là được. Lănh địa
Nakatsu của chúng ta bỏ vũ khí như
vậy, mỗi năm sẽ để ra
được mấy vạn yên. Chúng ta mà
bảo sẽ nộp tiền đó cho chính
phủ để họ tùy ư chi tiêu th́ Bộ
hải lục quân sẽ rất vui mừng.
Về phần chính phủ, nếu ba trăm lănh
chúa, mỗi người chế tác một
loại vũ khí khác nhau, mỗi người
tổ chức một quân đội khác nhau,
cuối cùng làm sao thâu tóm được?
Chuyện làm thế nào để thống
nhất thiên hạ chẳng phải là đă
nằm trong sách lược của chính phủ
hay sao? Thế nhưng, nếu ở nơi này dùng
súng Krupp, lănh địa bên cạnh lại dùng
đại bác của Armstrong [10]
, nơi kia lại dùng các loại súng nhỏ
của Pháp, ngay ở đây lại có cả súng
Geweer [11] nhập
từ Hà Lan về từ ngày xửa ngày xưa.
T́nh trạng trong toàn nước Nhật có hàng
trăm, hàng ngh́n loại vũ khí như
thế, mà bây giờ có sự biến ǵ cũng
không thể tiến hành chiến tranh được.
Chúng ta nên nộp tiền cho chính phủ. Như
thế không chỉ bên phía chính phủ mừng
rỡ mà cả lănh địa Nakatsu cũng
được an lạc. Đó chính là hành
động nhất cử lưỡng tiện, nên
tôi khuyên lănh địa hăy làm theo như
thế”.
Vơ sĩ lưng trần
Thế nhưng, phía lănh địa lại gay
gắt phản đối ư kiến của tôi.
Trong số ba, bốn người phụ trách
về mặt quân sự của lănh địa,
những người như ông Suganuma Shingoemon
(Gian-Chiểu Tân-Ngũ-Tả-Vệ-Môn) [12]
là phản đối kịch liệt nhất.
Tất cả cử tọa hôm ấy đều
thống nhất một ư kiến. Tôi chẳng
thể làm ǵ được hơn, mới quay
ra các vơ sĩ bảo họ nên buông gươm
kiếm, để thắt lưng trần, nhưng
họ bảo, chỉ có điều đó là dù
thế nào cũng không thể bỏ được.
V́ vậy, tôi cũng không bàn sâu thêm nữa. Không
được th́ thôi, đừng làm, với tôi
thế nào cũng được. Họ cứ
việc làm theo ư họ, c̣n việc tôi nói là v́,
tôi cho rằng, nên như thế. Và câu
chuyện kết thúc ở đó, nhưng cũng
nhờ tôi không có nhiệt tâm bàn luận các
vấn đề chính trị mà các vơ sĩ
của Nakatsu cũng không bị thương tích
ǵ. Đó là một sự thực và ngẫu nhiên
tôi đă làm được một việc
tốt cho lănh địa.
Hơn nữa, ở Nakatsu người ta không
tiến hành giảm bổng lộc mà chia đều
theo đầu người, nên có người
tự nhiên lại được nhận
nhiều thêm. Phần chia rất có lợi. Ví
dụ như cô Ri (Lư), vợ tôi, trước
đây có thu nhập 250 Koku th́ nay nhận
được phiếu công trái trị giá 3000 yên.
Nhà anh Imazumi Yutarō (Kim-Tuyền Tú-Thái-Lang),
tức là anh rể của vợ tôi trước
đây, thu nhập 350 Koku, nay được
nhận 4000 yên. Nhưng bổng lộc nhận
được th́ cũng như một thứ
tiền chẳng trong sáng ǵ, thoáng chốc đă
hết veo. Chỉ có một điều tôi
muốn nhấn mạnh là trong khi bên ngoài
biến động ầm ầm th́ lănh địa
Nakatsu lại rất yên ả.
[1]Obon hay c̣n
gọi là Urabon vốn bắt nguồn từ
“Ullambana” của tiếng Phạn, dùng để
chỉ nghi lễ Phật giáo được
tổ chức vào ngày 15 tháng 7 âm lịch, hay c̣n
gọi là Lễ Vu Lan. Vào ngày này, người
ta thường tụng kinh, đi thăm mộ và
dâng đồ thờ cúng lên những vị
đă quy tiên trong họ tộc ḿnh.
[2]Địa danh xưa,
trải rộng trên các tỉnh Fukushima, Miyagi,
Iwate và Aomori của vùng Đông Bắc Nhật
Bản.
[3]Tên một lănh
địa xưa, nằm ở phía tây tỉnh
Fukushima ngày nay.
[4]Haihanchiken
(Phế-phiên-trí-huyện) là chính sách được
thực thi bắt đầu từ ngày 14 tháng 7
năm Minh Trị thứ tư (1871) nhằm xóa
bỏ lănh địa và các đơn vị hành
chính cũ, đưa các lănh chúa lên tập
trung ở Tōkyō. Thay vào đó là các
tỉnh trưởng được chính
quyền trung ương trực tiếp bổ
nhiệm và phái xuống các địa phương.
Tháng 11 năm 1871, thể chế hành chính
quốc gia với 3 phủ và 72 tỉnh
được thiết lập.
[5]Hatano Shōgorō
(1854-1929), người vùng Totominokuni Kakekawa
(thuộc tỉnh Shizuoka ngày nay). Ông đă kinh
qua nhiều trọng trách như đại
biểu nghị viện thành phố Tōkyō,
Tổng Biên tập báo
Nihon shimbun, Giám đốc
điều hành Ngân hàng Mitsui,…
[6]Bá Di, Thúc
Tề là hai nhân vật sống vào thời
cổ đại của Trung Quốc. Tương
truyền rằng, khi Vũ vương nhà Chu
tiến hành cuộc chinh phạt Trụ vương
nhà Ân, hai anh em Bá Di, Thúc Tề đă vỗ vào
ngựa của Vũ vương và khuyên ngăn,
nhưng Vũ vương không nghe theo, nên họ
tự thấy xấu hổ khi nhận bổng
lộc của nhà Chu bèn ẩn vào Thủ Dương
Sơn ăn cây độc mà chết. Họ
được coi là tấm gương của tâm
hồn cao thượng và thanh khiết.
[7]Nhà hoạt
động chính trị hàng đầu của chính
phủ Măn Thanh.
[8]Tên của công
ty chuyên sản xuất vũ khí của Đức.
[9]Tên cũ
của đảo Okinawa ngày nay.
[10]Tên của
một nhà chuyên sản xuất chế tạo
đại bác và các loại máy móc thủy
lực người Anh.
[11]Geweer tiếng
Hà Lan là chỉ súng tiểu lục, nhưng năm
1831 có một đợt nhập súng nhỏ này
từ Hà Lan một cách ồ ạt và từ
đó, người Nhật quen gọi tiểu
lục của Hà Lan là Geweer.
[12]Là vơ sĩ
cấp cao và am hiểu về cả binh pháp
của phương Đông và phương Tây.