|
Giới thiệu
bản dịch cuốn Phúc ông tự truyện
Hải Âu
(*)
|
Fukuzawa Yukichi, Phúc ông tự
truyện,
bản dịch tiếng
Việt của Phạm Thu Giang, Nhà xuất
bản Thế giới 2005
|
|
1. Về bản dịch cuốn Phúc ông tự
truyện
Cách đây khoảng bảy tám năm, khi làm
nghiên cứu sinh ở Nhật Bản, trong
giờ học môn “Chính sách ngoại giao
của Nhật Bản”, người viết bài
này đă được giảng viên giới
thiệu về Fukuzawa Yukichi (Phúc-Trạch
Dụ-Cát) như là một nhà ngoại giao thông
qua việc ông tháp tùng một số phái đoàn
của Mạc phủ Edo đi tham quan Mỹ và các
nước Châu Âu. Sau mỗi chuyến đi Mĩ
hoặc Châu Âu trở về Nhật, Fukuzawa
Yukichi đă viết nhiều bài giới
thiệu về nền văn minh Mĩ và các nước
phương Tây. Ông đă cùng các đồng
nghiệp dịch thuật, viết sách và sáng
lập ra trường Đại học Keiō
Gijuku Daigaku (Khánh-Ứng Nghĩa-Thục Đại-Học)
để giảng dạy, truyền bá những
luồng tư tưởng văn minh tiến
bộ của phương Tây cho thanh niên
Nhật Bản đương thời. Ông
chủ trương phải phát triển đất
nước để đuổi kịp các nước
văn minh phương Tây.
Từ đó trở đi, có dịp tiếp xúc
thêm với một số trước tác khác
của Fukuzawa Yukichi, tôi càng hiểu hơn
về cuộc đời cũng như sự
nghiệp của ông. Lịch sử Nhật
Bản đánh giá ông là nhà tư tưởng
tiến bộ, nhà giáo dục có ảnh hưởng
rất lớn tới con đường dân
chủ hóa, phát triển đất nước vào
cuối thế kỉ 19 và đầu thế
kỉ 20. Ông là người đă có công đóng
góp đáng kể vào phong trào phương Tây
học, dịch thuật những sách về
triết học, xă hội, dân chủ và khoa
học kĩ thuật phương Tây sang
tiếng Nhật. Nhờ đó, người
Nhật có thể tiếp cận tới nền
văn minh phương Tây được nhanh chóng
hơn.
Vào đầu thế kỉ thứ 21, để
tưởng nhớ về người sáng
lập ra Đại học Keiō Gijuku Daigaku, Nhà
xuất bản của trường này (Keio
University Press) đă biên tập và cho in lại toàn
bộ các trước tác của Fukuzawa Yukichi thành
Fukuzawa Yukichi toàn tập, bao gồm 12
cuốn, chứa đựng những trước
tác tiêu biểu của ông. Trong đó, có
một tập là Phúc ông tự truyện
(Fukuō Jiden), nghĩa là Tự truyện của
Fukuzawa Yukichi. Bản dịch tiếng Việt Phúc
ông tự truyện này vừa ra mắt
bạn đọc sau hơn 100 năm ngày mất
của Fukuzawa Yukichi.
Cùng vào thời gian t́m hiểu một số tác
phẩm của Fukuzawa Yukichi, tôi đă được
biết một số người cùng chung ư tưởng
dịch thuật các tác phẩm về triết
học, chính trị, kinh tế và khoa học kĩ
thuật sang tiếng Việt. Chúng tôi đă thành
lập một Nhóm dịch trẻ và kết
quả của những trao đổi trong nhóm này
là sự ra đời của Công ty cổ
phần sách Alpha (Xin tham khảo trên website
của công ty theo địa chỉ: www.alpha-book.com).
Dịch giả Phạm Thu Giang cũng là một
thành viên của Nhóm dịch trẻ. Phạm Thu
Giang là một sinh viên cao học, đang nghiên
cứu về lịch sử Nhật Bản,
rất quan tâm đến cuộc đời,
sự nghiệp của nhà tư tưởng
Fukuzawa Yukichi. Phạm Thu Giang có khả năng
dịch sách của ông từ nguyên bản
tiếng Nhật và đă chọn cuốn Phúc
ông tự truyện là cuốn sách dịch
đầu tay. Theo nhận định của tôi,
bản dịch này của dịch giả
Phạm Thu Giang khá thành công. Trong tương lai
không xa, có thể chúng ta sẽ có thêm bản
dịch thứ hai của dịch giả Vĩnh
Sính, nhà nghiên cứu gốc Việt về
Nhật học và lịch sử Việt Nam
ở Canada, người đă và đang có
những công tŕnh nghiên cứu về cuộc
đời, sự nghiệp của Fukuzawa Yukichi
của Nhật Bản, của Phan Bội Châu và
các nhà trí thức Việt Nam trong phong trào Duy Tân
và Đông Du cuối thế kỉ 19 đầu
thế kỉ 20.
Là người trao đổi với dịch
giả trong suốt quá tŕnh dịch, cũng là
người đă đọc cuốn Phúc ông
tự truyện từ nguyên bản tiếng
Nhật và bản dịch đầu tiên của
dịch giả, tôi đă có dịp hiểu
biết thêm về Fukuzawa Yukichi. Càng đọc các
trước tác của Fukuzawa Yukichi, tôi càng
hiểu được sự ảnh hưởng
của ông tới xă hội Nhật Bản trên
nhiều lĩnh vực. Qua cuộc đời
của chính Fukuzawa Yukichi, tôi đă h́nh dung
được phần nào sự phát triển
của Nhật Bản từ cuối thế
kỉ thứ 19, tiếp tục phát triển
trong thế kỉ 20, đặc biệt là sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Con
đường phát triển Nhật Bản có
cội nguồn sâu xa từ những chính sách
mở cửa của Mạc phủ Tokugawa (Đức
Xuyên) và phát triển mạnh hơn trong thời
Minh Trị (bắt đầu từ năm 1868)
với phong trào duy tân, kí kết những
hiệp ước giao thương, ngoại giao
và quân sự với chính phủ Mĩ cũng như
các nước phương Tây.
Ngày nay, t́m hiểu về những người có
ảnh hưởng lớn tới sự phát
triển của Nhật Bản trong thời ḱ
Minh Trị Duy Tân (Meiji Ishin), chúng ta không thể
không kể đến Fukuzawa Yukichi và những trước
tác của ông. Thật đáng tiếc, cho đến
nay, ở Việt Nam những trước tác
được dịch ra tiếng Việt
của Fukuzawa Yukichi c̣n rất hạn chế. Sau
cuốn Khuyến học (Gakumon no susume)
của dịch giả Chương Thâu là
bản dịch cuốn Phúc ông tự
truyện này của Phạm Thu Giang.
2. Vài suy nghĩ sau khi đọc cuốn Phúc
ông tự truyện
Phúc ông tự truyện (Fukuō Jiden)
được bắt đầu viết vào năm
Minh Trị thứ 30 (Đinh Dậu, 1897), đă
được đăng trên suốt 67 số
của tờ Thời sự tân báo (時事新報
Jiji Shinpō), bắt đầu từ ngày
1/7/1898 đến ngày 16/2/1899. Cuốn Tự
truyện gồm 15 chương, là những
lời bộc bạch về chính cuộc đời
tác giả Fukuzawa Yukichi. Ông đă trải qua
nhiều biến đổi của cuộc đời,
đă chứng kiến nhiều thăng trầm
của xă hội Nhật Bản trong thời
đoạn chuyển từ chế độ
phong kiến sang chế độ quân chủ
lập hiến, từ thời “bế quan
tỏa cảng” sang thời “mở cửa
đón nhận văn minh phương tây”, phát
triển Nhật Bản thành một cường
quốc. Cuốn sách là sự phản ánh chân
thực về xă hội Nhật Bản
đương thời.
Đọc cuốn Phúc ông tự truyện
và t́m hiểu về lịch sử Nhật
Bản cuối thời Edo, tôi chợt có suy nghĩ
so sánh với lịch sử Việt Nam cùng
thời và đă nhận thấy một số
điểm tương đồng cũng như
dị biệt giữa hai nước. Theo tôi,
từ đó bạn đọc có thể
hiểu được con đường phát
triển Nhật Bản và rút ra nhiều bài
học cho công cuộc phát triển Việt Nam ngày
nay. Ở đây, tôi xin được tŕnh bày
một số so sánh về t́nh h́nh Việt Nam và
Nhật Bản cuối thế kỷ 19, đầu
thế kỷ 20 cũng như những suy nghĩ
của ḿnh sau khi đọc cuốn Tự
truyện này.
Vào nửa đầu của thế kỉ 19, trước
khi Fukuzawa ra đời, xă hội Nhật Bản
và Việt Nam có một số điểm khá tương
đồng. Ở Việt Nam, đất nước
vừa thoát ra khỏi thời ḱ Trịnh
Nguyễn phân tranh và thống nhất dưới
sự cai trị của triều đ́nh nhà
Nguyễn (Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu
Gia Long năm 1802) ). C̣n ở Nhật Bản, các
cuộc tranh giành quyền lực giữa các nhóm
vơ sĩ cũng đă chấm dứt, đất
nước thống nhất dưới chính
quyền Tokugawa (Đức-Xuyên) từ những
năm đầu của thế kỷ 17. Tuy nhiên,
thời kỳ thống nhất dưới chính
quyền Tokugawa ở Nhật dài hơn rất
nhiều so với thời kỳ thống
nhất ở Việt Nam. Thời Edo bắt đầu
từ đầu thế kỉ thứ 17, sau khi
Tokugawa Ieyasu giành chiến thắng trong trận
giao chiến Sekigahara và thâu tóm toàn bộ
quyền lực từ các nhóm vơ sĩ. Thời
đó, Việt Nam và Nhật Bản đều
nằm trong tầm ngắm của các nước
phương Tây trong hành tŕnh t́m kiếm thị
thường buôn bán và thuộc địa.
Điển h́nh thời đó là hải quân và
tàu buôn của Anh, Mĩ, Hà Lan, Pháp, Tây Ban Nha
v.v… với những khẩu đại bác phô
trương quyền lực. Họ ghé vào các
cảng ở phương Đông, vừa dương
oai vừa đưa chiếu thư tới
triều đ́nh các nước đ̣i thương
lượng về việc mở cảng giao thương
buôn bán.
Tuy nhiên, cả Nhật Bản và Việt Nam
đều là những nước phong kiến,
chịu ảnh hưởng lớn của
nền giáo dục theo nền giáo dục Hán
học. Fukuzawa đă phê phán lối học
từ chương khoa cử trong cuốn Tự
truyện của ông: “Lớn lên, tôi cũng
tự nh́n mẫu chữ học viết theo, nhưng
khi đó lại vào trường theo Tây phương
học, coi tất cả những Nho gia ở trên
đời là đối địch và việc
họ làm từ A đến Z tôi đều không
hợp ư, nhất là về hành trạng,
phẩm cách của họ. Miệng th́ luôn nói
Nhân, Nghĩa, Trung, Hiếu mà khi bắt tay vào làm
th́ không có khí thế chút nào. Rất không hay là
ở chỗ cứ uống rượu, làm thơ,
viết thư pháp giỏi th́ họ đánh giá
cao. Tất cả mọi hành động của
họ tôi đều thấy không hợp với
ḿnh. Và thế là chúng tôi, những người
theo Tây phương học quyết định làm
một cuộc đả phá” [1]
. Hơn nữa, nhiều người trong chính
quyền không am hiểu về khoa học kĩ
thuật, pháp luật, đặc biệt là công
việc buôn bán và kế toán. Trong cuốn Tự
truyện, Fukuzawa Yukichi có đề cập
đến việc thanh toán tiền mua tàu trong
chuyến đi Mĩ thứ hai của phái đoàn
Nhật. Ở Việt Nam, các quan lại
triều đ́nh cũng có các khuynh hướng
khác nhau và thậm chí đối lập nhau. Người
có hiểu biết về phương Tây (ví
dụ như Nguyễn Trường Tộ, Trương
Vĩnh Kư của Việt Nam) th́ chủ trương
mở cửa đất nước, phát
triển quan hệ giao thương, tiếp
nhận làn sóng văn minh của các nước
phương Tây. Nhưng người theo Hán
học lại bảo vệ ư kiến đóng
cửa và t́m cách chống lại sự thâm
nhập của văn minh phương Tây.
Vào thời điểm 1875, ở Nhật đă
xuất hiện một mhóm trí thức có
ảnh hưởng to lớn tới Nhật
Bản, đó là hoạt động của nhóm
Khai sáng Minh Lục Xă (明六社Meirokusha).
Fukuzawa Yukichi cũng là một thành viên của nhóm
Khai sáng này [2].
Họ đă tạo nên những cuộc bút
chiến về việc lựa chọn con
đường phát triển Nhật Bản
giữa hai trường phái chính: trường
phái mở cửa đón nhận văn minh phương
Tây (nhóm Khai sáng, đa phần những nhà Hà
Lan học) và trường phái "nhưỡng
di" (đóng cửa không cho phương Tây vào
buôn bán) trên báo chí Nhật đương
thời. Trong nhóm Khai sáng, Fukuzawa Yukichi là một
người hoạt động tích cực. Ông
nhận định xă hội phương Tây phát
triển hơn Nhật là do dựa vào ba điểm
chính 1) dân chủ hóa xă hội: tự do cá nhân,
tự do phát biểu chính kiến; 2) Hệ
thống giáo dục dựa trên nền tảng
khoa học và kĩ thuật, một nền giáo
dục thực học; 3) một hệ thống
pháp luật nghiêm minh và công bằng. Cả ba
nhận định này của ông đều
được thuật lại trong cuốn Phúc
ông tự truyện. Cả trong bài “Thoát Á
luận”, ông cũng đă từng bày tỏ
quan điểm: Muốn tiếp nhận nền văn
minh phương Tây, đuổi kịp và đứng
vào hàng ngũ các nước này, Nhật
Bản phải đổi mới tư duy (nhân tâm),
thay đổi chính phủ thủ cựu
bằng chính phủ mới, nền giáo dục Hán
học bằng nền giáo dục khoa học kĩ
thuật. Ở đó, trí thức có nhiệm
vụ phải truyền đạt nền văn
minh tới toàn thể dân chúng [3]
.
Cho tới năm 1858, triều đ́nh nhà
Nguyễn ở Việt Nam đang ở thế
yếu, các tàu phương Tây (như Mĩ, Pháp,
Hà Lan...) vào yêu cầu nhà Nguyễn mở
cửa để thông thương, kí các ḥa
ước, nhưng triều Nguyễn lúc bấy
giờ quyết định "bế quan
tỏa cảng", không kí kết các ḥa ước
với các nước khác, mà chỉ kí ḥa
ước với Pháp do sự thân Pháp của
vua Gia Long. Tuy nhiên, sau đó, Việt Nam bị
thực dân Pháp thôn tính vào năm 1858. Ở
Nhật Bản, đầu thời Edo, Mạc
phủ Tokugawa cũng thực hiện chế
độ “bế quan tỏa cảng”,
chống sự xâm nhập của tôn giáo phương
Tây và ngăn cấm cả những người
Nhật đi ra nước ngoài. Tuy nhiên,
cuối thời Edo, Mạc phủ có nhiều chính
sách cởi mở hơn như kí Hiệp ước
Kanazawa với Mĩ năm 1854 [4]
. Năm 1868, Mạc phủ Tokugawa sụp đổ,
chính quyền Meiji (Minh-Trị) lên thay thế,
tiếp tục kế thừa việc mở
cửa đất nước của chính
quyền Tokugawa. V́ thế, làn sóng văn minh phương
Tây tràn vào Nhật nhanh chóng hơn. Sự du
nhập sách vở, những giá trị dân
chủ và nền giáo dục khoa học theo
kiểu phương Tây đă làm thay đổi
tư duy của các "vơ sĩ Samurai". Theo tôi,
đây là một trong những nguyên nhân chính
để Nhật Bản không bị các nước
phương Tây xâm lược và trở thành cường
quốc từ cuối thế kỉ 19. Sau này
Nhật trở thành cường quốc đă
mang quân đi xâm chiếm các nước xung
quanh trong đại chiến thế giới
thứ nhất và thứ hai. Cũng cần nói
thêm, khoảng giữa thế kỉ 19, Thái Lan
(Siam) cũng đă kí ḥa ước với
nhiều nước phương Tây khác nhau và là
nước thứ hai ở phương Đông
cùng với Nhật đă tránh được
sự xâm lược và thôn tính của các nước
phương Tây. Qua những sự kiện này chúng
ta thấy quan hệ với những người
phương Tây đă mang lại ḥa b́nh cho
Nhật Bản và Thái Lan. Quan niệm này khác
hẳn với quan niệm của người
Việt Nam và người Trung Quốc.
Từ những sự kiện trong cuốn Tự
truyện, tôi nhận thấy, tổng thể
nhận thức về các nước phương
Tây và t́nh h́nh thế giới của người
Nhật rất khác với người Việt cùng
thời. Khi người phương Tây đến,
người Việt Nam thường nghĩ
họ đến với mục đích xâm lược,
cho rằng họ đến là kẻ thù. Điều
này có lẽ do ảnh hưởng của
lịch sử bị ngoại bang xâm lược
để lại và ảnh hưởng không
nhỏ cho đến cả thời hiện đại.
Thời Tokugawa Nhật Bản tuy đă mở
cửa với thế giới phương Tây thông
qua phong trào Hà Lan học, nhưng c̣n khá hạn
chế. Nhưng sang thời Minh Trị duy tân, chính
phủ mới đă thay thế chính phủ cũ,
vừa kế tục công cuộc mở cửa
đất nước, vừa đổi mới
tư duy (phong trào duy tân), chính trị, ngoại
giao cũng như chính sách phát triển kinh
tế, khoa học kĩ thuật. Do đó đă
mở đường cho Nhật Bản phát
triển thành một cường quốc từ
cuối thế kỉ thứ 19. Trước
thời Minh Trị duy tân (từ năm 1868), chính
quyền Tokugawa đă tiếp xúc với phương
Tây qua hiệp ước giao thương
giữa Nhật và Hà Lan. Từ đó, Nhật
mở cảng Nagasaki tiếp nhận nhiều người
Hà Lan. Nhật Bản cũng chấp nhận
mở cửa buôn bán (giao thương) với các
thương gia người Nga, Trung Quốc và Hàn
Quốc. Chính quyền Tokugawa thời đó đă
dành riêng cảng Nagasaki ở đảo Kyushu
để giao thương với bốn nước
này. Cuối thời Tokugawa, Nhật Bản c̣n
mở thêm cảng Yokohama theo hiệp ước
kí kết với Mĩ. Người Nhật
đă tiếp thu được kĩ thuật hàng
hải bằng cách mua tàu của Hà Lan, của Mĩ
và của Anh. Vào cuối thời Tokugawa và Minh
Trị, Nhật Bản đă tiến hành
cải cách giáo dục trên phạm vi toàn
quốc. Vào khoảng năm 1870, Nhật Bản
mở trường dạy về kĩ thuật
hàng hải và kĩ thuật đóng tàu, sản
xuất vũ khí, huấn luyện hải quân.
Sau đó, một số công ty đóng tàu
của Nhật đă ra đời. Đó chính là
nguồn lực đem lại sức mạnh
chinh phục các nước khác và mở
rộng buôn bán thương mại. Tôi cho
rằng Nhật Bản trước thời Minh
Trị duy tân đă có những phát triển hơn
hẳn so với Việt Nam và các nước Châu
Á v́ Nhật Bản không bị ảnh hưởng
của các cuộc chiến tranh, đất nước
thống nhất dưới chính quyền Tokugawa
khá lâu dài và cũng do Nhật Bản đă
tiếp cận với khoa học kĩ thuật
phương Tây sớm hơn. Hơn ba trăm năm
thống nhất dưới chính quyền Tokugawa
và Minh Trị cùng với sự tiếp thu
nhạy bén những giá trị văn minh phương
Tây đă làm cho Nhật Bản trở thành cường
quốc.
Khác với Nhật Bản, Việt Nam tiếp
cận làn sóng duy tân của Nhật khá muộn
màng. Hơn nữa, bối cảnh của
Việt Nam khác với Nhật Bản, nên các
phong trào duy tân đă không thể thành công. Năm
nay là tṛn một trăm năm ngày phát động
các phong trào duy tân (Duy Tân, Đông Du của Phan
Bội Châu và Đông Kinh Nghĩa Thục
của các chí sĩ yêu nước khác). Phong trào
Duy Tân, Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục
của Việt Nam đă thất bại do sự
khác nhau về điều kiện và hoàn
cảnh lịch sử. Phong trào Duy Tân, Đông
Du và Đông Kinh Nghĩa Thục ở đă
chịu ảnh hưởng lớn từ tư tưởng
tiến bộ của Fukuzawa Yukichi và phong trào duy
tân thời Minh Trị ở Nhật mà dịch
giả Chương Thâu đă nói tới trong Lời
giới thiệu cho bản dịch tiếng
Việt cuốn Khuyến học (Gakumon no
susume) và Lời dẫn bản dịch Phúc
ông tự truyện (Fukuojiden) của dịch
giả Phạm Thu Giang.
Càng đọc cuốn Tự truyện, tôi
càng hiểu được tâm trạng của các
sĩ phu yêu nước ngày trước của
Việt Nam cũng như Nhật Bản, càng
hiểu được sự kiêu hănh về
sức mạnh khoa học, kĩ thuật của
các nước phương Tây thời đó như
thế nào. So với ngày nay, những hiểu
biết trí tuệ, đặc biệt là công
nghệ cao, tinh thần tự do tư tưởng
cá nhân cùng một chế độ dân chủ
cởi mở của các nước phát
triển đă thu hút rất nhiều tiền
của và nhân lực từ các nước nghèo
hơn. Đó chính là việc mà các nước
nghèo như Việt Nam chúng ta cần phải
học từ những bài học lịch sử
phát triển của Nhật Bản. T́nh h́nh
thế giới đă có đổi khác, chúng ta
không c̣n lệ thuộc vào các nước phát
triển như thuộc địa như
thời thế kỉ 19, nhưng chúng ta có
thể lệ thuộc vào các nước phát
triển theo cách khác. Tinh thần độc
lập tự tôn, đoàn kết và ḥa hợp dân
tộc, tinh thần và truyền thống dân
tộc, độc lập tự do về tư tưởng
chỉ đạo, cải cách giáo dục và
việc đưa ra những chính sách ngoại
giao thích hợp là những bài học có thể
rút ra được từ bối cảnh
của Nhật Bản thời Fukuzawa Yukichi.
3. Về một số tư tưởng
của Fukuzawa Yukichi thể hiện qua Phúc ông
tự truyện
Ngay từ thời đó, Fukuzawa Yukichi đă có
quan niệm mới về việc học,
rằng mỗi người trong xă hội từ
các nhà học giả uyên bác, những viên
chức nhà nước địa vị cao đến
những người nông dân nghèo và những người
buôn bán nhỏ đều có những chức năng
riêng và cần thiết trong xă hội, không
nhất thiết cứ phải học để
ra làm quan theo lối suy nghĩ truyền thống
của Nho học hủ lậu. Ông phê phán
lối học ấy trong xă hội Nhật
đương thời: ”Trong xă hội
Nhật Bản, mười người th́
cả mười, trăm người th́ cả
trăm, tất cả đều mưu cầu
việc tiến thân, thăng quan tiến chức
và trở thành công chức.” [5]
.
Theo Fukuzawa Yukichi, một xă hội phát triển
cần những con người có đầu óc
tự do và tinh thần suy nghĩ độc
lập. Ông phê phán về việc viên chức
lệ thuộc nhiều vào chính phủ
đương thời: ”Khi nền tảng cơ
bản của chính phủ duy tân được
định h́nh, không chỉ vơ sĩ trên
khắp nước Nhật, mà cả con của
trăm họ Hyakushō và em của Chōnin,
đại để tất cả những người
biết chút chữ nghĩa đều muốn
trở thành viên chức chính phủ. Nhân dân trên
cả nước đều nghĩ, nếu không
dựa vào chính phủ th́ không lập được
thân, mà không hề có ư nghĩa tự thân độc
lập.”. [6]
Ông cũng đă phê phán cả một số du
học sinh: “Thỉnh thoảng có những
học sinh tu nghiệp ở nước ngoài
về và nhiều người rất nghiêm
chỉnh đến chỗ tôi, ḷng đầy
nhiệt huyết bảo rằng không bao giờ
có ư nghĩ sẽ làm quan chức suốt đời
cho chính phủ. V́ từ đầu tôi đă không
ḱ vọng ǵ điều đó, nên cũng
chỉ nghe cho qua chuyện. Nhưng lâu lâu không
thấy “tiên sinh giương tinh thần độc
lập” ấy đâu, hỏi ra mới biết
đă chễm chệ thành một thư kí cho
bộ nào đó. Theo kiểu kẻ nào gặp
vận may th́ thành quan to ở địa phương,
nên tôi không ngăn ǵ chuyện đó. Sự
tiến thoái của mỗi con người là
tự do, tự tại của họ, nhưng
việc tất cả mọi người trên
đất nước này đều hướng
đến mục đích duy nhất là chính
phủ và nghĩ chắc chắn rằng, không c̣n
cách lập thân nào khác chính là hủ phong c̣n
rớt lại của nền giáo dục Nho gia”
[7] . Ngay từ
thời đó, Fukuzawa Yukichi đă nhận
thấy trong xă hội Nhật Bản rằng “Con
người là sâu mọt của xă hội”,
và chế độ ơn huệ của người
làm ơn và của người mang ơn đă
tạo ra sự khó xử trong quan hệ xă
hội. Có lẽ mối quan hệ khó xử này
đă tạo ra cơ hội cho tham nhũng v́ người
hàm ơn và ban ơn vô h́nh chung tự cảm
thấy nhận quà là điều hiển nhiên,
c̣n người được nhận ơn luôn
cảm thấy áy náy khó xử trong quan hệ
ứng xử. Trong xă hội phát triển,
rất cần một mối quan hệ ṣng
phẳng và tách bạch giữa quan hệ cá nhân
và quan hệ trách nhiệm trong công việc.
Mối quan hệ ṣng phẳng và trách nhiệm
tận tụy với công việc của người
Nhật thể hiện rất rơ trong quan hệ
giữa cấp trên và cấp dưới,
giữa các đồng nghiệp trong các công ty
Nhật hiện đại.
Về giáo dục, ông là người tiên phong
chuyển từ chế độ giáo dục
từ chương khoa cử sang kiểu thực
học. Cũng qua những lời bộc
bạch về cuộc đời học tập
và dịch thuật của Fukuzawa Yukichi, tôi
thấy, việc dịch thuật các sách phương
Tây sang tiếng Nhật là một bài học
lớn cho Việt Nam. Việt Nam vẫn cần
phát triển phong trào dịch thuật trong giai
đoạn hiện nay song song với việc
dạy và học ngoại ngữ. Nhật
Bản vào thời của Fukuzawa Yukichi có lẽ
đă thành công trong việc khuyến khích phong
trào dịch thuật. Nhiều tác phẩm kinh
điển về triết học, kinh tế chính
trị xă hội của phương Tây đă
được dịch sang tiếng Nhật. Trong
khi đó, Việt Nam vẫn c̣n thiếu rất
nhiều những tác phẩm kinh điển này.
Nhân dịp bản dịch cuốn Phúc ông
tự truyện, một trong những trước
tác của Fukuzawa Yukichi ra mắt bạn đọc
Việt Nam, tôi rất hi vọng sau khi đọc
cuốn Tự truyện này sẽ có
những độc giả ấp ủ và nung
nấu hoài băo dịch thuật các tác phẩm
khác của ông sang tiếng Việt.
Để kết thúc bài viết, tôi rất mong
các độc giả dù cầm trên tay cuốn
dịch của dịch giả Phạm Thu Giang
hoặc nguyên bản tiếng Nhật sẽ
bị cuốn hút vào những ḍng tự
thuật về cuộc đời của một
nhân vật có ảnh hưởng rất lớn
tới sự phát triển của Nhật
Bản và từ đó sẽ tự rút ra cho ḿnh
được nhiều bài học quư giá.
Australia ngày 5 tháng 10 năm 2005
© 2005 talawas
[1]Fukuzawa Yukichi, Fukuojiden,
nguyên bản tiếng Nhật và bản dịch
của Phạm Thu Giang.
[2] Vĩnh Sính, Hội trí thức Khai sáng Meirokusa,
nguồn Internet: http://www.thoidai.org/ThoiDai4/200504_VSinh.htm
[3]Fukuzawa Yukichi, “Thoát
Á luận” (Datsu-A-Ron), bản dịch
của Hải Âu và Kuriki Seiichi.
[4]Morton, W.S. và J.
Kenneth Olenik (2005), Japan–Its History and Culture, 4th
Edition, McGraw-Hill Inc., New York, USA.
[5]Fukuzawa Yukichi, Sđd.
[6]Fukuzawa Yukichi, Sđd.
[7]Fukuzawa Yukichi, Sđd.
(*) Nguồn : http://www.talawas.org
. Đăng lại với sự đồng ư
của talawas và tác giả
|
|