|
Chương IV MỞ CUỘC DUY TÂN
Sự đổi thay
vận-mạng của một dân-tộc
quốc-gia, đă đành trước hết
phải nhờ có bọn đương quyền
khôn ngoan sáng suốt và bọn chí-sĩ
thức-thời làm hướng-đạo tiên-phong,
nhưng cũng phải nhờ nơi dân-tâm dân-khí
có biết hăm-hở tấn-hóa tự cường
mới được. Đó là hai sự cần
dùng cho cuộc tấn-hóa, phải nương
dựa lấy nhau và cùng đi với nhau. Nếu
có bọn đương-quyền và chí-sĩ
sốt-sắng cải-cách song bị phần đông
người ta c̣n quá ngu-si thủ-cựu, tự
họ không muốn khôn, muốn mạnh, hay là
họ tưởng ḿnh đă khôn lắm mạnh
lắm rồi, như vậy th́ việc
quốc-gia lợi-ích, khó ḷng trông mong thi-thố
thành-tựu ǵ được. Trái lại nếu
chí-sĩ có, dân-tâm có, nhưng vô phước mà
bị đám người cầm quyền là lũ
đầu óc ngu dại, cứ ngồi lỳ trên
cao, lấy quyền to sức mạnh của chúng
để đè ép cản trở ư muốn
tấn-hóa của dân, th́ việc quốc-gia đại-kế
cũng không trông mong ǵ làm nổi. Dân tộc nào
gặp cảnh ngộ thế ấy, kết
quả đố khỏi hoặc là trong nước
nổi lên một phen cách-mạng đổ máu
gớm ghê, hoặc là bị mất nước
với người ta, nếu không cũng bị
lợi dụng và yếu hèn măi ; chắc ai cũng
ngó thấy nhiều quốc-gia bị lôi kéo đắm
ch́m vào trong cảnh dưới đó - cảnh
vong quốc - nhiều hơn. Nhựt-bổn đă
có dân khá, lại không bị quan ngu, thành ra
họ tấn-hóa tự-cường được
là phải lắm. Tuy ban đầu Mạc-phủ
nhứt định chủ-trương
khai-quốc mà dân-tâm xôn-xao phản-đối ;
chẳng qua chỉ là sự hiểu lầm
chốc lát đó thôi ; tới chừng có mấy
hiệp súng ở Lộc-nhi-đảo (鹿児島
- Kogoshima) và Hạ-quan (下関
-Shimono Seki) th́ cả nước tỉnh-ngộ như
chớp nháng và mạnh bạo thay đổi tư-tưởng
ngay. Chớ không cố-chấp. Bao nhiêu tâm-lực
trước kia để vào chủ-nghĩa
“tỏa-quốc nhương-di”, (**), nay dồn
cả về một mục đích “văn-minh
cải-cách”, vậy rồi nền duy-tân
dựng lên. ĐỨC-XUYÊN MẠC-PHỦ DÂNG
TRẢ CHÁNH-QUYỀN Sau khi các nước ra oai bắn
phá thành-tŕ của hai cường phiên Tát Trưởng
rồi, th́ cái tư tưởng
“tỏa-quốc nhương-di” của bọn
thủ-cựu khắp trong nước đều
theo lằn khói thần-công đại-bác của
ngoại-nhơn mà tiêu tan đi liền. Cuộc
biến đổi tư-tưởng nầy phát
khởi từ cuối năm 1864, chính lúc
Hạ-quan vừa mới bị đoàn tàu bốn
nước hiệp lại ra oai bắn phá, làm cho
đảng “nhương-di” giựt ḿnh
hoảng vía, biết ngoại-nhơn có sức
mạnh ghê, nước ḿnh không sao chống
cự nỗi ; chống cự th́ chỉ hiểm
nguy thiệt hại cho ḿnh. Trông người rồi ngẫm
lại ta mà cảm ! Chẳng những người
Nhựt đă tỉnh-ngộ không nên
“tỏa-quốc nhương-di” mà thôi, đồng
thời họ lại tỉnh-ngộ về
chỗ sanh tử tồn vong của họ, tất
nhiên phải tấn-hóa duy-tân cho bằng những
kẻ đă tới bắt buộc họ mở
cửa thông-thương và đă giơ súng ra hăm
dọa nọ kia mới được. Giờ
họ xoay ra cái tư-tưởng “đảo
Mạc tôn Vương - 倒幕尊王
- ?”, để làm cơ-sở
cho cuộc duy-tân cải-cách. Năm 1866, tướng-quân Đức-Xuyên
Gia-mậu qua đời. Đức-xuyên Khánh-Hỉ
(徳川慶喜
- Tokugawa
Yoshinobu)
vô ngồi Mạc-phủ để nối
nghiệp nhà, cầm quyền nước. Qua năm sau 1867, Hiếu-minh Thiên-hoàng
( 孝明天皇
- Koumei Tennou) thăng-hà, thái tử mới có 15 tuổi, lănh
ba món truyền-quốc thần-khí 2500 năm mà lên
nối ngôi báu. Tân quân lên kế-vị năm
1867, qua năm sau - 1868 - đổi niên-hiệu là
Minh-Trị nguyên-niên, ấy là Minh-Trị
Thiên-Hoàng (明治天皇
-
Meiji Tennou). Viết tới đây, tôi
chợt nhớ lại câu thơ truyền tụng
của Corneille : “Giá cao chẳng đợi
tuổi già mới nên” (La valeur n’attend pas le
nombre des années), thật đúng hết sức. Vua
Minh-trị lên ngôi tuy c̣n nhỏ tuổi mặc ḷng,
nhưng đă có tài cao trí lớn, chính ngài ra tay
cải cách duy tân, mở ra kỷ-nguyên mới cho
nước Nhựt, đưa nước Nhựt
lên cơi phú-cường hạnh-phước
vậy.
Trong khoảng ba bốn năm đang
nói đây, nhơn-tâm quốc-luận hăm
hở kêu gào chủ-nghĩa "đảo Mạc
tôn Vương" dữ lắm. Ai cũng bảo
chế-độ phong-kiến trên 680 năm nay là
chế-độ Mạc-phủ cầm quyền, bây
giờ phải đến ngày kết-thúc rồi.
Ở đời nầy mà trong nước
Nhựt-bổn c̣n có hai chánh-phủ : Một nơi
chỉ giữ lấy danh-phận hư không,
một nơi th́ nắm trọn thực-quyền
chánh-trị, khiến cho phép tắc chánh lịnh
tách ra hai ngă, thể-thống quốc-gia coi
chẳng ra sao. Hồi nước nhà c̣n khóa
cửa sống riêng một ḿnh, tuy không hại ǵ
cho công việc quốc-gia, chớ một mai đây
khai-quốc tự-tân, th́ việc bang-giao tất
phải lấy danh-nghĩa Thiên-hoàng để
tỏ ra với liệt-quốc mới được.
Có hai chánh-phủ cùng đứng trong một
xứ, lấy danh-nghĩa mà nói, là sự trái ngược
không thể nào dung. Vậy nay muốn lo
quốc-gia đại-kế th́ trước
hết Mạc-phủ nên đem chánh-quyền dâng
nạp lại trào-đ́nh, và xóa bỏ cái
chế-độ phong-kiến bảy trăm năm
nay đi, để Thiên-hoàng chủ-trương,
quốc-gia thống nhứt, có vậy th́ việc
lớn mới có thể kết quả thành-công
được. Ban đầu, do những nhà chí-sĩ
có thành-danh kiến-thức đứng lên hô hào
xướng-xuất chủ-nghĩa “tôn Vương
đảo Mạc”, sau có nhiều ông chúa phiên (
藩主, cũng tức là chư-hầu) hùng-cường
trong nước nghe lấy làm phải, bèn ra
sức tán thành. Tháng 4 năm 1867, trào đ́nh
vời các chúa phiên về kinh, nhóm hội chư-hầu,
để hỏi ư kiến về quốc-sự,
th́ mấy ông chúa phiên thế lực đều
tâu nên băi Mạc-phủ. Rồi đó mấy ông
sai sứ tới khuyên tướng-quân Khánh-Hỉ
dâng nạp quyền chánh về Thiên-hoàng.
Khánh-Hỉ là bực anh hùng
quyết đoán, yêu nước kính vua, tự
trong bổn-tâm đă có chí muốn bỏ ngôi tướng-quân
của ḿnh lâu rồi, song c̣n sợ giữa lúc
quốc-bộ gian nan mà ḿnh bỏ chức th́ trên
vua dưới dân cho là ḿnh trốn lánh trách-nhiệm
chăng ; nay thấy dân-tâm sôi nổi,
quốc-sự dập dồn, tất phải có cái
quyền tôn-nghiêm thống-trị của đức
Thiên-hoàng mới có thể sửa sang đại-cuộc,
lo việc duy-tân được. Bởi vậy khi
nghe lời khuyên rất phải, th́ Khánh-Hỉ
vui mừng nhận theo liền. Rồi đó Khánh-Hỉ
viết biểu dâng lên trào-đ́nh, lời
lẽ rất trung thành thống thiết, xin
nạp lại quyền-chánh về Thiên-hoàng ;
tự ḿnh lui về ở ẩn tại Tỉnh-cương,
như là một tên dân thường vậy. Ấy là việc ngày 14 tháng 10 năm
1867. Thử hỏi thế-gian có
mấy người ở ngôi cao chức trọng,
có oai lớn quyền to, biết v́ quốc gia
đại-kế mà bỗng chốc lui bước
từ ngôi được một cách thái-nhiên quân-tử
như Đức-Xuyên Khánh-Hỉ ( 徳川慶喜-
Tokugawa Yoshinobu) vậy không ?
Nghĩ lại có lắm quốc-gia đến lúc
ngửa nghiêng hầu mất, mà bọn
quyền-thần ngu dại, quan trưởng hư
hèn, c̣n ngồi lỳ bám chặt lấy cái
danh-vị hư-vinh của chúng, không để
cho những người có tài đức thế vào,
có lẽ cứu chữa được cơn nguy
cuộc rối ; than ôi ! Quốc-gia nguy vong mà
bọn ngu hèn cố vị tham quyền, thật là
đáng giận, đáng bỉ ! Khánh-Hỉ trả quyền lui bước,
thế là cái gia-nghiệp tướng-quân của
họ Đức-Xuyên trải 250 năm đến
đây hạ màn, mà cả cái chế-độ
Mạc-phủ ở Nhựt-bổn dựng lên
từ cuối thế kỷ 12 đến đây cũng
chung cuộc. Từ đó, toàn-quốc về
đức Thiên-hoàng thống trị, chánh-phủ
mới thành-lập, kỷ-nguyên mới bắt
đầu. Nhơn nói về chung cuộc
Mạc-phủ, tưởng nên xét qua ảnh-hưởng
luôn thể, cho tiếp câu chuyện, rồi
sẽ trở lại công cuộc Minh-Trị duy-tân.
Một cái chánh thể lâu đời
bền gốc, có quan-hệ thâm thiết với
lịch sử, với chủng-tộc, với
quốc-gia, như là Mạc-phủ ở nước
Nhựt, nay bỗng dưng xóa bỏ đi,
mặc dầu Khánh-Hỉ tướng-quân là
bực quân-tử cao-nhơn, tự ḿnh vui vẻ
ngôi phú quí nhứt đời như là thảy
chiếc giày hư vớ rách đi nữa, nhưng
bề nào việc đó cũng là một việc
đại-biến, không có lẽ nào không có
ảnh-hưởng tới thế-đạo nhơn-tâm
và quốc-gia chánh-trị ít nhiều. Chắc
hẳn trong trí Khánh-Hỉ (Yoshinobu) tưởng ai cũng kính
vua, yêu nước và có độ-lượng quân-tử
như ḿnh, cho nên khi thấy sự ḿnh thối
vị là sự chánh-đáng cần kíp, th́
vội vàng dâng biểu phụng-hoàn đại-chánh
rồi th́ xuống đai t́m chỗ đi ẩn
ngay, chẳng có liệu trước tương-lai
và sắp đặt hậu-sự ǵ cả, v́
đó mà xảy ra có nội loạn rắc
rối một hồi.
Bấy giờ trong nước chia
ra làm hai phái đông tây, một phái tôn Vua,
một phái pḥ Mạc, xung đột nhau để
dành lại quyền-thế. Phái pḥ Mạc là
một số chư-hầu ở miền đông,
không muốn khai-quốc duy-tân, vả lại có
mang ơn Mạc-phủ đă phong hầu chia
đất cho, ngoài ra c̣n 8 muôn tướng-sĩ
là gia-thần bộ-hạ của Mạc-phủ,
bấy lâu họ chịu ơn cơm áo tướng-quân,
tự nhiên họ phải dốc-ḷng trung-thành
ủng-hộ tướng-quân đến cùng. Sau
lúc Khánh-Hỉ bỏ ngôi lui bước rồi,
th́ cả bọn chư-hầu và tướng-sĩ
pḥ Mạc nổi lên làm loạn ở nhiều nơi,
nhứt là ở Quan-đông ( 関東
- Kanto), Áo-vơ - 奥?(**), và Sương-quán
(箱館 -?), ra mặt chống cự với trào-đ́nh.
Ban đầu loạn-đảng ép Khánh-Hỉ
trở về Giang-hộ một lúc để
dựng Mạc-phủ lại như cũ, nhưng
Khánh-Hỉ không chịu. Công sứ Pháp-quốc
muốn lấy binh-lực giúp cho Khánh-Hỉ thâu
hồi đại-vị, Khánh-Hỉ cũng không
nghe, chỉ khăng khăng giữ vững cái chí
tôn Vua trả quyền, và lại ăn năn
việc ḿnh sơ sót ban đầu khiến nên có
loạn. Song, loạn-đảng không có bao nhiêu
người và chí-hướng của họ cũng
trái nghịch với nhơn-tâm thời-thế, thành
ra không có thực-lực ǵ. Binh trào-đ́nh
chỉ mất công đánh dẹp có hơn
một năm, từ 17 tháng giêng 1868 tới 27 tháng
sáu 1869, thắng luôn bốn trận, thế là b́nh-định
được nội-loạn, càng tôn thêm oai
quyền của trào-đ́nh. Hồi đó Khánh-Hỉ vẫn
ở yên tại Tỉnh-cương, lấy thú
gảy đờn xem sách làm vui, trải 30 năm
mới dời về Đông-kinh ; đến năm
1902, tức là năm Minh-Trị 35, đức Thiên-hoàng
triệu vô bệ-kiến và phong cho Công-tước.
H́nh như lối 1910 hay 1911, Khánh-Hỉ mới
qua đời. (5) Người Nhựt đối
với Khánh-Hỉ rất tôn kính nhớ thương,
v́ cái cử-chỉ cao-minh quân-tử của Khánh-Hỉ
đă từ bỏ quyền-hành, phụng-hoàn
đại-chánh, kể ra cũng là người có
công với lịch-sử duy-tân của nước
Nhật vậy. Nếu như lúc đó Khánh-Hỉ
không chịu kết-thúc Mạc-phủ, th́ nhơn-tâm
không khỏi chia ĺa, quốc-thế chẳng
chịu ảnh-hưởng, chẳng những là
cuộc duy-tân e chậm trễ khó khăn, mà
lại c̣n sợ có một phen cách-mạng
biến động gớm ghê, không tránh khỏi
được. NĂM LỜI THỀ VỚI
TRỜI ĐẤT THÁNH THẦN Minh-Trị Thiên-hoàng lên kế
vị ngày 14 tháng 2 năm 1867, đến ngày 14 tháng
10 năm đó, tướng-quân Khánh-Hỉ dâng
biểu xin trả lại Thiên-hoàng tất cả
đại-chánh quốc-gia, để ngài
thống nhứt toàn quốc, thực hành duy-tân.
Trong tờ biểu có câu nói như vầy, tỏ
ra tấc ḷng Khánh-Hỉ yêu nước kính vua
rất là thành-thiệt : “Hiện nay việc ngoại-giao càng
ngày bề bộn khó khăn, trừ phi quyền
chánh trào đ́nh tóm thâu “về một
đường, th́ mối giềng phép tắc khó
ḷng mà dựng lên được. Hạ-thần trộm nghĩ ngày
nay tất phải sửa hẳn lệ xưa
đi, đem chánh-quyền dâng lại trào đ́nh,
rộng cho quốc-dân cạn lời công-nghị,
và muôn việc đều trông Thánh-thượng
xem xét quyết đoán, rồi cả nước
đồng ḷng hiệp sức, cùng nhau bảo
hộ hoàng-quốc, như thế th́ nước
nhà có thể tấn tới ngang hàng với
vạn-bang trong thế giới đặng. Khánh-Hỉ
tôi tận trung hy-vọng cho quốc-gia chỉ có
một việc đó.” Trào-đ́nh chuẩn y lời tâu,
liền ra tờ đại-hiệu-lịnh, bá-cáo
trong nước về việc vương-chánh
phục-cổ (王政復古
-
quyền vua trở lại như
xưa), tóm tắt lời cốt yếu như sau
nầy : “Đức-xuyên Mạc-phủ tâu
xin trả lại quyền chánh của trào-đ́nh
đă giao phó cho từ xưa nay. “Trào-đ́nh y theo lời tâu
đó. “Vậy từ nay trở đi, chức
nhiếp-quan (1) cùng là Mạc-phủ đều
bỏ dứt hẳn. Bây giờ trào-đ́nh “trước
hết tạm đặt ra 3 chức Tổng tài,
Nghị-định và Tham-dự để trông
coi liệu định các việc, lấy cái tôn-chỉ
của đức Thần-vơ lập-quốc ngày xưa
làm gốc. Không kể là thế-tộc vơ-biền,
kẻ trên người dưới, phàm là
quốc-dân, th́ ai nấy đều phải đồng
ḷng ra sức lo tính việc chung.” “Trào-đ́nh
khuyên hết thảy dân-chúng từ đây đều
nên gắng gổ tự tân, rửa cho sạch
những cái thói hư tật xấu, đem ḷng
sốt sắng tận trung, đặng làm
việc công, giúp nhà nước v.v…” Ấy là
mấy lời đầu hết của
Minh-trị Thiên-hoàng ra hiệu-lịnh duy-tân
vậy. * Một nước ôm giữ
những phép xưa thói cũ từ mấy ngàn năm,
ngày nay bỗng chốc thay đổi sửa sang
nhứt thiết, cho hạp thời-thế và
kịp tây-phương, thật là một việc
quan-hệ lớn lao hết sức. Muốn bày
tỏ chỗ quan-hệ đó ra, và muốn cho dân
biết những cái tôn-chỉ duy-tân ra thế nào,
nên chi tháng 3 năm 1868, Minh-Trị Thiên-hoàng bèn
dẫn hết thảy trào-thần văn vơ, cùng
là các bực phiêu-chúa chư-hầu (lúc nầy cũng
đang c̣n chư-hầu, hai năm sau mới băi
hẵn) làm lễ rất nghiêm trang long trọng,
tế-cáo trời đất tổ tiên, đọc
lời thề gồm có 5 khoản : 1* - Mở ra hội-nghị
rộng răi, trăm công ngàn việc đều
lấy theo công-luận mà quyết-định ; 2* - Trên dưới một ḷng, ra
sức sửa sang việc nước ; 3* - Văn vơ một đường,
từ công-khanh đến thứ dân, đều
được toại chí, khiến cho ḷng người
hăm hở sốt sắng. 4* - Thảy bỏ hết những
thói hư mối tệ chất chứa lâu đời,
từ đây gắng gổ duy-tân tự-cường,
hiệp theo công-đạo của trời đất.
5* - Cầu trí-thức ở
thế-giới, làm cho nước nhà trở nên
mạnh lớn vẻ vang. Rồi thề sao làm vậy, 5
lời thề nầy chính là chí-nguyện, quy-mô
và chánh-sách của vua Minh-trị sửa sang thay
đổi nước Nhựt, trước sau có
chừng 30 năm, là trở nên một quốc-gia
văn-minh, một dân-tộc hùng-cường,
đứng ngang hàng với các nước Âu
Mỹ. Vua Minh-trị là người sáng tạo ra
nước Nhựt mới vậy. * ĐẠI-KHÁI CÔNG CUỘC PHÁ CŨ
ĐỔI MỚI TRONG 30 NĂM Công-cuộc Nhựt-bổn duy-tân
vừa mau chóng mạnh bạo, vừa vĩ-đại
hoàn toàn, y như lời Minh-trị Thiên-hoàng
đă thề với trời đất thần
minh, khi đă dốc ḷng ra tay biến hóa
cải-lương, th́ mỗi việc ǵ cũng
biến hóa cải-lương hết thảy.
Từ nhỏ đến lớn, từ trong ra ngoài,
từ trên xuống dưới, nào là chánh-trị
giáo-dục, nào là văn-hóa vơ-bị, nào là công-thương,
lư-tài, nào là cơ-khí, nghệ-thuật, cho đến
những chuyện y-phục tầm thường,
tập-quán lặt vặt, chẳng sót một
vấn-đề nào hay một phương-diện
nào mà không hóa xưa theo nay, đổi cũ ra
mới. Có thể ví dụ như một cái vườn
có ngàn gốc cây mọt hư khô héo, người
Nhựt là lăo làm vườn, đă đào
từng gốc cây đó liệng đi, mà
trồng cây khác mới lạ tươi tốt
thế vào. Cách ít lâu, cái cảnh nhánh khô lá
rụng, tiều tụy thê luơng của
miếng vườn kia đều biến đi
đâu hết, giờ ta ngó thấy toàn là cây
lạ bông thơm, có muốn t́m lại những
dấu-tích xưa cũng không c̣n nữa.
Thiệt, Nhựt-bổn trừ-cựu canh-tân
tới vậy lận ! Dưới đây có nhiều
việc quan-hệ sẽ nói riêng hẳn từng nơi,
nhưng ngay bây giờ thiết tưởng cũng
nên tóm thâu cái đại-quan cho biết công-cuộc
biến-hóa của nước Nhựt vừa mau
chóng mạnh bạo, vừa vĩ-đại hoàn
toàn ra thế nào ? Sau
khi vua Minh-trị hạ chiếu duy-tân rồi, th́
nước Nhựt cũ bị xô một cái, là
đổ ụp xuống. Về mặt chánh-trị,
ngay năm Minh-trị thứ nhứt, đă băi
Mạc-phủ rồi, c̣n chư-hầu tuy chưa
băi, nhưng chẳng qua họ chỉ c̣n danh-nghĩa
vậy thôi, chớ thực-quyền như trước
không có nữa. Trào-đ́nh vời các chúa-phiên
về kinh làm mấy chức Nghị-định -
議定
(**) và Tham-dự - 参与(**) ; lại cho mỗi đất
phiên lựa chọn đôi ba người có tài
về trào làm Cống-sĩ ( 貢士
- ?) tức là một
chức quan nghị-sự. Những người
nầy hiệp lại thành như một
hội-nghị để pḥ tá nhà vua trong
việc quốc-chánh. Ban đầu, nhà vua làm như
thế, là cách huấn luyện và sắp đặt
cho dân sau nầy có nghị-viện cả dân công
cử như ở các nước. Đến năm
Minh-trị thứ 4 (1871), chế-độ
phong-kiến băi hẳn : Các chúa-phiên (les Daimios(?))
đem hết đất nước của ḿnh
nạp lại trào đ́nh, đổi ra làm
huyện. Tới năm Minh-trị thứ 23 (1890)
mới có Hiến-pháp ban hành và có Chúng-nghị-viện
( 衆議院
- Shugiin)
mở ra từ đó. Về mặt b́nh-dân, xưa kia
họ là hạng người lao-khổ, ở dưới
quí-tộc và sĩ-tộc, tới năm 1867,
lịnh duy-tân tuyên bố hết thảy nhơn-dân
b́nh-đẳng ; ruộng đất để
tự-do, người nông-dân bây giờ làm
chủ ruộng ḿnh, không phải chỉ như
khi xưa họ nai lưng cày cấy làm mọi
cho chúa-phiên, cho quư-tộc. Các cửa biển đều
mở tung ra cho ngoại-nhơn ra vô buôn bán
tự do, Trải 1000 năm, Thiên-hoàng vẫn
đóng đô ở thành Kinh-đô ( 京都
- Kyoto),
giờ vua Minh-Trị dời đô về Đông-kinh
( 東京
- Tokyo)
tức là thành Giang-hộ của
Mạc-phủ Đức-Xuyên trước. Cả âm-lịch và trào-đ́nh
y-quan cũng bỏ cũ theo mới. Tóm lại chỉ trong ít tháng, bao
nhiêu dấu cũ lệ xưa của
Nhựt-bổn biến tiêu đi hết, nhường
chỗ cho những cách tây phép mới thay vô. Sự thay cũ đổi mới
của Nhựt-bổn mau lẹ quá chừng, ai cũng
phải kinh-hoàng sửng-sốt. Mỗi việc nhỏ lớn ǵ cũng
phải tạo lập ra mới mẻ hết
thảy, thế mà mỗi việc nhỏ lớn ǵ
họ cũng tạo lập ra đủ hết.
Không sót cái hay nào của Tây-phương mà
Nhựt không bắt chước ; không có cơ
quan chế độ nào hữu ích của Tây-phương
mà Nhựt không làm theo. Xe lửa, tàu thủy, nhà
băng, xưởng máy, cùng là mọi việc giáo-dục,
công-nghệ, khoa-học v.v… thứ nào
Nhựt-bổn cũng tổ-chức ra có đủ
hết thảy trong một lúc. Ta thử xem một vài con số như
dưới đây, sẽ biết người
Nhựt họ chạy phăng-phăng trên con
đường duy-tân mau lẹ ra thế nào ? Năm 1870, nghĩa là sau khi
quyết chí cải-cách mới có ba năm, th́
đă làm xong con đường xe lửa thứ
nhứt, nối liền Đông-kinh với Hoành-tân,
28 cây số. Con đường nầy họ làm
hết hai năm mới xong, là v́ họ tự làm
lấy, chỉ mua tài-liệu của Âu-châu và mướn
một vài người Âu-châu làm đốc-công
thôi. Đến năm 1880, đường xe
lửa dài được 117 cây số. Qua 1893
được 3.010. Tới 1903 lên 6.800. Giây thép cũng tuôn ra mau như
đường sắt vậy. Liền sau khi
hạ lịnh cải-cách một năm, cuối năm
1868, đă có đường giây thép thứ
nhứt từ Đông-kinh đi ra. Đến 1893,
kéo dài được 13.576 cây số. Việc quốc-pḥng cũng lo
sắp đặt ngay từ ban đầu, học
theo cách luyện-quân của Pháp và Đức. Xưởng
đúc súng đạn mở ra nhiều nơi. Sáu
tháng đầu tiên, c̣n dùng người Âu-châu,
trông coi chỉ vẽ ; từ sáu tháng sau trở
đi th́ nhứt thiết người Nhựt làm
một ḿnh. Về hải-quân cũng vậy, trước
hết họ c̣n mua của Âu-châu một đội
tàu chiến, gồm có 7 chiếc tuần-dương,
7 chiếc thiết-giáp, 17 chiếc khinh-hạm, 30
chiếc ngư-lôi, và lại phái nhiều thanh-niên
nhơn-tài đi qua Âu Mỹ học tập
hải-quân. Không bao lâu, họ tự mở ra trường
luyện-tập lấy và tự mở ra xưởng
đóng tàu trận một ḿnh, không phải
nhờ cậy ǵ Âu Mỹ nữa. Trong nước, từ trên
xuống dưới, khắp chợ tới quê, ai
nấy đều hăng hái về việc
tự-tân tự cường. Các ông chúa-phiên
đă trả đất lại cho trào-đ́nh
rồi th́ xoay ra làm chủ ngân-hàng, chủ xưởng
tàu, chủ nhà máy, c̣n tên tá-điền
lao-khổ của mấy ông lúc trước th́ bây
giờ ra làm thợ máy nọ kia. Về việc kết xă lập
hội để mở mang thương-măi
kỹ-nghệ, người Nhựt cũng làm mau
như bay, như biến. Kể tới năm 1894,
nghĩa là duy-tân chưa đầy 30 năm, trong
xứ đă có : 1.200 công-ty có vốn tới 300
triệu ; 130 nhà băng lớn ; 30 công-ty bảo-kê
sanh-mạng ; 17 công-ty điện-khí . Giữa thời-kỳ duy-tân,
về mặt công-nghệ bằng cơ-khí,
chỉ trong ṿng mươi năm, người
Nhựt mở ra những nhà máy nọ nhà máy kia
đầy dẫy ở các đô-thị. Ngay
hồi năm 1880, nghĩa là mới duy-tân có 14 năm,
đă có 20 nhà máy lớn, dùng tới 20.000
thợ. Nói chi bây giờ công-nghệ cơ-khí
của họ phát-đạt tới cực-điểm,
làm cho Âu Mỹ phải sợ ; những ống khói
nhà máy tua tủa lên trời, riêng một châu-thành
Osaka, ngó như một đám ngọn cỏ đâm
cao lên trên mặt đất vậy. Tàu buôn của họ cũng
mở mang rất sớm : Năm 1890, đă có 855
chiếc tàu buồm và 580 chiếc tàu chạy
bằng máy hơi rồi. Việc canh-nông tấn
tới sửa sang có kết quả lạ lùng :
Từ nghề trồng dâu trồng trà, cho đến
làm ruộng cấy lúa, nhứt thiết đều
kinh-doanh theo cách mới, cho nên huê-lợi thêm ra
rất nhiều. Công-nho trong khoảng 20 năm
đầu, tăng số thâu-nhập lên ba
lần nhiều hơn ; kho bạc mỗi năm thâu
vô tới 580 triệu. Số xuất-cảng cũng
tăng lên bốn lần trong khoảng 12 năm :
Từ 347 triệu hồi năm 1890 mà lên
tới 1.326 triệu trong năm 1902 ; thật cổ
kim đông tây chưa ai có cái kết quả
lạ lùng như thế.
Lúc đầu, Âu-châu thấy
Nhựt-bổn bắt chước họ th́
họ cười thầm và nghĩ cho là vô
hại, bởi vậy họ vẫn kêu là cậu
nhỏ Nhật-bổn (le petit Japon). Nhưng đến
năm 1894, họ thấy cậu học tṛ
của họ th́ phải giựt ḿnh, đổi
ngay cái tư-tưởng khinh-thị ban sơ. Năm
1894, cậu bé tư hon Nhựt-bổn dám đánh ông
khổng-lồ Trung-hoa, chỉ trong mấy
trận, là ông khổng-lồ bị cậu bé con
đánh ngă nằm ngay đơ. Trung-hoa phải
để cho Nhựt chiếm-cứ Triều-tiên
là miếng mồi Nhựt vẫn thèm muốn
từ xưa ; ngoài ra c̣n phải bồi thêm Liêu-đông
nữa. Nhưng liệt-cường Âu-châu ép
Nhựt phải trả Liêu-đông cho Tàu ;
Nhựt đành lấy Đài-loan thôi. Sau Tàu nhường
Liêu-đông cho Nga ; Nga được đất
nầy, trong ḷng hớn hở cho là ḿnh thắng
trận ngoại-giao, không dè v́ đó mà ít lâu
về sau mang lấy một cái thua đại-nhục.
Đến năm 1900, lại có
dịp cho người Tây-phương kính
phục cái giá-trị của Nhựt-bổn hơn
nữa. Năm đó, nước tàu có giặc
Quyền-phỉ (les boxers) nổi lên, chủ ư là
thù nghịch đánh phá người
ngoại-quốc ; có trút ngàn người Âu-châu
bị giặc bao vây ở Bắc-kinh, không
đường tẩu thoát, mà cứu binh chưa
tới, t́nh-thế rất là hiểm-nguy. Trong 8 nước
cùng ra binh để can-thiệp vào cuộc
nội-loạn nầy, đội binh
Nhựt-bổn tức tốc tấn lên
Bắc-kinh đầu hết, giải được
trùng vây, nhờ đó mà những người Âu-châu
mới thoát nạn. Rồi cách 4 năm sau - 1904-1905 -
bỗng dưng như một tiếng sét đánh
rung đất vang trời, cả thế-giới
đều sửng sốt ngẩn ngơ : Cậu
bé Nhựt-bổn dám nhảy lên đấm cú
một ông khổng-lồ khác là Nga-la-tư, lúc
bấy giờ là một nước hùng-cường
đệ nhứt thiên-hạ. Ai không bảo ông
khổng-lồ nầy nhai ngấu Nhựt-bổn
như chơi. Thế mà trong 18(?) tháng, Nga bị
bại trận thảm thê : Trên bộ th́ thua
về tay Năi-Mộc tướng-quân (乃木将軍- Nogi shougun, Général
Nogi), binh Nga không c̣n manh giáp mà về ; dưới
nước th́ thua về tay Đông-Hương
nguyên-soái ( 東郷元師
-
Tougou
Heihachiro), cả đoàn tàu
trận Nga trên ba chục chiếc bị Nhựt
bắn ch́m ở eo biển Đối-Mă. Lần
thứ nhứt trong lịch-sử nhơn-loại,
người da vàng đánh ngă người da
trắng. Chẳng phải riêng một ḿnh người
Nhựt lấy làm khoan khoái vẻ vang, mà cả
đại-lục Á-châu, dân-tộc Hoàng-chủng
cũng có ư vui mừng hỉ hả nữa.
Từ đó, người Tây-phương bắt
đầu để tâm lo nghĩ về “Cái
họa da vàng” (Péril Jaune) mai sau. Từ đó,
bắt đầu sản-xuất cái vấn-đề
rắc rối lo ngại, gọi là Vấn-đề
Thái-b́nh-dương (Question du Pacifique), mà người
Nhựt chính là chủ động ! Một vài việc làm, một vài
con số, như đă lược-thuật trên
đây, đủ bày chứng cớ cho ta thấy
công cuộc duy-tân tự-cường của
Nhựt-bổn chỉ làm trong một
thời-kỳ rất ngắn, và được
thành-công mau lẹ, kết-quả vẻ vang là dường
nào ? Một nước đang cũ
hết sức cũ, yếu hết sức
yếu, bỗng chốc trong ṿng chỉ có 30 năm,
xoay đổi ra mới thiệt là mới,
mạnh thiệt là mạnh, cái kết-quả
lạ lùng đó vẫn biết là trên nhờ có
bực anh-quân thánh-chúa là Minh-trị Thiên-hoàng,
nhưng chính là do nơi cái thông-minh, cái lực-lượng,
cái khí-khái chung cả dân-tộc Nhựt-bổn mà
nên vậy. Viết tới đây, tôi chợt
nhớ lại bài ca “Á-tế-Á” của cụ
Tán-Thuật (2) có đoạn nói về cái thành-tích
Minh-trị duy-tân như vầy : Minh mông một giải(?) Đông-dương, Duy-tân rồi tới năm Giáp-Ngọ
(1894), v́ chuyện Cao-ly mà Nhựt-bổn đánh
Tàu đại-thắng : Năm Giáp-ngọ đùng đùng
sóng gió, Tới trận Nhựt-Nga đại-chiến
hồi 1904-1905, Nhựt cũng toàn thắng : Giáp-th́n trong tháng chạp tây, Cả bộ sử tấn-hóa
tự-cường của Nhựt-bổn, cụ Tán-Thuật
mô tả thâu rút vào trong khuôn khổ mấy
vần thơ khéo lắm. * CÁC NƯỚC ÂU MỸ CÓ CÔNG GIÚP
ĐỠ NHỰT-BỔN DUY-TÂN RA THẾ NÀO Vấn-đề nầy cũng nên
biết, v́ nó có ư nghĩa và có chỗ
quan-hệ lư-thú của nó. Có người yên trí
rằng mấy thế-kỷ trước, người
Âu Mỹ lần ṃ qua Đông-phương là
chỉ có mục-đích “thực-dân lược-địa”
(3), mưu lấy sự tư-lợi mà thôi,
chớ họ có ḷng giúp đỡ cho ai khá lên như
họ bao giờ. Với xứ nào,
họ cũng dùng cách “tiên lễ hậu binh” ;
cho mấy ông thầy tu qua trước rồi
kế đưa binh lính tới sau, kiếm cớ
kia khác choán đất người ta th́ có, khi
nào giúp ai ? Sự yên trí nầy cũng có
một phần phải ở trong, nhưng c̣n
một phần chưa thiệt là phải. Có
xứ họ tới cốt để lược-địa
thực-dân, mà cũng có xứ họ tới
sẵn ḷng giao-hảo thông-thương và pḥ
trợ khai-hóa cho ; ấy là tùy nơi t́nh-thế
và lực-lượng của giống người
trong xứ mà họ để chưn vào.
Tạo-hóa đối với muôn vật, cái ǵ
mọc lên được th́ vun bón thêm cho, cái ǵ
nghiêng ngả th́ đạp xô cho ngă ; ở
giữa loài người mạnh yếu với
nhau cũng có cái lẽ thường như
thế. Dân mạnh tới một xứ yếu,
thấy xứ nầy vua hèn dân ngu, nói phải
chẳng nghe, dạy khôn không hiểu, th́ họ
không chiếm trị c̣n để làm ǵ ? Thứ
quốc-gia dân-tộc thế ấy chẳng
mất vào tay kẻ mạnh nầy cũng mất
vào tay kẻ mạnh khác ; sự suy vong đó
đáng kiếp cho cái xứ có vua hèn dân ngu và
sự xâm-lược cũng là cái quyền
tự-nhiên của giống mạnh. C̣n như tới xứ nào xem ra có
hạng trên trước khá, và dân cứng
cỏi, thông minh, th́ kẻ mạnh kia chẳng
tiếc ǵ mà không vùa giúp cho khá, chỉ vẽ
cho hay, chớ muốn nhai muốn nuốt chưa
chắc đă trôi, chi bằng vun bón pḥ trợ người
ta, cũng là cách kết-giao cầu lợi cho ḿnh
được. Âu Mỹ đối với
Nhựt-bổn trong thế-kỷ vừa qua ở
vào trong cái trường hợp như vậy
đó. Trong cuộc Nhựt-bổn
khai-quốc duy-tân, cố nhiên là Nhựt học
theo bắt chước Âu Mỹ đă đành, nhưng
chính thiệt Âu Mỹ cũng có ḷng lành ư
tốt mà pḥ trợ cho nhiều lắm. Giữa thế-kỷ 19, v́
vấn-đề thông-thương đính ước,
mấy phen hầu gây ra cừu thù đại-biến,
mà rốt lại Nhựt-bổn cũng được
liệt-cường Âu Mỹ ân cần vừa giúp
cho được tỉnh-ngộ duy-tân tới cùng.
Ngay lúc đề-đốc Bá-lư nước
Mỹ đem đoàn tàu chiến qua bắn súng ra
oai, nhưng trong ư vẫn có lượng khoan-thai
tử-tế, chỉ muốn cùng Nhựt-bổn
giao-hảo thông-thương mà thôi ; về sau cơ-nghiệp
vẻ vang mới lạ của Nhựt-bổn
dựng lên, thật là có nguồn suối đi
ra bởi đó. Kế sau đề-đốc Bá-lư,
tới Cáp-lợi-tư qua làm công-sứ Mỹ
ở nước Nhật, ông nầy rơ biết
quan-lại của Mạc-phủ chưa rành
ngoại-giao, nên chi ổng thường lấy chơn-t́nh
thổ-lộ và giảng-giải cho nhà cầm
quyền Nhựt-bổn lúc bấy giờ biết
rơ những cái lợi khai-quốc thông-thương
ra thế nào. Sở dĩ Mạc-phủ quyết
ḷng khai-quốc là nhờ có sự khuyên-bảo
lợi ích của công-sứ Mỹ ban đầu,
thây kệ dân-tâm phản đối xôn xao,
Mạc-phủ cũng cứ khai-quốc. Cáp-lợi-tư
lại khuyên Nhựt-bổn cần nên cấm
tuyệt a phiến, kẻo có hại to cho ṇi-giống
; nhờ vậy mà Nhựt-bổn tránh hẳn
được cái độc a-phiến từ
đó đến giờ. Hồi trong nước nổi lên
phong-trào “Nhương-di” điên cuồng sôi
nổi, xảy ra tới vụ đánh chết viên
thông-ngôn ở dinh công-sứ Mỹ, làm cho công-sứ
các nước phát giận, gởi thơ trách
hỏi chánh-phủ Nhựt-bổn sao không hết
ḷng bảo-hộ ngoại-nhơn. Duy có một ḿnh
Cáp-lợi-tư rơ biết nội t́nh dân-tâm
Nhựt-bổn, và cũng lượng xét
Mạc-phủ có thành tâm khai-quốc lắm, thành
ra chính viên thông-ngôn của ông bị hại v́
tay của bọn thủ-cựu ở Nhựt, mà
ông làm lơ, không trách hỏi phiền hà ǵ.
Rất đỗi công-sứ các nước khác
giận quá, rủ nhau hạ quốc-kỳ
xuống mà bỏ đi Hoành-Tân, không chịu
ở Giang-hộ nữa, vậy mà một ḿnh ông
Cáp-lợi-tư vẫn ở Giang-hộ không nhúc
nhích, lại c̣n v́ Mạc-phũ điều-đ́nh
dùm cho êm vụ bất-b́nh nầy. Trong hồi Nhựt-bổn bắt
đầu khai-quốc, mỗi việc ǵ người
Mỹ cũng lấy ḷng tử tế chỉ
vẽ giúp đỡ cho, có bổ ích cho cuộc
tấn-hóa của nước Nhựt nhiều
lắm. Năm 1859, Nhựt-bổn sai
sứ qua Mỹ để trao đổi tờ
ước đă kư với nhau, chánh-phủ
Mỹ phái tàu trận ra đón rước và
nghị-viện Mỹ bỏ thăm
quyết-nghị lấy lễ quốc-tân
国賓, là
lễ đăi khách chung cả nước mà
tiếp đăi Nhựt-sứ, khiến cho người
Nhựt lấy làm cảm động hết
sức. Cũng nhờ có chuyến đi
sứ nầy mà nhiều người
Nhựt-bổn càng dễ hiểu biết rành
rẽ về những lễ-nghĩa ngoại-giao. Cùng theo đi sứ lúc đó có
hai người chí-sĩ về sau in sâu những
dấu-tích to lớn vẻ vang trong lịch-sử
Nhựt-bổn duy-tân, ấy là Thắng-Lân
Thái-Lang (勝麟太郎
- Katsu Rintarou) và Phước-Trạch Dụ-Cát - 福澤
諭吉- Fukuzawa Ki-ichi). Thắng-lân Thái-lang vốn là người
ăn lộc của Mạc-phủ, mà đến
lúc Minh-trị duy-tân lại sốt sắng hô hào,
có công với đại-nghiệp quốc-gia
nhiều lắm. C̣n Phước-trạch Dụ-cát
th́ qua xem xét văn-hóa Âu Mỹ, rồi về nước
chuyên-tâm vào công việc giáo-dục thanh-niên, rèn
đúc nhơn-tài ; nhiều tay anh-tuấn trong
buổi duy-tân là học-tṛ của ông đào-tạo
ra, chính ông đă mở ra một trường
đại-học rất lớn đến nay
vẫn c̣n gọi là Khánh-ứng đại-học
(慶応大学 Thuở đó người Nhựt
xuất-dương cầu học ở các nước
Âu Mỹ rất nhiều, mà chính người Âu
Mỹ đem văn-nghệ học-thuật
của họ vô truyền-bá cho Nhựt-bổn cũng
chẳng ít ; nhứt là người hai nước
Mỹ và Anh đối với Nhựt-bổn dày
công-lao pḥ trợ hơn hết. Ban đầu khai-quốc, nhờ công
sứ Mỹ là Cáp-lợi-tư mỗi việc bày
lợi tránh hại cho Nhựt, như đă nói sơ
ở trên. Sau tới công-sứ Anh là A-nhĩ-Kha-quật
(阿爾??(**), viết theo sách Nhựt) khuyên bảo chỉ
vẽ cho Nhựt-bổn đúc ra tiền-tệ
mới, khiến cho Nhựt-bổn tránh được
một mối hại to. Nguyên là hồi đó,
chế độ tiền-tệ của Nhựt c̣n
lôi thôi, nên chi vàng bạc trong xứ bị
lọt mất ra nước ngoài rất nhiều
; quốc-dân thấy vậy kinh-hoàng, nhưng không
biết cách nào ngăn cản cho được.
Bọn thủ-cựu càng được trớn
mà oán trách Mạc-phủ về sự hại
mở cửa cho ngoại-nhơn vô thông-thương.
Công-sứ Anh lo dùm cho Nhựt, bèn trung-cáo
Mạc-phủ mau mau đúc ra tiền vàng và in ra
giấy bạc, nhờ đó mà cầm cản
được cái hại lọt vàng ra ngoài. Người
Nhựt ghi nhớ luôn luôn rằng công-đức
nầy của công-sứ Anh cũng có lợi cho
Nhựt như công-đức của công sứ
Mỹ đă khuyên bảo cấm tuyệt a
phiến kia vậy.
Đến cuối năm 1867, Khánh-Hỉ
tướng-quân dâng nạp đại-chánh
về Thiên-hoàng Minh-trị. Chánh-phủ Thiên-hoàng
tư giấy khắp công-sứ các nước
hay rằng những tờ ước do
Mạc-phủ lúc trước đă kư với các
nước, nay vẫn kế-tiếp thi-hành và
việc giao hảo vẫn y như cũ. Có
một bọn chư-hầu không ưng cải-cách,
liền chia trong nước ra làm hai phe : Đông và
Tây, xung đột với nhau. Ấy là
nội-loạn. Trong ṿng ít tháng, binh trào dẹp yên
được loạn ở Quan-đông, Áo-vơ ;
rồi một năm th́ loạn ở Sương-quán
cũng êm. Lúc đó nhơn-tâm chưa trọn ḷng
quy-hướng trào-đ́nh, nghiệp
thống-nhứt chưa được hoàn-thành,
mà ngoại-nhơn đối với chánh-phủ
cũ, tức là Mạc-phủ, xem ra t́nh ư
vẫn c̣n tŕu mến không phai. Nay chánh-phủ
mới bổng chốc nói về việc
kế-tiếp giao-hảo, công-sứ các nước
chợt nghe, dầu muốn không sanh ḷng
nghi-ngại cũng không được. Bởi
vậy các nước c̣n đang dụ-dự
về sự nh́n nhận chánh-phủ mới. Duy có công-sứ Anh đứng ra
nh́n nhận chánh-phủ Thiên-hoàng trước
hết, rồi sau công-sứ các nước
lần lượt nh́n nhận theo, nhờ vậy
mà địa-vị chánh-phủ mới lập ra
đối với ngoại-bang được
danh-nghĩa nhứt định. Công sứ Anh
đối đăi như thế, là v́ ổng
với mấy ông tham-tán của ông ngày thường
kết-giao với đám chí-sĩ Nhựt, rơ
biết nội-t́nh nước Nhựt, nay cho
sự Mạc-phủ trả quyền trào-đ́nh
chính là việc duy-tân cải-cách, chớ không
phải là cách-mạng ǵ mà bảo rằng không
nên nh́n nhận chánh-phủ mới. Nhơn đó
ổng nói dùm với công-sứ liệt-quốc mà
chánh-phủ Thiên-hoàng được nh́n nhận
đều hết vậy. Tóm lại, ban sơ khai-quốc có
t́nh-thân của nước Mỹ, trong lúc duy-tân,
có ḷng tốt của nước Anh, người
Nhựt kể ngoại-bang pḥ-trợ cho họ
khai-hóa tấn-bộ, có hai việc đó là
lớn hơn cả. Là v́ Mỹ-quốc lấy t́nh
thân- thiện mà mở ra kỷ-nguyên mới cho
Nhựt. Anh-quốc th́ lấy đại-nghĩa
mà giúp cho việc chánh của Nhựt-bổn
được dấy lên. * Ngoài ra, c̣n nhờ có hai cái
thế biến cũng làm gốc nguồn cho
cuộc duy-tân của Nhựt nữa.
Một cái thế biến từ trong ra.
Một cái thế biến ở ngoài vào. Ta đă biết rằng khởi
từ năm 1853 trở đi, Nhựt-bổn
đang là một nước thủ cựu đáo
để và đóng cửa tuyệt giao với
ngoại-quốc gần ba trăm năm, vụt
chốc mạnh bạo khai-quốc rồi mau chóng
duy-tân được, là nhờ có một bọn
chí-sĩ từng đọc sách Ḥa-lan, biết
chuyện Âu Mỹ, đứng lên kêu gào thúc
giục mà ra. Ư hẳn có nhiều độc-giả
phải sửng sốt muốn hỏi điều
nầy : Quái lạ ! Từ năm 1854 trở
về trước, Nhựt-bổn vẫn công-nhiên
đóng cửa tuyệt giao, vậy chớ làm sao
có bọn chí-sĩ từng đọc sách Ḥa-lan
biết chuyện Âu Mỹ được ? C̣n như
anh Tàu với nước Nam ḿnh đây, chẳng
hề đóng cửa tuyệt giao lúc nào, thế
sao Tàu với ḿnh không có ai biết chuyện
của Tây-phương được mảy may cóc
rác ǵ, thiệt là khù khờ tức tối quá !
Chính nước Nam ḿnh, hồi đời vua Lê có
lập ra một chỗ riêng gọi là
Phố-hiến (4) cho người Tây-phương
tới cư-ngụ thông-thương tự-do ;
lại sau đến đời Gia-long, đức
thầy Bá-đa-lộc có rước nhiều người
Pháp kỹ-sư và quân-gia tới xây thành,
luyện quân, đóng thuyền, đúc súng cho vua
nhà Nguyễn ; ấy chính là những dịp cho ta
mở mắt ra ngó thấy tài hay của Tây-phương
và có thể học khôn họ được, nhưng
vậy mà chớ hề có ai biết thâu thái
lấy trí-thức Tây-phương một chút,
đáng tiếc biết bao ! Tới nay
Nhựt-bổn hùng-cường vinh-diệu
thế kia, c̣n Tàu với ḿnh yếu-hèn
thấp-thỏi thế nầy là đáng kiếp
lắm.
Phải, tôi cũng suy-nghĩ như thế. Thuở xưa ở Nhựt,
Nho-học và Hán-văn cũng thạnh, cũng tôn
như ở các xứ chung quanh cùng chung một
nguồn văn-hóa với họ, song đám sĩ-phu
học-giả họ không quá cố-chấp
lỳ, tự-cao bậy, hết thảy ai cũng
như ai đâu. Kỳ thiệt, trong đám nhà
nho cố-chấp tự-cao, có nảy ra ít
nhiều người có chí, muốn hiểu
rộng thấy xa, chịu khó xem xét tài khôn
sức mạnh của người ta, chớ không
bo bo ôm chặt lấy những lư thuyết
của Nghiêu-Thuấn Khổng-Mạnh, tưởng
trong trời đất không có ǵ hơn được
nữa. Bởi vậy, giữa đời
Mạc-phủ đóng cửa tuyệt-giao, trừ
ra cho người Ḥa-lan và người
Trung-quốc là được phép ra vô mua bán
tại Tràng-kỳ mà thôi, th́ trong nước
Nhựt đă có ít nhiều nho-sĩ cầu
kỳ ham học, biết cái học-thuật phương-tây
có lắm chỗ hay. Họ bèn rủ nhau đọc
sách Ḥa-lan, để nghiên-cứu về những
môn học luyện binh, đúc súng, chữa
bịnh, cùng là các khoa thiên-văn, bác-học, hóa-học
nữa. Những nhà chấp-chánh có trí
rộng, cũng biết để tâm xem xét Tây-học
; hoặc tự học lấy, hoặc sai người
học rồi thuật lại cho ḿnh nghe. Ví
dụ hồi giữa thế-kỷ 18, có nhà Hán-học
là Thanh-mộc-Văn-tàng - 青木文藏 Ngoài ra, có nhiều nhà văn-học, nhà chánh-trị,
theo mấy thầy-thuốc Ḥa-lan học tập Tây-văn.
Dầu không thông hiểu Tây-văn, nhưng mà
nhờ gần gũi ngoại-nhơn rồi cũng
nghe qua học-thuật và tinh-thế
liệt-quốc, cái hạng sĩ-phu đó
lần hồi nảy ra cũng đông. Ấy là giữa đời
thủ-cựu, trong nước Nhựt đă có
một bọn người tiên-giác, từng nghiên-cứu
học-thuật phương Tây rồi vậy. Tới năm 1853, có đoàn tàu
trận Mỹ-quốc vô cửa Phố-hạ,
cả đám nhà nho thủ-cựu trề môi nhún
mỏ, tỏ ư khinh khi người Mỹ là
mọi rợ, nhưng riêng hạng
thức-giả th́ không nghĩ như thế.
Hạng nầy tuy c̣n số ít mặc ḷng, cũng
mạnh bạo đứng ra chống căi với
tất cả dư-luận sai lầm trong xứ ;
rán sức khuyên can ai nấy chớ có coi thường
Tây-phương là mọi rợ mà nguy. Quốc-dân
hăm he muốn đánh ngoại-nhơn, th́
hạng thức-giả tỏ bày lợi hại,
bảo đừng có chọc ghẹo đánh
lộn với người ta mà thua chết. Dư-luận
xướng lên chủ-nghĩa “Nhương-di”
um sùm ; hạng thức-giả cố giảng
giải cái chỗ không thế nào “nhương”
được đâu, tất phải
giao-thiệp đón rước người ta,
để lượm lặt lấy những
chỗ hay của họ mà bổ vào chỗ
dở của ḿnh mới đặng. Rồi ít năm sau, vụt một
cái thời-thế nhơn-tâm xoay-đổi như
chớp nháng, người Nhựt thay đổi tư-tưởng,
mạnh bạo duy-tân, đó là nhờ có số
ít thức-giả mở trí tỉnh hồn trước
mà khuyên lơn d́u dắt hết thảy
quốc-dân vậy. Cái thế biến từ trong
biến ra có nguồn gốc mối manh như
vậy đó. Người Ḥa-lan, trong những
thuở có một ḿnh họ được
Mạc-phủ rộng dung cho ra vô buôn bán, họ
hay thân-cận với đám học-thức
hữu-chí ở Nhựt-bổn và có công chỉ
dẫn cho đám nầy về học-thuật Tây-phương
nhiều lắm. Đến năm 1854 trở đi,
Nhựt-bổn khai-quốc với Mỹ rồi, các
nhà truyền-đạo và các nhà bác-học
Mỹ bắt đầu sang Nhựt, phần
nhiều có ḷng sốt sắng rộng răi, giao
tiếp với người Nhựt một cách ôn
ḥa niềm nở, khiến cho bọn chí-sĩ
trong nước lân la thân cận mà được
mở mang về trí-thức mới rất
nhiều. Hạng chí-sĩ về sau ra hoạt-động
chánh-trị và có công-lao lớn trong cuộc duy-tân,
được phong Bá-tước, như Đại-ôi
大隈(Okuma), như Phó-đảo
(福島-
Fukushima), như Hậu-đằng (後藤
- Goto), đều nhờ có sự tác-thành ban đầu
của người Mỹ nhiều lắm. Ngoài ra, các ông cố-đạo
Thiên-chúa tầm-ngầm giúp ích cho cuộc
tấn-hóa của Nhựt-bổn cũng nhiều.
Ông th́ chỉ vẽ khoa-học, ông th́ giúp đỡ
giáo-dục nọ kia, đều là làm ích dạy
khôn cho người Nhựt ; biết bao thanh-niên
hữu-chí, nhờ có công ơn khai đạo
thế ấy mà hóa ra bực anh-tài. Lại cũng
v́ đó mà thành ra người Nhựt không c̣n
nghi ngờ thù ghét đạo Thiên-chúa như xưa
nữa, rồi trở nên có tục tốt
tự-do tín-ngưỡng và ít lâu nhảy vọt
lên trên đài duy-tân. Ấy là cái thế biến ở
ngoài biến vào, làm gốc nguồn mối manh
cho lịch-sử nước Nhựt mới
vậy.
(1)
Nhiếp-quan 攝官- ??) hay Quan-bạch -
官白 - ??), đều
là chức-phẩm rất cao của trào-đ́nh
phong cho vị tướng-quân Mạc-phủ
(2)
Nguyễn-Thuật, làm chức Tán-tương
quân-vụ ở đời vua Hàm-Nghi, sau bỏ nước
đi qua Nhựt-bổn rồi về ẩn-cư
bên Tàu ; tạ thế chừng ngoài mười năm
nay. Cụ chính là nhạc-phụ của Tôn-Thất-Thuyết.
(3)
Thực-dân lược-địa (殖民掠地-?)) :
Dời dân ḿnh đi ở nơi khác kiếm
ăn và cướp lấy đất nước
của người ta.
(4)
Phố-hiến lúc đó là tỉnh Hưng-yên
ở Bắc-hà bây giờ, nhiều người các
nước Ḥa-lan, Y-pha-nho, Bồ-đào-nha,
Nhựt-bổn v.v… tới lập tiệm bán buôn
đông đảo vui vẻ. Sự phiền-ba
của Phố-hiến chỉ thua có thành Thăng-long
tức là kinh-đô Hà-nội mà thôi, bởi
vậy thuở ấy ta có câu phong-dao :”Thứ
nhứt kinh-kỳ, thứ nh́ Phố-hiến”.
(5) Đến giờ con cháu họ
Đức-xuyên vẫn được trào-đ́nh
trọng-đăi, quốc-dân kính-tôn. Con của Khánh-Hỉ
là Đức-Xuyên Gia-Đạt (徳川家達
- Tokugawa Iesato ) được
lập tước-công, hiện có một lúc làm
Nghị-trưởng viện Quư tộc.
|
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương V : Công Phu Giáo Hóa ]