|
Chương III Trong lúc khai quốc Nhựt-bổn
nh́n nhận cái ngày đề-đốc Bá-lư
đem tàu binh tới ra oai gơ cửa, bắt
họ kư tờ ước ở
Thần-nại-xuyên, ấy là ngày mở mối
duy-tân tự-cường cho nước họ. Nghĩa
là Nhựt-bổn có kỷ-nguyên lịch-sử
mới, bắt đầu từ ngày ấy mà
đi. Kể về tinh-thần th́
phải, nhưng về thiệt sự th́ chưa.
Thiệt sự đến năm 1868, Minh-trị
Thiên-hoàng (明治天皇 – Meiji Tennou) đem văn vơ bá quan tế cáo trời
đất tổ-tiên thề nguyền 5 khoản,
rồi hạ lịnh nhứt thiết cải-cách
duy-tân, bấy giờ mới thiệt là ngày
Nhựt-bổn bước vào kỷ nguyên
mới. Cái thời kỳ 15 năm,
từ 1854 đến 1867, nội t́nh
quốc-sự của Nhựt-bổn có lắm
việc biến-động đổi dời,
tức là những việc khơi nguồn đắp
móng cho cuộc duy-tân tự-cường của
họ. Bởi vậy, trong thời-kỳ nầy,
chánh-thể, quốc-t́nh Nhựt-bổn ra sao, cùng
là ảnh hưởng trí-thức của
ngoại-nhơn đối với những
hạng duy-tân chí sĩ ở Nhựt ra sao, ta cũng
nên xét qua cho biết. BỌN NHÀ NHO OÁN TRÁCH
MẠC-PHỦ VỀ VIỆC MỞ NƯỚC Như trong khoản dưới
chương 1 đă nói : về đời
cận-cổ, Nhựt-bổn sanh ra chế-độ
phong kiến mới, là Mạc-phủ tướng-quân,
kéo dài một hơi đến 700 năm. Bắt
đầu từ Nguyên-lại-Triều (源頼朝
- Minamoto no Yoritomo) dựng lên chế-độ ấy (Tây
lịch 1986) Ông đại tướng-quân
thay mặt Thiên-hoàng, nắm lấy
thực-quyền chánh-trị nước Nhựt,
tự lập ra chánh-phủ riêng có
thực-lực, gọi là Bá-phủ
(霸府)
hay Mạc-phủ (幕府
– Bakufu) rồi phong cho các tướng-sĩ thân
tín của ḿnh, mỗi người làm chúa
một châu-quận tức là chư-hầu ;
hết thảy ở dưới quyền
thống-thuộc của đại-tướng-quân.
Họ nguyên là ông tổ của chế-độ
Mạc-phủ vậy. Từ đó về sau,
trải qua nhiều cuộc trị loạn hưng
vong, có mấy lần Mạc-phủ thay ḍng đổi
họ, theo lẽ mạnh được yếu
thua. Trong khi đó, Thiên-hoàng vẫn truyền
nối một hệ-thống từ xưa, nhưng
ngài chỉ ở ngôi báu làm v́, chớ quyền-hành
th́ không có. Hồi đề-đốc
Bá-lư đem tàu binh vô gơ cửa Nhựt-bổn, và
kư tờ ước Nhựt Mỹ ở
Tần-nại-xuyên (神奈川 – Kanagawa),
chính là hồi Mạc-phủ lập ở
Giang-hộ (江戸 – Edo), ḍng dơi họ
Đức-Xuyên (徳川 – Tokugawa) làm tướng-quân.
Chính Đức-xuyên tướng-quân đă
thuận kư tờ ước Nhựt Mỹ
vậy. Lúc nầy trên tướng-quân có đức
Thiên-hoàng ngồi hư vị ở kinh-đô, c̣n
dưới tướng-quân th́ có 300 chư-hầu
lớn nhỏ, chia nhau cai-trị nước
Nhựt, t́nh thế rơ ràng là nước
phong-kiến như Trung-quốc đời Châu, hay
là như Âu-châu cổ thời. Họ Đức-xuyên
nối nhau làm tướng-quân, cầm chánh-quyền
Nhựt-bổn luôn 250 năm. Trong hai
thế-kỷ rưỡi đó, chỉ duy có lúc
hạ lịnh khóa nước, đuổi các giáo-sĩ
Bồ và Y, rồi bọn tín đồ Thiên-chúa
ở trong xứ nổi lên làm loạn ít lâu,
ấy là lúc có nội loạn khiến cho
Mạc-phủ phải dùng binh-lực đánh
dẹp mà thôi, ngoài việc ấy ra, cả nước
được yên-ổn rất lâu dài, ta có
thể nói rằng cổ kim đông tây chưa có
nước nào được một lúc thái-b́nh
vô sự lâu quá như thế. Nhưng thái-b́nh lâu lắm cũng
có chỗ hại ; Từ tướng-quân chư-hầu
đến sĩ-tốt nhơn-dân, trên dưới
đều thong thả vui chơi, luôn mấy trăm
năm, không phải động binh luyện vơ, thành
ra tướng-quân vốn lấy vơ-lực
oai-trị thiên-hạ mà vơ-lực ấy lâu ngày
không dùng, tự nhiên phải suy yếu đi. Th́nh
ĺnh đến lúc có ngoại nhơn đem tàu
trận tới gơ cửa ra oai, bắt phải khai
cảng thông thương, th́ Mạc-phủ đành
phải vâng theo, chớ không thể chống
cự mà giữ riết cái chánh-sách khóa nước
hơn 200 năm nay được nữa. Thắng An Pḥng - 勝安房 (勝海舟) - Katsu Yasuyoshi (Katsu Kaishuu) Đại Cửu Bảo Lợi Thông - 大久保利通 - Okubo Toshimichi Tây Hương Long Thạnh - 西郷 隆盛 - Saigo Takamori Mộc Hộ Hiếu Doăn - 木戸孝允 - Kido Takayoshi Đông Hương B́nh Bát Lang - 東郷 平八郎 - Togo Heihachiro Bấy giờ cả nước
náo-động kinh-hoàng, nghị-luận nổi lên
như sấm vang băo dậy ; ai cũng xôn xao trách
oán Mạc-phủ sao có sái phép tổ-tiên, bỏ
lệ quốc cấm, cho ngoại-nhơn tới
lui buôn bán, để gây điều tai vạ
hiểm nghèo cho quốc-gia ? Dân cho Mạc-phủ
chuyên quyền làm vậy là bất trung với
vua, có tội với nước. Nhứt là đám nhà nho
thủ-cựu càng quai mỏ già hàm thống trách
Mạc-phủ hơn hết. Phải, cùng trong thuở
ấy, nước Nhựt cũng không khác chi nước
Nam ḿnh đây, có đám nhà nho chỉ bo bo
thủ-cựu, thích rung đùi ngâm thơ, ngoài
Nghiêu-Thuấn Khổng-Mạnh ra họ không
biết việc thiên hạ là ǵ hết. Huống
chi Nhựt-bổn c̣n có cái t́nh-thế đặc
biệt, là trải hai trăm mấy chục năm
trời đóng chặt cửa ngọ, cấm
tuyệt ngoại-nhơn, thành ra t́nh thế bên
ngoài ra sao, trong xứ ít có ai hay biết. Lúc
ấy quốc-dân vẫn đang say mê chuyện
đọc sách Tàu, đang sùng bái những Nghiêu-Thuấn
Khổng-Mạnh, mà giữ thói cô lập tự tôn,
coi nhỏ thiên-hạ, tưởng trên đời
không c̣n có ai và cũng không ai bảnh bao hơn ḿnh.
Bỗng chốc có việc ở Phố-hạ phát
ra, Mạc-phủ nhượng bộ, khác nào
một tiếng sét đánh vang lừng, đám nhà
nho nghe phải chát tai nhức óc, rồi túa lên
bi-thương phẫn-khích nọ kia, nhưng
nhắm lại đó cũng là lư thế tự
nhiên, không có chi lạ ! Trái lại, Mạc-phủ nắm chánh-quyền
ở trong tay, thường có dịp cùng người
Ḥa-lan trú ngụ tại Tràng kỳ chuyện tṛ
hỏi han, nhờ vậy mà hơi rơ t́nh-thế
Âu Mỹ văn minh ra thế nào, cho nên
Mạc-phủ tự biết việc khai-quốc là
nên, là cần, không sao đóng cửa từ khách
được nữa. Song, khốn nỗi lúc nầy Mạc-phủ
đă yếu thế đi rồi, chẳng
những không đủ sức để cản
ngăn lằn sóng quốc-dân chống chỏi oán
trách ḿnh, lại cũng không dám công-nhiên ra
mặt để mở mang cuộc ngoại giao
cho thiệt hẳn ḥi rộng răi mới là đúng
chỗ cần dùng lợi ích cho nước nhà. Té
ra Mạc-phủ đă thiếu ḷng tự tin, mà
cũng không trí dơng-đoán,
cho nên tiếng rằng mở cửa ngoại-giao,
chẳng qua chỉ là việc do sự thế
bắt buộc vậy thôi, Mạc-phủ chập
chờn lỡ dỡ ở giữa khoảng
nửa úp nửa mở, nửa làm, nửa không,
có hại cho đại cuộc nước
Nhựt vô số, nếu không th́ Nhựt có
lẽ được duy-tân tự-cường
sớm hơn mươi năm trước
rồi. Ví dụ hồi năm 1854,
Mạc-phủ đă cùng đề-đốc Bá-lư
kư tờ hiệp ước tại
Tần-nại-xuyên rồi, trên kia đă nói
tờ ước nầy nội-dung rất là
giản-dị, chỉ nói sơ về khoản ghe
tàu đi biển có gặp hoạn-nạn trôi
dạt vô bờ, th́ người hai nước
cứu giúp lẫn nhau mà thôi, chớ chưa đá
động ǵ đến việc giao-thông
mậu-dịch. Mới vậy mà nghị-luận
phản-kháng đă nổi lên trong dân-gian um sùm, làm
cho mạc-phủ lính quưnh. Cách hai năm sau, (1856)
viên tổng-lănh-sự Mỹ là Cáp-lợi-tư
(Harry, theo sách Nhựt : 哈利斯 - ? (**))
đến tận Giang-hộ yết-kiến tướng-quân
xin đổi lại tờ ước trước
kia, mà kư tờ ước ḥa-thân và
mậu-dịch cho phân minh ; luôn dịp ông ta khuyên
Mạc-phủ nên mở tong cửa ngơ
ngoại-giao với tất cả các nước.
Rồi đó hai bên kư tờ ước mới,
gọi là tờ ước Giang-hộ. Lúc nầy, lằn sóng
phản-kháng càng nổi lên cao, Mạc-phủ lo
sợ quốc-luận ồn ào, liền sai sứ
đem tờ ước trên đây về kinh-đô
dâng lên Thiên-hoàng ngự-lăm và xin Ngài phê
chuẩn cho. Song bao nhiêu lâu nay trào-đ́nh đă
xa cách với thực quyền chánh-sự, c̣n các
vị công-khanh đại-thần trong trào cũng
không có ông mô hiểu biết sự t́nh
hải-ngoại ra thế nào ; thành ra trào-đ́nh
không biết sao mà phê chuẩn tờ ước,
để mặc tướng-quân nhận lấy
trách nhiệm. Vả lại, các ông chư-hầu
có quyền to thế mạnh, đang muốn
dựa oai trào-đ́nh để chống phá cái
chánh-sách khai-quốc của Mạc-phủ, v́
họ không chịu thay đổi lệ cũ phép
xưa, họ càng tâu-bày xúi giục trào-đ́nh
đừng có phê chuẩn tờ ước. Bởi mấy lẽ đó,
sứ-thần của tướng-quân phải
bồi hồi thất ư ở kinh-đô, rồi
đành trở về Giang-hộ tay không. Mạc-phủ càng thêm lúng túng
lo sợ, chẳng biết day trở thế nào !
Thiệt, hồi nầy là hồi nội-t́nh
Nhựt-bổn rắc rối khó khăn : Trên th́
có cái trào-đ́nh không quen thuộc chánh-sự, dưới
th́ có đám chư-hầu không thông hiểu
ngoại-t́nh, c̣n quốc-dân lại hầu
hết thủ-cựu, chí-sĩ đua nhau hô hào
nghị-luận vang rùm, bao nhiêu mũi tên đều
nhắm cả vào Mạc-phủ mà bắn. Vơ-lực
của Mạc-phủ đă v́ sự thái-b́nh lâu
đời mà suy yếu rồi, nay muốn đè
ép quốc-luận để tự quyền làm
việc lợi cho nước nhà, cũng là không
đủ sức mới khổ ! Bên trong bị có t́nh thế
khó-khăn như vậy, c̣n bên ngoài th́ các nước
Âu Mỹ hằng ngày tới thúc giục
Mạc-phủ mau mau kư điều-ước
với họ và mở hết các hải-cảng
ra. Trong lúc đó, quan ngoại giao của
Mạc-phủ gặp-gỡ tiếp rước người
ngoài càng nhiều, th́ càng biết rằng
việc khai-quốc là việc phải làm, chớ
không thế nào chần chờ thối-thác
được. Chỉ tiếc rằng
Mạc-phủ không dám công-nhiên tỏ bày lợi
hại để hiệu triệu quốc-nhơn,
thống-nhứt quốc-luận, thành ra việc làm
vẫn cứ phải làm, mà không dám làm mạnh
bạo và bị nghị-luận xôn xao công kích hoài
! Dầu sao mặc ḷng, ta cũng
phải nh́n nhận rằng Mạc-phủ cam
chịu quốc-luận xôn xao công kích, nhưng
cứ xóa bỏ chánh-sách khóa nước đă
mấy trăm năm, mạnh bạo mở
cửa ra cùng Âu Mỹ giao-thông mậu-dịch,
ấy là Mạc-phủ có công lao ở trong cái cơ-sở
khai-quốc của Nhựt vậy. Cơ-sở
nầy có biết bao là hạng danh-nhơn chí-sĩ,
hoặc lấy tri-thức, hoặc lấy khí-khái,
đóng góp tài năng tâm lực vào mà xây-dựng
lên ; có lắm người lấy máu thịt mà
đóng góp vào nữa là khác. * MẤY ÔNG CÁC-LĂO VỚI
VIỆC NGOẠI-GIAO KHAI QUỐC Giữa lúc đề-đốc
Bá-lư mới đến Phố-hạ yêu cầu
Nhựt-bổn mở cửa thông-thương, th́
vừa gặp nhằm lúc Mạc-phủ Đức-xuyên
có tang sự : Tướng-quân Gia-khánh
(家康 –
Ieyasu) mang bịnh qua đời (1853), con là Gia-định
(家定 -
Iesada) lên
nối ngôi, chưa quen việc chánh, kế vài năm
cũng mất (1858). Tới Gia-mậu
(家茂
- Ieshige), tuy c̣n nhỏ tuổi, nhưng v́ là ḍng
chánh, nên được lên nối chức tướng-quân
cho đến năm 1866 tạ thế. Vậy là
trước sau 14 năm trời, ngôi tướng-quân
ba lần đổi chủ, mà hết hai đời
chủ là trẻ con, thành ra bao việc chánh đều
ủy-thác quan-hệ ở trong tay mấy ông các-lăo
(家老
- Karo), bực đại-thần
lăo-quan của Mạc-phủ) gánh vác lo liệu
hết thảy. Cũng may có mấy ông nầy là
hạng tuấn-kiệt, nặng ḷng ưu-quốc,
rơ biết thời-cơ ; chính tay mấy ông vun
đắp lên cơ-sở khai-quốc buổi
đầu, chớ nếu Nhựt-bổn gặp
phải bọn lăo-thần ngu muội như t́nh-cảnh
một vài xứ khác ở phương Đông
nầy cùng trong lúc đó, th́ e vận-mạng nước
Nhựt cũng xui xẻo như ai rồi không
chừng. Thế mới biết cuộc hưng-vong
suy-thạnh của một nước, khôn
nhờ, dại chịu, có quan-hệ ở
hạng người chấp-chánh lắm thay ! Các-lăo của Mạc-phủ
lúc bấy giờ đương đầu
với cuộc ngoại-giao khó khăn và tự
nhậm công việc quốc gia trọng-đại,
cả thảy có bốn người, là : A-bộ
Chánh-hoằng (阿部正弘
- Abe Masahiro), Quật-điên Chánh-mục
(堀田正睦
- Hotta Masayoshi ), Tỉnh-y Trực
Bật (井伊直弻
- Ii Naosuke) và An-Đằng-đối-mă (安藤 對馬 – Andou ?). A-bộ Chánh-hoằng vốn
là người để tâm xem xét về sự-t́nh
của các nước ngoài, biết rằng
Nhựt-bổn đến lúc không khai-quốc không
xong, cho nên lúc có tàu Mỹ kéo tới ra oai ở
Phố-hạ th́ chính ông ta chủ trương
khai-quốc, chính ông ta quyết-định
việc kư tờ ước Nhựt Mỹ ở
Tần-nại-xuyên. B́nh thời, ổng hay khuyên
nhủ thúc giục đám thiếu niên
anh-tuấn nên đọc sách Ḥa-lan, xét việc
Âu Mỹ. Lại mướn thầy Ḥa-lan
tới chỉ vẽ cho Nhựt-bổn rèn tập
về lục-quân và hải-quân lối mới. V́
một phần gánh vác quốc-gia đại-nhiệm,
lo nghĩ nhọc nhằn quá, Chánh-hoằng
phát đau, một phần nữa sức yếu
tuổi già rồi, gánh vác đại sự không
nỗi nữa, bèn tấn-cử và giao phó cho
Quật-điên Chánh-mục
nắm giữ then chốt ngoại giao. Lúc ấy
ngoại-giao là việc quan-hệ hơn hết cho
quốc gia. Không bao lâu, Chánh-hoằng
qua đời th́ Chánh-mục
lên nối trọng chức. Chánh-mục
tuy không tự đọc chữ Ḥa-lan được,
nhưng mà sai bọn gia-thần hằng ngày đọc
sách Ḥa-lan rồi thuật lại cho ḿnh nghe.
Nhờ vậy mà Chánh-mục cũng thông hiểu t́nh thế
hải-ngoại nhiều lắm, mới dám
mạnh bạo cùng quan tổng-lănh-sự Mỹ là
Cáp-lợi-tư thương thuyết mà kư hai
tờ ước khác về việc thông-giao và
việc thông-thương, như đoạn trên
kia đă có nói qua. Hồi đó dưới Chánh-mục, có mấy tay văn-quan anh-tuấn, như
bọn Nham-lại
Trung-chấn (岩頼 忠震
– Iwase Tadanari), Tỉnh-thượng Thanh-trực (井上清直
– Inoue Kiyonao), Xuyên-lộ Thánh-mô (川路聖謨
- Kawaji Toshiakira), đều là
hạng có tài năng cao rộng, hiểu rơ
việc ngoài. Mặc dầu quốc-luận sôi
nổi công kích về việc khai quốc thế
mấy, bọn nầy cũng cứ đốc thúc
tán thành việc đó là cần dùng cấp bách
và hết sức biện bạc lợi hại cho
mọi người nghe. Họ chính là hạng tiên-phong
chí-sĩ khai-quốc vậy. Nhứt là Nham Lại Trung Chấn học
rộng văn hay, có tài hùng biện. Tờ ước
Nhựt Mỹ ở Giang-hộ, chính là do tay
Trung-chấn thảo ra. Ấy tức là tờ ước mà
Mạc-phủ sai sứ đem về kinh-đô tâu
xin Thiên-hoàng phê-chuẩn, nhưng trào-đ́nh
để mặc Mạc-phủ làm sao th́ làm, như
chuyện ở trên xa đă nói. Lúc đó Chánh-mục
bị tổng-lănh-sự Mỹ là Cáp-lợi-tư
yêu cầu phải kư tờ ước nầy,
đem về kinh-đô tâu xin Thiên-hoàng phê
chuẩn chưa xong th́ vừa đụng có
việc kế vị ở trong nhà tướng-quân
xảy tới, thành ra Chánh-mục và bọn đồng-chí
bổng mất quyền hành. Thế là tờ
ước Giang-hộ trên đây c̣n đang lôi thôi
chưa biết trào-đ́nh nhứt quyết
lẽ nào, th́ trong ngôi các-lăo ở
Mạc-phủ đă có chuyện tan ră, thay
quyền đổi tay. Tới đây, Tỉnh-y Trực-bật pḥ ấu chúa là Gia-mậu
và gánh lấy đại-sự, làm như
thủ-tướng của Mạc-phủ, có toàn
quyền nhiếp-chánh, gọi là Đại-lăo (大老
- Tairou). Lúc nầy cả
kinh-đô và toàn quốc, những kẻ không
chịu sự mở cửa giao-thông, càng sôi
nổi xôn xao dữ lắm. Mấy tờ ước
đă bàn định ổn thỏa rồi,
phần nhiều có cơ đến phải
hủy bỏ. Nhưng Tỉnh-y
là người can cường quyết đoán,
mỗi việc ǵ cũng hỏi han các-lăo là Tùng-b́nh
Trung-ưu (松平忠優
– Matsudaira Tadamasa) rồi
tự ḿnh gánh vác trách nhiệm nặng nề
một cách rất là mạnh bạo. Tháng 7 năm
1858, Tỉnh y
cứ việc kư tên trong tờ ước mới
với Mỹ, ấy chính là tờ ước
Giang-hộ đă nói kia vậy. (Tờ ước
nầy qua năm sau hai bên có thêm vô mấy
khoản về ngạch thuế nhập cảng, c̣n
đại thể th́ cứ giữ măi tới năm
Minh-trị thứ 27 tức là 1894, nghĩa là lúc
Nhựt-bổn duy-dân hùng-cường rồi, tuy
phải sửa lại toàn-văn, mà đại ư
vẫn để y cũ không đổi ; vậy
càng tỏ ra thuở tân-cựu giao-thời,
về việc ngoại-giao, Nhựt-bổn đă
có tay cứng lắm rồi). Hồi năm 1858, sau khi tờ ước
Nhựt Mỹ ở Giang-hộ đă kư rồi, có
nhiều nước khác đến xin
Nhựt-bổn kư ước với họ, th́ cũng
phỏng theo kiểu mẫu của tờ ước
Giang-hộ nầy cả. Bởi vậy tờ
ước Giang-hộ đối với
lịch-sử duy-tân của Nhựt-bổn là
một việc trọng yếu lắm. Lúc ấy theo chưn và bắt chước
Mỹ-quốc mà được cùng
Nhựt-bổn kư kết giao ước, có Anh,
Nga, Pháp và Ḥa-lan ; người Nhựt gọi
chung là "Ngũ-quốc đính-ước" (五国訂約
- ?). Tuy các nước lấy sự tử tế
mà yêu cầu Nhựt-bổn mở cửa nước
ra cùng họ kư tờ giao-hảo thông-thương,
chớ trong đó họ vẫn giữ lấy
phần hơn và không đăi Nhựt-bổn
bằng cách b́nh-đẳng. Liệt-cường
đăi Nhựt hồi đó cũng như
kiểu đăi Trung-quốc mấy lâu nay vậy.
Nghĩa là ở trong những cửa biển
Nhựt-bổn mở ra làm chỗ
ngoại-quốc thông-thương, có vạch riêng
từng khu vực cho ngoại-nhơn ở tự
do, gọi là “cư-lưu-địa (居留地
- ) (**)”, tức là tô
giới (concesion). Thuế ở đất cư-lưu,
về phần ngoại-nhơn thâu, cho tới
ngoại-nhơn có kiện thưa hay phạm
tội ǵ, hoặc riêng họ với nhau, hoặc
dính với người Nhựt, cũng đều
do quan lănh-sự của họ xử phân, gọi
là “lănh-sự tài-phán quyền -
領事裁判権 - Ryojisaibanken”, (droit d’exterrioritalité), chớ họ không chịu
quyền xử phân của quan ṭa Nhựt, v́
họ cho pháp luật của Nhựt c̣n non
nớt thấp thỏi, không đáng xử người
văn minh. Ngay lúc bấy giờ, người Nhựt cũng
biết thế là mất quyền, là nhục
quốc, nhưng ban đầu đành phải cam
chịu, không biết làm sao. Đến sau
khai-quốc rồi, không ngày nào mà chánh-phủ và
quốc-dân Nhựt không phấn-phát lo toan để
xé những điều-ước bất b́nh
đẳng ấy đi. Có cách lo toan nào khác hơn
là ḿnh tỏ ra ḿnh mạnh; hể ḿnh mạnh
th́ tự nhiên người ta phải nhường
bước và coi ḿnh ngang vai bằng bực ngay.
Trải mấy chục năm Minh-trị Duy-tân,
Nhựt-bổn đă tỏ ra họ mạnh, nên
chi đến năm Minh-trị thứ 27 (Tây
lịch 1893), đầu hết là Anh-quốc cùng
Nhựt sửa tờ ước cũ, kư tờ
ước mới, không c̣n có tô-giới và
quyền lănh-sự tài-phán nữa. Kế tới trận Trung-Nhựt chiến
tranh, là đám vật lộn giữa “cậu tư
hon” với “ông khổng lồ”, mà cả
lục quân, hải quân Nhựt-bổn bá
chiến bá thắng, làm cho binh mă nhà Thanh chạy
thôi bán chết, manh giáp không c̣n. Liệt-cường
thấy vậy phải nảy ra tấm ḷng kiêng
nể Nhựt-bổn. Bấy giờ các nước
Mỹ, Nga, Ư, Đức, Pháp, Áo, Hung v.v….
hết thảy đều nối chưn
Anh-quốc, cùng Nhựt sửa lại điều-ước
khác hẳn. Tóm lại, đến cuối năm
Minh-trị thứ 30, tức là năm 1897, tất
cả các nước Âu Mỹ đều cùng
Nhựt xé bỏ ước cũ, kư lại ước
mới, lấy tinh-thần rất b́nh-đẳng
mà đăi Nhựt ; thế là bao nhiêu cái dấu
vết táng quyền nhục quốc ở trong
những điều ước kư với ngoại
bang bắt đầu từ năm 1854 trở
đi, tới nay Nhựt-bổn tỏ sức
mạnh của ḿnh ra mà bôi trơn rửa
sạch vậy. Nhơn nói chuyện “Ngũ-quốc đính
ước” trong lúc Mạc-phủ mới khai
quốc mà cây viết kéo thẳng tới
chuyện 40 năm về sau, giờ ta lại nên
trở về gốc cũ mà nói tiếp theo cho
biết những tay lăo-thần chí-sĩ của
Nhựt lo toan công cuộc khai quốc lúc ban đầu
hết sức khổ tâm và đến đỗi
lưu huyết ra thế nào ? MÁU CỦA CÁC TƯỚNG TIÊN-PHONG
KHAI QUỐC Trên kia đă nói hồi
đó người Nhựt hầu hết vẫn
đang mê man nho học, có thói tự-đại
tự-tôn, rất mờ mịt tối tăm
về t́nh thế Âu Mỹ. Trừ ra có đôi ba
chục người được đọc sách
Ḥa-lan và năm bảy ông lăo-thần pḥ tá
Mạc-phủ, hơi biết sự thế
ngoại-quốc, là hiểu cái chỗ nước
nhà cần kíp khai quốc mà thôi. Thiệt nhờ
có hạng cầm quyền và hạng có học
ngoài như thế, nước Nhựt mới
được mở mặt mở mày, chớ
nếu họ cũng tối-tăm cố-chấp
như nhứt ban dân chúng th́ ḍng giống non sông
Đại-ḥa đâu có vẻ vang rực rỡ
như ngày hôm nay. Nhưng lúc ban đầu,
mấy người đi tiền-đạo tiên-phong
mạnh bạo khai-quốc, mà bị dân chúng xôn
xao công-kích, thiệt họ mang lấy khổ tâm
ở vào khổ-cảnh, không biết sao mà nói
cho cùng. Hơn 250 năm khóa chặt
hải cảng, cấm tuyệt ngoại-nhơn,
nay Mạc-phủ tự biết là sự cần dùng
lợi ích cho nước nhà, mà mở cửa
giao-thông với ngoại bang, không thế không
được. Song, dân chúng cho là việc trái
nghịch với phép nước lệ xưa,
nổi lên la ó rầm rầm : Mạc-phủ chuyên
quyền làm xằng ! Mạc-phủ phá hoại
quốc-pháp ! Lúc trước, một vị các-lăo
pḥ tá tướng-quân, cầm quyền
Mạc-phủ là Quật-điền
Chánh-mục, sai sứ đem tờ ước
Giang-hộ (tờ ước Nhựt Mỹ thông-thương)
về kinh-đô xin Thiên-hoàng phê chuẩn mà không
xong, kế tới Tỉnh-y Trực-bật lên nối chức
thế quyền, nghĩ ḿnh là bực đại-lăo
Mạc-phủ, thôi th́ cứ việc quyết
định kư tờ ước với Mỹ cho
xong, rồi sau tâu lên cho Thiên-hoàng hay cũng
được, v́ đó là việc ở trong
chức quyền của ḿnh được tự
tiện mà. Song, bọn chí-sĩ tôn-quân
không chịu như thế ; họ cho đại-lăo
Tỉnh-y làm
chuyện tự chuyên thế ấy là thất kính
với đức Thiên-hoàng ở trên, và lại
làm cho ấu-chúa (chỉ vào tướng-quân Gia-mậu
đang c̣n nhỏ tuổi) mang tiếng bất nghĩa.
Thành ra dư-luận nổi dậy như núi
đổ sấm vang, trách tội Mạc-phủ
đáo để, cái khí phẫn-uất của dân
lúc nầy ồn ào nóng nảy quá, không thế nào
cản được. Tuy vậy, Tỉnh-y
cũng ra sức đè nén cái lằn sóng
phản-đối và cứ việc hô hào
chủ-trương khai-quốc. Khốn nỗi,
phe tán thành th́ hiếm hoi, c̣n phe phản đối
th́ đầy tràn trong nước. Bọn oán trách
Mạc-phủ và phản đối chánh-sách
khai-quốc, đến đổi kết phe
lập hội, dùng tới vơ-lực, ai tán thành
khai-quốc th́ họ “làm thịt”. Lúc nầy
mặc dầu có bọn chi-sĩ v́ phạm
tội quốc-sự mà bị hạ ngục
rất nhiều, nhưng phong trào phản đối
vẫn cứ nồng nàn sôi nổi. Chính ḿnh Tỉnh-y,
giữa ngày 24 tháng 3 năm 1860, từ nhà riêng
đi vô trong thành bái yết tướng-quân,
bị mười mấy người tử-sĩ
đón đường đâm chết. Tỉnh-y là người thứ nhứt bị
thiệt mạng v́ chánh-sách khai-quốc vậy. Nghĩ lại, bước
đầu duy-tân cải cách của một
quốc-gia nào cũng phải có những sự
rối loạn hy sinh như thế. Người
Nhựt nh́n nhận rằng máu của Tỉnh-y
và những kẻ tiếp theo Tỉnh-y,
chính là những tài-liệu để xây dựng
lên đài văn-minh cường-thạnh của
Nhựt-bổn ngày nay. Tỉnh-y
là người sáng suốt dơng cảm, chỉ v́
yêu nước, lo sự lợi ích cho nước
mà bị chết oan mạng, chừng đó oai
quyền Mạc-phủ càng suy, quốc-luận xôn
xao càng gắt. Đă vậy rồi các nước
bắt chước Mỹ-quốc mà tới yêu
cầu kết giao với Nhựt mỗi ngày
mỗi đông, làm cho Mạc-phủ ở trong cái
cảnh ngộ càng thêm khó khăn bối rối
hơn nữa. Nhưng đến đây, việc
nước đă làm th́ đành phải làm
tới, chớ không sao thụt lui được
nữa. Bởi vậy Mạc-phủ thây kệ
quốc-luận công-kích xôn xao, lại nghe lời
thỉnh cầu thông-thương của nước
Bồ-đào-nha, rồi cùng nước nầy kư
một tờ ước, y như kiểu đă kư
với 5 nước trước kia. Người đứng
giữa con sóng ngoại giao, trước mũi tên
quốc-luận hồi nầy là An-đằng
Tin-mục. Trong nước chê bai chánh-sách
khai-quốc của Mạc-phủ càng ngày càng
hồng-hộc như trận băo cơn giông,
nhứt là sau khi Tỉnh-y
Trực-bật bị đâm chết, rồi,
bọn phản-đối lại hay dùng vơ-lực
đánh đập xâm-phạm tới ngoại-nhơn
nữa. An-đằng
ở cảnh khó-khăn như thế mà điều
đ́nh được êm thấm và không
thất-tín với liệt-cường, thật là
có công ngoại-giao nhiều lắm. Rồi sau, An-đằng
cũng bị bọn phản-đối đón
đường chém cho một dao, nhưng may
khỏi chết. Bọn phản-đối chánh-sách
ngoại-giao khai-quốc đây, có cái danh-hiệu
là Nhương-di-đảng (攘夷黨 -
?),
mục đích của họ hết sức
chống ghét ngoại-nhơn ; nói rơ, là người
Âu Mỹ, mà họ cho là hạng man di nhung địch. Nghĩ cũng thú vị ly
kỳ cho cái thuyết Nhương-di của người
Nhựt hồi đó, ban đầu có một ư
nghĩa, rồi sau có một ư nghĩa khác. Ban
đầu, họ khi rẻ Âu Mỹ, cho là di-địch,
cho nên nhứt thiết họ cự tuyệt bài
trừ, không chịu cùng Âu Mỹ giao thông, không
muốn cho Âu Mỹ vào trong nước họ.
Rồi một lúc sau, có dịp cho họ hoảng
hồn sáng mắt, ngó thấy Âu Mỹ rơ ràng tài,
mạnh, khôn, giỏi, ḿnh phải học theo
bắt chước mới được, th́
bấy giờ mau mau họ tỉnh-ngộ tự-tân,
cố học lấy những tài hay sức
mạnh của Âu Mỹ sanh-tồn cạnh tranh,
một ngày kia lấy ngay gậy ông đập vào
lưng ông cho sướng ! Ấy, nhờ họ có cái
tinh-thần mau tỉnh-ngộ tự-tân và
tỉnh-ngộ rồi th́ rất hâm hở
mạnh bạo về sự tấn-hóa cho nên
cuộc duy-tân tự-cường của họ
được mau thành công kết quả đó. * MẤY TIẾNG SÚNG LÀM TAN
MẤT KHÔNG-KHÍ NHƯƠNG-DI Kể
ra người Nhựt coi Âu Mỹ như di-địch
và có óc cự tuyệt ngoại-nhơn trải
đă lâu đời rồi, chớ không phải
đến hồi bắt đầu khai-quốc
nầy mới có đâu. Căn do phát ra thiệt
từ 300 năm trước, bọn giáo-sĩ
Bồ Y cậy thế lộng hành, gây nên một
phen rối loạn trong nước, thành ra
Mạc-phủ phải hạ lịnh khóa cửa,
xua đuổi ngoại-nhơn. Ban đầu
Mạc-phủ lại truyền lịnh Nhương-di
khắp nước, dạy dân cư xung quanh mé
biển hễ thấy ghe tàu ngoại-nhơn kéo
tới th́ phải đánh đuổi đi. Người
Nhựt có ḷng ngờ ghét ngoại-nhơn,
phần nhiều bởi đó mà ra. Về sau Mạc-phủ tuy có bớt phép nghiêm-cấm
đi, nhưng mà chuyện xưa c̣n in sâu trong óc
dân, và lại ḷng dân ngờ ghét ngoại-nhơn
lâu ngày đă thành thói quen, chôn chặt vào trong
trái tim khối óc rồi. Bởi vậy đến
lúc khai-quốc ḷng người nổi lên
phản-đối mới dữ. Bao nhiêu đời nay nước
nhà vẫn nghiêm-cấm ngoại-giao, đến
giờ bỗng chốc bị ngoại-nhơn kéo
tới nài ép phải kư điều-ước
nọ kia, tuy là Mạc-phủ cùng ít nhiều chí-sĩ
thức-thời tự biết chánh-sách “khóa
cửa cự di” là không thể ôm giữ
được nữa, nhưng mà chu-hầu và
quốc-nhơn hầu hết không hiểu t́nh
thế ngoại-bang liệt-cường ra sao, thành
ra họ thấy Mạc-phủ khai-quốc th́ túa
lên, phản đối dữ dội. Lúc nầy trong hai trăm sáu
chục chư-hầu nước Nhựt, có hai chư-hầu
đất lớn thế to, vào bực cường-phiên
(強藩 - ?) (**), là Tát-ma (薩摩
- Satsuma) và Trường-châu (長洲
- Choshu) chống chỏi chánh sách khai-quốc
gắt gao hơn hết. Bao nhiêu kẻ chi-sĩ
bất-b́nh kéo đến đất nước
của hai cường-phiên mà âm mưu hoạt-động,
rồi phong-trào phản đối dữ tợn
tràn lan khắp nước. Họ nhao nhao lên cầu
khẩn đức Thiên-hoàng xuống chiếu khu
trừ ngoại-nhơn ; hoặc muốn lấy
thế dân-tâm dân-khí mà ép buộc Mạc-phủ
không khai chiến với ngoại-nhơn không
được. Nhưng Mạc-phủ và hạng
chí-sĩ thức thời đă dư hiểu
sức mạnh của Âu Mỹ và cũng dư
hiểu sự khai-quốc là sự cần dùng
lợi ích cho Nhựt-bổn, thế th́
Mạc-phủ có khờ dại ǵ sanh sự khai
chiến với Âu Mỹ mà mang hại cho quốc
Âu Mỹ mà mang hại cho quốc
gia, và lại chống cự liệu được
mấy hơi ? Nhứt là đám sĩ-phu đă chịu giáo dục Hán-văn, tức là bọn nhà nho, thuở nay vẫn tự-tôn tự-đại, khinh rẻ người Tây-phương, cho người Tây-phương là di-địch, bây giờ thấy Mạc-phủ chủ- trương khai-quốc, tiếp rước ngoại-nhơn, th́ họ phùng mang trợn mắt, la ó nhiều hơn ai hết. Họ bất b́nh cùng trong
một lúc kêu gào toan tính cả hai chủ-nghĩa
: Một là tôn-vương,
nghĩa là phá đổ Mạc-phủ đi, khôi-phục
quyền chánh Thiên-hoàng như 700 năm về trước
; hai là nhương-di, tức là xua đuổi
nhứt thiết ngoại-nhơn, chẳng giao
hảo thông-thương ǵ ráo. Năm 1861, dân-tâm
quốc-luận đang phực phực như
lửa nóng nước sôi thế ấy, lại
nhè xảy ra một việc ngoại-giao
rắc-rối, làm như lửa cháy c̣n đổ
dầu thêm. Ấy là việc Nga-quốc bỗng dưng
đem binh chiếm giữ lấy cù-lao Đối-mă
(對馬 - ?) (**), định làm một
nơi đồn lũy cho đội chiến
thuyền của họ đóng tại Thái-b́nh-dương.
Mạc-phủ hết sức năn nỉ mà Nga không
chịu rút binh đi, trả đất lại cho
Nhựt. Sau Mạc-phủ phải cậy ông công-sứ
Anh can-thiệp gần nửa năm trời,
bấy giờ Nga mới chịu lui. Nhưng
Mạc-phủ cậy mượn ngoại-bang
cứu giúp ḿnh như thế, làm cho dân-tâm càng
thêm tức giận, và từ đó lại càng thù
ghét ngoại-nhơn. Tóm lại bọn
thủ-cựu bất-b́nh, trước hết c̣n
lấy ngôn-luận kêu gào, kế sau dùng tới
thủ-đoạn tàn sát. Hoặc chém những người
chủ-trương tán-thành việc khai-quốc ;
hoặc đâm giết mấy tay lăo thần mưu-quốc
trong phủ tướng-quân, tức như
chuyện Tỉnh-y
Trực-bật bị giết chết và An-đằng
Tín-mục thọ thương đó. Muốn làm
cho Mạc-phủ phải khai chiến mà nguy, và
muốn khiêu khích cho thành cuộc đại-biến,
nên họ lại tới mấy nơi
hải-cảng thông-thương, kiếm
chuyện gây gỗ với ngoại-nhơn rồi
đập phá cửa nhà và chém giết người
ta nữa. Lúc nầy có nhiều ngoại-nhơn
bị hại ; rất đỗi một quan thông-ngôn
của công-sứ Mỹ-quốc cũng bị
bọn thủ-cựu bất b́nh đón đường
đâm chết, làm cho công sứ các nước
đều phát giận, rủ nhau hạ cờ
xuống, bỏ Giang-hộ mà đi Hoành-tân. Người các nước
ở Nhựt-bổn hồi nầy đều
lấy làm nguy ; hai nước Anh Pháp phải
đem binh ở dưới tàu lên thành
Giang-hộ để bảo hộ dinh công-sứ
của họ tại đó. Vậy cũng chưa
đủ, các nước suy nghĩ tất
phải ra oai trừng trị để cho bọn
thủ-cựu bất-b́nh ở trong nước
Nhựt khiếp vía một phen, có vậy th́ sau
ngoại-nhơn mới ở yên ổn được.
Ấy là họ tính thế ra oai giữ ḿnh
vậy thôi, chớ hẵn không dè đâu rằng
mấy phát súng thần-công của họ sắp
bắn ra, chính là tiếng chuông đồng-hồ
báo thức, làm cho người Nhựt tỉnh
ngủ vùng dậy, đổi ngay đầu óc,
rồi th́ ba chân bốn cẳng, chạy rượt
theo kịp Âu Mỹ trên đường tấn-hóa
văn minh ! Các nước chủ tâm nhè
mấy cái đầu nào cứng nhứt mà gơ vào
ít hèo, tự nhiên châu-thân phải rúng, họ
biết lúc bấy giờ hai chư-hầu Tát Trưởng
là hai cường-phiên đứng đầu
phản đối khai-quốc và thù ghét
ngoại-nhơn hơn cả, cho nên họ
quyết tới giữa nhà hai cậu nầy mà
trừng trị một phen cho biết mặt nhau
chơi. Năm 1863, mấy chiếc tàu
Anh kéo tới bắn phá thành-tŕ Lộc-nhi-đảo
(鹿児島 - Kagoshima), là đất phong
của chư-hầu Tát-ma (薩摩). Qua năm 1864, - bận
nầy lớn chuyện hơn - bốn nước
Anh, Pháp, Mỹ, Ḥa-lan hiệp tàu binh lại thành
một đại-đội, rần rộ kéo
tới Hạ-quan (下関 - Shimonoseki), là
đất thuộc về chư-hầu Trường-châu
mà chĩa súng vào bắn phá rầm rầm. Hai hiệp súng nầy
chẳng có ư-nghĩa chi là cách cừu-thù đối
chiến ; chẳng qua chỉ như câu chuyện
‘tṛ” Nhựt mới
định tựu học nhà trường văn-minh
mà lại có ư khinh thầy, ghét thầy, cho nên
“thầy” Âu Mỹ muốn gơ sơ một vài
cây thước dằn mặt vậy thôi ! Nhưng, thiệt là hai
hiệp súng tỉnh hồn duy-tân, hai hiệp súng
cứu-tinh độ-mạng cho người
Nhựt được trở nên vẻ-vang
tốt đẹp. Thiệt
vậy, lúc bấy giờ hai cường-phiên Tát-ma
Trường-châu và tất cả bọn nhà nho
tự-phụ, bọn thủ-cựu bất-b́nh,
nghe hai hiệp súng tan thành bể núi nầy
rồi, ai nấy đều mở mắt giựt
ḿnh biết rằng ngoại-nhơn có súng
lớn tàu to thế nọ, tài cao sức mạnh
thế kia, ḿnh đây dễ ǵ đuổi xua
chống cự họ được. Chống
cự họ măi sẽ đến nguy hại
quốc-gia trước mắt cho coi. Trời ơi
! họ không phải là di-địch đâu, ta
“nhương” ǵ nổi ? Vả lại có
muốn “nhương” họ th́ ta cũng
phải làm sao có những súng lớn tàu to, tài
cao sức mạnh như họ, hay là hơn
họ mới được chớ. Thôi bây
giờ ḿnh phải khai-quốc, phải cùng
họ giao-hảo ḥa-thân, không c̣n có thể nào
đừng được nữa. Vậy rồi trên từ chư-hầu dưới
khắp quốc-dân, bỗng chốc đều sáng
trí tỉnh hồn, bao nhiêu cái tâm năo, cái khí-khái
“khóa-nước cự-di” hôm đang sục
sục như lửa cháy dầu sôi, th́ nay
bắt đầu lần hồi tiêu tan đi
hết, mà đổi thay chói rạng bằng cái
tâm năo, cái khí-khái “duy-tân tự-cường”,
đầu dây mối nhợ thật là mở ra
từ đây.
|
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương IV : Mở cu