|
CHƯƠNG
THỨ TÁM
LỤC-QUÂN,
HẢI-QUÂN Đă
nói toàn cuộc “Nhựt-bổn duy-tân” có
thể gọi tắt là một cuộc tóm-thâu
bắt-chước hết thảy những cái ǵ
là mới, là hay, là tài, là lạ của Tây-phương.
Từ chánh-trị, giáo-dục, vơ-bị,
khoa-học cho tới kỹ-nghệ, công-thương,
cơ-khí, mỹ-thuật, không có thứ nào mà
Nhựt không đạp đổ cái cũ, cái
dở của ḿnh, để đổi lấy cái
hay, cái mới của người. Trên đường
văn-minh tấn-hóa, họ như người khách
lữ-hành có việc gấp, mà đi thâu đêm
suốt sáng, rảo cẳng rút đường,
hầu tới mục-đích địa-điểm
cho mau, kẻo sợ chậm-trễ hư việc. Bởi vậy, bắt đầu
từ 1868 trở đi, lối 30 năm sau,
Nhựt-bổn nghiễm-nhiên trở nên một nước
văn-minh phú-cường, trừ cái
quốc-hồn ra th́ bao nhiêu dấu cũ vết
xưa ba chục năm về trước không c̣n
thấy tăm-hơi đâu hết. Mấy tiếng súng của Tây-phương
thức-tỉnh và thúc-hối Nhựt-bổn mau
quá ! Đă đọc một chương
ở trên xa kia, độc-giả tất đă
biết rơ cái cớ khiến cho Nhựt-bổn văn-minh
tự-cường mau, chính là do mấy tiếng súng
của Tây-phương hâm-he, bắt-buộc. Trước
là mấy tiếng súng của đoàn tàu Mỹ
bắn vào Phố-hạ ; sau là mấy tiếng súng
của hạm đội 4 nước Anh, Lan,
Mỹ, Pháp, hiệp nhau bắn vào Lộc-nhi-đảo
và Hạ-quan. Những tiếng súng đó chỉ
tỏ cho người Nhựt thấy cái mănh-lực
của Tây-phương cao hơn ḿnh muôn Thế là Tây-phương
lấy vơ-lực khiêu-khích bắt-buộc
Nhựt-bổn phải tỉnh giấc mộng xưa
mà đi vào con đường mới, hèn chi trong
cuộc duy-tân, chánh-phủ Nhật-bổn lấy
việc sửa-sang binh-bị, sắp-đặt
quốc-pḥng là việc quan-hệ cấp-bách
thứ nhứt cũng phải. Phải xem qua cái lịch-tŕnh
của lục-quân và hải-quân nước
Nhựt, mới dễ thấy cuộc duy-tân
của họ bày tỏ ra sự thành-công
kết-quả đă mau-chóng lại tốt-đẹp
vẻ-vang đến thế nào ? CÓ NGƯỜI SỚM
BIẾT NGHIÊN-CỨU BINH-PHÁP THÁI-TÂY Ai cũng biết Lục-quân
Nhựt-bổn nổi tiếng khắp thiên-hạ
là thứ quân có kỷ-luật nghiêm-minh và dơng-mănh
liều chết lạ thường. Họ ngang hàng
với lục-quân của Pháp và của Đức
chớ không phải vừa. Nhiều người
Âu-châu đi xem trận Nhật-Nga chiến-tranh
1904-1905, đều phải công nhận. Có lạ ǵ dân-tộc
Nhựt-bổn sẵn có tánh-cách thượng-vơ
từ trong trứng đẻ ra, trải qua con
đường lịch-sử dằng-dặc hai
ngàn mấy trăm năm, nào là v́ lẽ
phấn-đấu sanh-tồn mà phải đánh
giẹp những bộ-lạc ở xung-quanh
họ, nào là trong nước có những việc
nội-loạn chinh-chiến luôn luôn, thành ra
từ xưa, người Nhựt đă từng
biết sửa-sang vơ-bị, rèn-tập lục-quân
là thế nào rồi. Một dân-tộc có “Vơ-sĩ-đạo
- 武士道” là quốc-túy,
quốc-hồn, tự nhiên ai cũng biết
trọng vơ, ai cũng là tên lính được
cả. Có thể nói Nhựt-bổn từ khi có
lịch-sử cho đến lúc được
chừng 2300 năm, không có mấy trương mà
không biên chép việc vơ. Chỉ duy đến đời
cận kim, họ Đức-xuyên làm tướng-quân,
ngoài th́ đóng cửa tuyệt-giao, trong th́ thái-b́nh
vô sự, ṛng ră hai trăm mấy chục năm
như thế, việc Măi tới năm 1853, một
đoàn tàu Mỹ kéo tới Phố-hạ bắn
súng rầm-rầm, bấy giờ trong nước
Nhựt, trên dưới mới rúng động
hoảng-hồn, coi như tiếng sét bể núi
nghiêng trời th́nh ĺnh giáng-hạ ! Cái hồn
Đại-ḥa dân-tộc là cái hồn thượng-vơ
trọng binh, hai trăm mấy chục năm
bị uất kết trầm-kha, nay vùng tỉnh
dậy, rồi những người mang cái
hồn ấy ùn-ùn phấn-phát giống như cái
thế núi lở nước tràn, không có thứ
ǵ ngăn-cản được. Bấy giờ,
trên th́ mấy nhà cầm-quyền Mạc-phủ,
dưới th́ hạng chí-sĩ thức-thời,
đều xôn-xao nh́n biết sức mạnh ghê-gớm
của Tây-phương, và nhứt định làm
sao ḿnh cũng phải có quân lính tập rèn như
người Tây, súng đạn dữ-dằn như
người Tây, th́ mới sanh-tồn đặng. Song, y như một đoạn
trên xa kia tôi đă nói, nước Nhựt có phước,
cho nên đối với văn-hóa Tây-phương,
trong dân-gian thường sản-sanh ra những
hạng chí-sĩ có cái óc tỉnh-ngộ
thời-thế sớm hơn nhà cầm-quyền,
sớm hơn cả dân-chúng, dầu về phương-diện
nào cũng thế. Chính hạng ấy tỉnh
ngủ dậy trước, rồi đánh
thức nhà cầm-quyền và dân chúng dậy
theo. Như đời Đức-xuyên
cấm dân nghiên-cứu Tây-học, c̣n việc mua
bán th́ chỉ cho phép một ḿnh người Ḥa-lan
là người Tây-phương được ra vô
buôn bán ở đất Tràng-kỳ mà thôi, nhưng
vậy mà trong đám sĩ-dân Nhựt-bổn
vẫn có năm mười học-giả
thầm lén xem xét văn-minh Tây-phương. Ngay
đến quân-học Tây-phương đời
ấy cũng đă truyền qua Nhựt-bổn chút
ít được rồi. Ta coi một chứng
cớ nầy đủ biết. Năm 1840, tức là trước
khi có đoàn tàu Mỹ vô bắn súng thị-oai
ở cửa Phố-hạ 13 năm, nước
Nhựt đă có người dân ở Tràng-kỳ
tên là Cao-đảo
Tứ-lang (高島四郎 - Takashima
Shirou) lần ṃ
chơi bời với người Lan, xem kiểu súng
Lan, tự-nhiên trong óc nảy ra kiến-thức
về thời thế, về sức mạnh
của quân lính súng đạn
Tây-phương. Rồi đó Cao-đảo
chuyên tâm giảng-cứu binh-học Tây-phương
ngay chẳng dụ-dự chút nào ! Không bù với
sĩ-dân nước ḿnh, từ hồi cuối
thế-kỷ 18, có đức thầy Bá-đa-lộc
đem mấy chục tay kỹ-sư quân-gia Pháp
qua đóng tàu đúc súng dùm cho vua Gia-long, có khí-giới
tân-kỳ đó ngài mới thắng nổi Tây-sơn,
ấy chính là dịp đáng cho ta có một hai Cao-đảo
Tứ-lang sớm hơn Nhựt-bổn 50 năm
rồi chớ ! Vậy mà chẳng hề có
một nho-gia hay một vơ-sĩ nào của ḿnh
thấy cái sức mạnh đó mà biết
tỉnh-ngộ bắt chước ! Cao-đảo
học rồi dâng thơ lên Mạc-phủ, đại-khái
nói rằng : “Thanh-quốc
-
青国
(tức là nước Tàu lúc đó) bị Âu-binh
đánh phá tan-tành, “là v́ binh-khí của Thanh dùng
theo kiểu xưa, quân lính tập-rèn lối cũ,
“không có thế nào chống lại được
với binh-khí quân-sĩ lối mới đời
nay. “Nếu như nước Nhựt ta không mau
mau sửa-sang binh-khí, quân-đội và
“chiến-pháp, th́ việc quốc-pḥng của ta
không có thế nào khỏi nguy được “đâu.
Vậy xin tướng-quân nên mau thi-hành cuộc
đại-cải-cách về việc “binh cơ vơ-bị
mới đặng v.v…” Vừa nói vừa làm, Cao-đảo lại cậy người Ḥa-lan mua
một ít súng đạn ở nước Ḥa-lan
đem qua, rồi tự ḿnh rèn-tập vơ-nghệ
tân-thời cho một số em cháu học-tṛ. Khi
tập rèn thành-thuộc đâu đó rồi, chính
Cao-đảo
dẫn toán lính mới, bồng súng mới đó,
lên tới Giang-hộ, để phô bày trước
mắt, hầu chỉ tỏ cho Mạc-phủ
thấy việc nghiên-cứu Tây-học là
việc cần-kíp dường nào. Tuy nhà
cầm-quyền chần-chờ nghi-ngại, chưa
chịu nghe lời Cao-đảo mặc ḷng, chớ Cao-đảo
cũng đă làm cho Mạc-phủ hơi
tỉnh-ngộ về thế-lực Tây-phương
nhiều ít. Trở về quê-hương,
Cao-đảo mở trường dạy học
luyện binh đúc súng kiểu Tây. Có nhiều chí-sĩ
thức-thời vẫn dốc ḷng khâm-phục
binh-pháp Tây-phương, giờ kéo tới Tràng-kỳ
thờ kính Cao-đảo
làm thầy càng ngày càng đông. Cao-đảo
cùng người học tṛ giỏi nhứt là Giang-xuyên
Thái-lang
-
江川太郎 -
Egawa Tarou, mở xưởng
đúc súng đạn riêng mà tự thảo ra
trận-đồ pḥng-giữ đất nước.
Tia sáng “binh-pháp duy-tân” của Nhựt-bổn,
chính là từ trong nhà Cao-đảo
mà bật lên chiếu rọi trước hết
vậy. Tội-nghiệp Cao-đảo
về sau bị nhà cầm-quyền sanh-nghi là có
chi lạ sao đó, nên chi cuối năm 1842, Cao-đảo
bị bắt hạ ngục rồi chết luôn
trong ngục. Tới đây, tôi
động ḷng vụt nhớ lại
cảnh-ngộ của ông Nguyễn-trường-Tộ
ḿnh ở đời Tự-đức cũng dâng
thơ yêu-cầu cải-cách về
học-thuật vơ-bị, không được trào-đ́nh
biết nghe, lại c̣n sanh nghi rồi giam-cầm
ông ta chết khô trong ngục. Thân-thế Trường-Tộ
giống như Cao-đảo ; chỉ khác nhau một chỗ, là Cao-đảo có thiệt-nghiệm ít nhiều, c̣n
Trường-Tộ chỉ cao-đàm trên giấy.
Thành ra, cùng là v́ việc quốc-gia
thời-thế mà chết khô như nhau, nhưng mà
một người có lưu lại ảnh-hưởng
với hậu-nhơn, một người th́ vô-bổ
cho quốc-sự ! Mặc ḷng Cao-đảo
gặp bước chẳng may cho đời ḿnh,
nhưng mà công-nghiệp khởi-sáng của Cao-đảo
vẫn sống đời đời. Người
Nhựt đều nói :
“Ông tổ Tây-phương binh-pháp ở nước
Nhựt, chính là Cao-đảo
!”. Người nọ mang
họa mà chết, tức thời có người
kia nối chí mà dấy lên ngay, không sợ ǵ
hết. Nội cái tinh-thần vô-úy của chí-sĩ
Nhựt như thế, đủ khiến cho
Nhựt ít năm sau trở nên văn-minh hùng-cường
tới bao nhiêu lần cũng đáng. Nối chí Cao-đảo,
chính là Giang-xuyên ;
học-tṛ ra tay làm cái việc của thầy
học để lại. Giang-xuyên
cứ mở trường dạy học-tṛ
tập binh đúc súng và lo việc quốc-pḥng
như Cao-đảo trước. Một mặt Giang-xuyên
khéo tỏ bày thời-thế, mà được
mấy cụ Các-lăo
-
閣老
của Mạc-phủ tin dùng. Mạc-phủ giao
cho Giang-xuyên xây hai
pháo-đài ở Hạ-điền -
下田 -
Shimoda
và Phẩm-xuyên -
品川 - Shinagawa, làm như
hai bức thành đá, hộ-vệ
Mạc-phủ. Đến năm 1855, nghĩa là
sau khi đoàn tàu Mỹ qua Phố-hạ 2 năm,
th́ Giang-xuyên mang bịnh qua đời. Người Nhựt đều
nói : nhờ
nơi Cao-đảo,
Giang-xuyên, hai
thầy tṛ sốt-sắng gan-dạ, mới
mở ra đầu mối sửa-sang binh-pháp tân-thời
cho Mạc-phủ, mà cũng chính là hai ông
tổ-sư của Lục-quân Nhựt-bổn ngày
nay”. ĐẠI-KHÁI LAI-LỊCH
CỦA LỤC-QUÂN NHỰT TỪ MẠC-PHỦ
ĐẾN ĐỜI MINH-TRỊ Sau đó, cả về
hải-quân và lục-quân, Mạc-phủ đều
lo sửa-sang lại, và mua sắm binh-khí tân-thời
để cho việc quốc-pḥng được
vững-vàng. Mạc-phủ lại tự mở ra
xưởng chế-tạo súng đạn nữa.
Các phiên-bang cũng bắt-chước ; mỗi
phiên đều mở ra xưởng súng đạn
riêng của ḿnh. Tự nhiên ban đầu súng
đạn ấy chế-tạo ra chưa tốt,
nhưng mà nhờ có chỗ “lo thân và dè người”
nó xui-khiến, thúc-giục,
thành ra chỉ trong ít năm, công-cuộc
chế-tạo binh-khí lối mới ở nước
Nhựt được tấn-bộ mau
lắm. Đến hồi tàu
chiến của Anh bắn vào đảo
Lộc-nhi - 鹿児島 - Kagoshima
(1863)
và năm sau hạm đội
4 nước Anh, Pháp, Mỹ, Lan, kéo tới
bắn vào Hạ-quan (1864), nước Nhựt thêm
cơ-hội tỉnh-ngộ ra rằng chỉ có súng
bền đạn tốt cũng chưa đủ
cho ḿnh cự ai hay là đánh người
được, tất nhiên phải khéo luyện
tập binh-đội nữa mới xong. Rồi năm 1862,
Mạc-phủ theo kiểu Tây mà lập ra
được 3 binh đội : Bộ-binh 8.306 người
; kỵ-binh 1.068 người ; pháo-binh giă-chiến
(dùng đánh nhau ngoài đồng) 800 người
; pháo-binh yếu-tắc
(giữ
chỗ hiểm-yếu, ví dụ như Tới năm 1867,
Mạc-phủ mướn mấy vị vơ-quan Pháp
sắp-đặt và thao-luyện lục-quân cho ḿnh.
Các phiên-bang cũng đua nhau sửa-sang vơ-bị
lối mới ; có điều là mỗi phiên
tự ư bắt-chước cách-thức của
một nước Âu-châu, chớ không nhứt
định một thứ. Nhưng cũng năm
1867 đó, Mạc-phủ đem quyền-chánh dâng
trả Thiên-hoàng, rồi sang năm sau là
Minh-trị nguyên-niên, bắt đầu mở ra
lịch-sử duy-tân cho nước Nhựt. Một hai năm
đầu Minh-trị, tuy là chánh-quyền đă
trả lại nhà vua, nhưng mà binh-quyền th́
chưa, v́ c̣n ở trong tay các phiên, mỗi phiên,
có quân-đội riêng : phiên theo kiểu Anh, phiên
theo lối Đức. Minh-trị Thiên-hoàng sai Sơn-huyện Hữu-bằng
- 山県有朋 -
Yamagata Aritomo
(37 năm sau làm đại-tướng
trong trận đánh Nga)
và Tây-hương
Tông-đạo - 西郷従道
- Saigou Judou
cùng đi qua các nước Âu-châu, xem xét
binh-chế. Tháng 8 năm Minh-trị thứ 3, hai ông
nầy về nước, gánh vác công việc
sửa-sang quân-chánh. Bấy giờ
Nhựt-bổn mới nhứt-định lựa
chọn theo kiểu Pháp-quốc mà tổ-chức
lục-quân của ḿnh, các phiên cũng lần
lần trả lại đất cát cùng
binh-quyền cho nhà vua thống-nhứt. Lúc nầy
trở đi, lục-quân Nhựt-bổn mới
thiệt là bước vào thời-kỳ tổ
chức theo lối mới, huấn-luyện theo
lối mới. Ta nghĩ coi quân-đội
một nước trải mấy ngàn năm quen
đánh nhau bằng giáo mác gươm đao,
vả lại kỷ-luật không rành, giáo-dục
ít có ; nay bỗng xóa bỏ hết lớp cũ,
để tạo-lập ra lớp mới tinh,
lẽ tự-nhiên công-cuộc cải-cách nầy
vừa vất-vả khó-khăn, nhưng thật là
công-tŕnh vĩ-đại lắm vậy. Nhứt
là luyện-tập lục-quân kiểu mới mà
sau 37 năm nữa đă đem ra thử sức Tôi tiếc không
thể nói kỹ về công-cuộc cải-cách
binh-pháp của đời Minh-trị từ ly
từ chút, là v́ giới-hạn giấy mực
hẹp-ḥi, mà dầu có nói kỹ chắc cũng
là dư, v́ giống người chúng ta vốn không
thượng-vơ, không hào binh, tưởng nếu
nói nhiều về công-cuộc tổ-chức
nầy có lẽ lắm người đọc
sanh chán ! Chúng ta chỉ nên
biết rằng công-cuộc cải-cách binh bị
của Nhựt trong hồi duy-tân đă làm
một cách thấu-triệt, hoàn-toàn, không có
một điều hay nào về binh-cơ vơ-bị
của Âu Mỹ mà Nhựt-bổn không thâu-góp
bắt-chước. Từ việc giáo-dục tướng-sĩ,
chế-tạo khí-giới, cho đến việc xây-dựng
pháo-đài, sắp-đặt binh-chế, nhứt
nhứt đều lần hồi sửa-sang,
kỳ cho tới có lục-quân hẳn-ḥi như
Âu Mỹ. Mười mấy năm
đầu, Nhựt-bổn c̣n phải mướn
vơ-quan Âu Mỹ qua rèn-tập, và sở đúc súng
đạn cũng mướn các nhà chuyên-môn
ngoại-quốc chỉ vẽ trông nom. Nhưng
từ năm Minh-trị 15 trở đi, th́
mọi việc luyện binh đúc súng ǵ, người
Nhựt cũng tự làm lấy hết, không
phải mượn tay người
ngoại-quốc nào nữa. Là v́ có những
thanh-niên đi du-học Âu Mỹ trở về,
đă rút nghề của Âu Mỹ mà
tự-chủ công-việc luyện binh đúc súng
được rồi. Học như họ
vậy mới thiệt là học cứu nước.
Muốn biết
hải-quân lục-quân đời Minh-trị càng
ngày càng tấn-tới sửa-sang thế nào, ta
cứ xem nội số tiền công-nho gia-tăng cũng
biết : mấy năm đầu chi-phí 7
triệu viên có, 8 triệu viên có ; 20 năm sau lên
13, 14 triệu, cho tới khoảng Minh-trị 35,
36, th́ số đó lên từ 50 đến 80
triệu, 100 triệu ngoài. Rơ ràng Nhựt-bổn
chịu tốn-hao sắp-đặt quân-đội
khí giới lắm vậy. Một việc có
tổ-chức mà không có thực-nghiệm, th́ cũng
c̣n là việc thiếu sót, và không
thực-nghiệm th́ làm sao biết chỗ dở
hay ? Hải-quân, lục-quân nước Nhựt
được kiêm cả hai cái lợi đó. Trong khi quân-đội
hải lục cải-cách theo mới, có mấy
dịp tốt để cho tướng-sĩ
Nhựt-bổn thử sức của họ
rất hay. Trước hết,
là hồi ban đầu Mạc-phủ mới dâng
trả quyền-chánh nhà vua, c̣n có số ít chư-hầu
bất phục, rủ nhau nổi loạn, ép nài Đức-xuyên
Khánh-hỷ phải trở về Giang-hộ làm
tướng-quân lại. Dịp nầy, quân lính
nhà vua trên bộ dưới thủy phải ra tay
đánh giẹp hơn một năm mới êm. Tuy
là nội-loạn, nhưng tướng-sĩ có cơ-hội
thao-luyện chiến-pháp lối mới của
họ bắt đầu học được
bấy lâu. Năm Minh-trị
thứ 10, có loạn ở miệt Tây-nam do Tây-hương
Long-thạnh - 西郷
隆盛 xướng lên, lại có dịp cho tướng-sĩ
nhà vua thử sức ḿnh một lúc nữa. Tới năm Giáp-ngọ
(1894), Nhựt-bổn khởi sự đem binh ra
thử sức ở ngoài, ấy là lúc
chiếm-cứ Đài-loan, đánh nhau với quân
nhà Thanh của Trung-quốc. Trận nầy cả
hai quân hải lục đánh đâu thắng
đó, làm binh Thanh ngó thấy bóng cờ của
Nhựt đă chạy te. Rồi đến năm
Canh-tí
1900, Trung-quốc có loạn Quyền-phỉ
- 挙?, Nhựt-bổn
đem quân sang cùng 7 nước Âu Mỹ, gọi
là “Bát-quốc liên-quân, 八国連軍
” vào
Bắc-kinh giẹp loạn ấy ; cũng là
dịp cho binh Nhựt thực-nghiệm tài-lực
của ḿnh, mà cũng là dịp cho Tây-phương
ngó thấy phải lấy làm sửng-sốt
ngẩn-ngơ
:
không hiểu sao Nhựt-bổn luyện quân
lối mới quanh-quẩn có ba chục năm, mà
đă có được những quân-đội
thật là dơng-mănh thiện-chiến và có
kỷ-luật nghiêm-minh, không thua Tây-phương
chút nào. Sau mấy kỳ
thực-nghiệm trên đây, tuy là binh Nhựt
được Tây-phương khen-ngợi và
đánh ăn Trung-quốc, nhưng tướng-sĩ
Nhựt không hề tự-kiêu, cũng không cho là
tự-măn tự-túc. Trái lại, dầu đánh
thắng được khen mặc ḷng, họ
vẫn xem-xét lại ḿnh c̣n thiếu-sót những
chỗ nào, rồi cố gắng được
cải-lương tấn-bộ hơn nhiều
nữa. Các thanh-niên tướng-sĩ xét ḿnh chưa
đủ học-thuật làm lo, cho nên sau lúc
chiến-sự xong rồi, ai nấy trở về
càng gia-công Lúc nầy những
súng đạn cùng các thứ quân-khí của
Nhựt tự chế-tạo ra đă
tấn-tới lắm. Nhứt là có kiểu súng
bộ-binh của một vị thanh-niên đoàn-trưởng
là Thôn-điền - 村田 -
Murata
(major Murata Tsuneyoshi) sáng-chế ra, đạn bắn đi rất
xa. Vậy là vừa mới bắt-chước người
ta, mà họ đă nảy ra cái óc tự chế
binh-khí rồi ; tôi tưởng thiên-hạ không có
dân nào đi học người mà mau
tự-lập ḿnh đến thế. Quân-khí đă
tốt, tướng-sĩ lại đêm ngày
luyện-tập ; một nước có lục-quân
như vậy, không mạnh sao được ?
Lục-quân đó, đến sau năm 1904-1905,
Nhựt-bổn đem qua Măn-châu đánh tan quân lính
của đại-cường-quốc Nga-la-tư,
làm cho thế-giới kinh-hoàng, rồi từ đó
Nhựt-bổn được leo lên ngang hàng
với liệt-cường Âu Mỹ. Phàm là dân Nhựt,
ai cũng phải có nghĩa-vụ ra lính. Đến
tuổi ra đứng dưới lá cờ nhà
binh, th́ ai cũng b́nh-đẳng như ai, không phân
sang hèn giàu nghèo ǵ cả. Về niên-hạn ra lính,
gần đây có sửa đổi thế nào, tôi
chưa được biết, chớ theo như
binh-chế đời Minh-trị hồi mới
duy-tân cho đến hồi đánh thắng Nga, th́
nhứt-thiết nam-tử đúng 20 tuổi đến
40 tuổi, đều có nghĩa-vụ
binh-dịch. Có 4 hạng lính ; Thường-bị
常備 ,
Hậu-bị
後備 ,
Bổ-sung
補充 ,
Quốc-dân
国 . Hạng lính Thường-bị
chia ra làm hiện-dịch và dự-bị 2 kỳ.
Lính hiện-dịch th́ lục-quân 3 năm,
hải-quân 4 năm ; lính dự-bị th́
lục-quân 4 năm 4 tháng, hải-quân 3 năm. Ngạch lính
Hậu-bị, kỳ hạn ra lính định là
5 năm ; măn hạn th́ tên ḿnh thoát khỏi
sổ lính. Hể con trai đến
tuổi thành-đinh tức là đúng 20 tuổi,
buộc phải ra lính hiện-dịch ngay, để
chịu sự rèn-tập nghề binh. Duy có
học-tṛ th́ được rộng kỳ cho
học Lính Hậu-bị cũng
như lính Dự-bị nói trên đây, là
những người b́nh-thời vẫn có
nghề-nghiệp làm ăn, không buộc vô ở
trong trại, nhưng tên họ có ghi trong sổ quân,
khi có chiến-sự th́ nhà-nước kêu ra
đi lính. Những người
có vóc-dạc kém sút, và sức-khỏe không
hạp cách quân-nhơn, th́ đăng vào
ngạch lính Bổ-sung. Đến như
ngạch lính gọi là Quốc-dân-binh, ấy là
những người ra lính đă măn hạn
rồi, nhưng xin đăng lại để
phục-dịch quốc-gia măi măi. Riêng với
học-sanh, nhà-nước cho rộng-răi hơn :
học-sanh cao-đẳng chỉ phải ra lính
hiện-dịch có 2
năm ; học-sanh đại-học th́ 1 năm.
C̣n trung-học trở xuống vẫn phải ra lính
hiện-dịch 3 năm như thường.
Những học-tṛ bực cao, sau khi làm tṛn
phận-sự đi lính rồi, t́nh-nguyện sung
vào quân-đội th́ gọi là “chí-nguyện-binh
志願兵 -
Shiganhei ”, tức như
ngạch lính gọi là les volontaires ở Pháp-quốc
vậy. Kể đến
hồi đánh Nga, khắp cả nước
Nhựt, số dân có thể ra làm nghĩa-vụ
binh-dịch, lối chừng trên 700 muôn người. Hiện-thời,
Lục-quân Nhựt-bổn có cả thảy 17 sư-đoàn
- 師団 -
Shidan, ấy là kể số lính tại-ngũ trong nước
và trấn-thủ ở Măn-châu, Cao-ly, chớ c̣n
những ngạch lính Hậu-bị, Dự-bị
và Bổ-sung có thiệt số bao nhiêu, không ai
biết được. Ví dụ một mai đánh
nhau với nước nào, mà chánh-phủ hạ
lịnh động-viên (動員令
douin-rei, Mobilisation), thiệt số tất cả
ngạch lính bao nhiêu, chánh-phủ giữ bí-mật
lắm. Chiếu
theo Hiến-pháp Nhựt-bổn, toàn-quốc
Hải-quân, Lục-quân và Không-quân, đều
ở dưới quyền tiết-chế của
đức Thiên-hoàng. Chính ngài là Hải, Lục,
Không- Chính ngài lựa
chọn giao phó các tướng-tá thay mặt ngài
ra trận cầm quân, gọi là
Tổng-chỉ-huy 総指揮 -
soushiki
hay là Tổng-tư-lịnh 総司令
sousirei. Tức như hồi có chiến-sự với
Nga, đức Thiên-hoàng phong Đại-sơn-nham
大山巖 - Ooyama
Iwao
làm Lục-quân Tổng-tư-lịnh, đánh
bộ-binh Nga ở Măn-châu, và phong Đông-hương
B́nh-bát-lang
東郷平八郎 -
Tougou Heihachirou
làm Hải-quân Tổng-tư-lịnh, đánh
thủy-binh chiến-hạm Nga ở cửa
Lữ-thuận và Nhựt-bổn-hải. Ra
trận, hết thảy tướng-sĩ ba-quân
đều phải vâng theo phương-lược
của quan Tổng-tư-lịnh, mà chính quan
Tổng-tư-lịnh lại phải vâng theo
huấn-lịnh từ Đại-bổn-dinh
truyền cho. Trận đánh Nga, hai ông Đại-sơn và Đông-hương
vốn là trung-tướng mà Thiên-hoàng
Minh-trị lựa chọn cất nhắc lên ngôi
đại-tướng, và đem cả
vận-mạng Lục-quân, Hải-quân nước
Nhựt phú-thác cho, là v́ ngài biết rơ tài-năng
thao-lược của hai ông, nên mới
trọng-dụng ủy-thác như vậy. Quả
thiệt, vua Minh-trị không lầm chút nào :
bộ binh Nga đại bại v́ tay Đại-sơn
cũng như thủy-binh Nga tan-nát v́ tay Đông-hương,
một ông vua tri nhơn thiện dụng, có
lợi cho quốc-gia là thế đó. NHỰT-BỔN
VỐN LÀ MỘT NƯỚC HẢI-QUÂN LÂU ĐỜI Cứ lấy địa-thế
mà nói, Nhựt-bổn cũng như Anh-quốc, là
nước cù-lao rời rạc, biển rộng
bao quanh, vậy th́ khỏi nói chắc ai cũng
đoán biết rằng v́ lẽ sanh-tồn
hộ-thân,tự nhiên dân-tộc
họ từ xưa vốn giỏi nghề đi
biển và cũng từng có tư-tưởng
về hải-quân rồi, chớ không phải
đợi đến ngày nay. Thiệt vậy, ngày
xưa vua chúa Nhựt-bổn thường dùng
chiến thuyền kéo đi chinh-phục những cù-lao
kế cận. Dân-chúng trong nước phần
nhiều ở ven biển phải sanh-nhai đánh cá,
tự nhiên nghề hàng-hải họ đă
gan-dạ rành-rẽ lắm. Lại nhiều thương-gia
chuyên nghề buôn bán từ biển nầy qua
biển kia, cho nên họ biết đóng ra
những chiếc ghe lớn, để đi
biển rộng, trương buồm thuận gió,
dám vượt đại-hải mà qua buôn bán
với Nam-dương quần-đảo và nước
Nam ḿnh rất sớm. Ai thuộc sử ta,
chắc c̣n nhớ có một đoạn về
đời Hậu-Lê chép rằng có một
chiếc ghe buôn Nhựt-bổn bị băo lớn
đánh trôi vào địa-phận nước ta,
người sống mà ghe hư hết, không
thể dùng được nữa. Quan ta v́ nghĩa
bang giao, muốn đóng cho bọn dân Nhựt
nầy một chiếc ghe lớn để họ
về nước, nhưng đóng cả năm không
xong, rồi sau đành thú thiệt cái dở
của ḿnh không đóng ghe đi biển
được. Họ phải chờ đợi
trút năm nữa mới có ghe khác ghé vào rước
đi. Nước Nam ta, mặt ngoài ngó ra
biển, bờ biển từ bắc
vô nam,
dài mấy muôn dặm đường, mà không
đóng nổi một chiếc ghe đi biển
lớn, thảm chưa ? Ta coi đại-khái
một vài việc như trên, đủ rơ
Nhựt-bổn cổ-thời đă biết dùng
chiến-thuyền và đă có gan hàng-hải ra
thế nào rồi. Trong lịch-sử
họ thường có nhiều trận
hải-chiến lớn lao. Hoặc trong nước
đánh lẫn nhau, như lúc hai vơ-gia Nguyên-lại-Triều
源頼朝
và B́nh-thanh-Thịnh
平清盛 giao-chiến
trên biển, họ Nguyên
dùng một đội chiến-thuyền tới trên
840 chiếc, để quyết thư hùng ; ấy
là trận hải-chiến lớn nhứt của
Nhựt-bổn cổ-thời. Hoặc
hải-chiến với ngoài, là hồi cuối
thế-kỷ 13,
binh Nguyên nước Tàu tức là binh Mông-cổ
đă từng gầm thét bao lâu ở đại-lục
Âu-Á, đem trên 10 muôn chiến-thuyền qua đánh
Nhựt-bổn, chiếc nào cũng to lớn ḱnh
càng, Chẳng những
họ không bị ngoại-xâm, mà chính họ
lại có cái chí ngoại-xâm người ta. Lúc Phong-thần Tú-cát 豊臣秀吉
- Toyotomi Hideyoshi
làm tướng-quân,
từng đem chiến-thuyền sang đánh
Triều-tiên ; rồi sau đó có người dơng-cảm,
bày mưu lập kế, muốn cướp
lấy Đài-loan và quần-đảo
Lữ-tống (tức là Phi-luật-Tân) ngay
từ bấy giờ. Đến đời
Đức-xuyên 徳川 -
Tokugawa làm tướng-quân, thi-hành chánh-sách khóa
cửa luôn 200 năm ngoài. Trong thời-kỳ
dằng-dặc đó, quốc-gia vô-sự, thiên-hạ
thái-b́nh, không ai để ư tới việc
hải-pḥng, lại có một lúc, tướng-quân
Đức-xuyên cấm dân trong nước đóng
những ghe lớn để đi biển xa, v́
sợ người ta giao-thông với
ngoại-quốc. Măi sau cuối đời
Mạc-phủ Đức-xuyên,
ghe tàu Âu Mỹ qua Thái-b́nh-dương nhiều,
bọn chí-sĩ thức-thời ở nước
Nhựt mới xướng lên vấn-đề
hải-pḥng, làm cho trên dưới xao-xuyến.
Tới năm 1853, có đoàn tàu Mỹ của
đề-đốc Bá-lư kéo qua, rồi
Mạc-phủ được thơ của
quốc-vương Ḥa-lan khuyên bảo
Nhựt-bổn thế nào cũng phải mau mau
sửa-sang hải-quân, theo lối Âu Mỹ,
bấy giờ Mạc-phủ mới
tỉnh-ngộ, quyết ư mở-mang hải-quân.
Đầu hết (1855), mở ra trường
dạy hải-quân ở Tràng-kỳ, dùng người
Lan làm thầy. Rồi sau mở ra xưởng
đóng tàu và cơ sở đúc sắt ở
Giang-hộ nữa. Việc hải-quân giáo-dục
khởi thủy từ đây. Ngoài ra hai chiếc tàu
chiến của chánh-phủ Ḥa-lan và nữ-hoàng
Anh-quốc gởi qua tặng cho, Mạc-phủ
lại xuất tiền mướn các nước
Tây-phương đóng nhiều chiếc Trong khoảng có 5 năm
mà Mạc-phủ tổ-chức ra được
hải-quân hạm-đội và mở-mang
hải-quân giáo-dục như thế, tuy chưa ra
ǵ, nhưng kể cũng là sốt-sắng
mau-lẹ quá. Bấy giờ các phiên-bang cũng
bắt-chước, hoặc phái người đi
cầu học hải-quân ở Âu Mỹ, hoặc
mua sắm chiến-hạm tân-thời, phiên th́
một vài chiếc, phiên th́ mươi lăm
chiếc ; hiệp cọng lại số
chiến-hạm của Mạc-phủ (44 chiếc)
cùng các phiên-bang, lúc nầy Nhựt-bổn đă
có trút trăm chiếc tàu binh chớ không
phải ít. Đến lúc
Minh-trị duy-tân th́ bao nhiêu chiếc tàu trận
đó đều thống-thuộc về tay trung-ương
chánh-phủ hết. Ta nên biết tàu
trận của Mạc-phủ và phiên-bang, hầu
hết là thứ tàu nhỏ ; sau Minh-trị Thiên-hoàng
thâu về, mới thiệt là ra sức
khuếch-trương cho Nhựt-bổn có
hải-quân thiệt lớn, chiến-hạm
thiệt hùng, v́ ngài rơ biết rằng :
“Việc sắp-đặt hải-quân là
việc rất gấp của nước Nhựt,
nước Nhựt tất phải dựng lên cái
cơ-sở hải-quân cho thiệt đúng
mới được, ”.
Hải-quân Nhựt-bổn bước vào con
đường phấn-khởi từ đó. Trước hết
mở trường Hải-quân học-hiệu
ở Đông-kinh, kén chọn thanh-niên tuấn-tú
trong nước để học-tập
thủy-chiến. Vệ hải-quân, Nhựt-bổn ṛng mướn người
Anh làm thầy huấn-luyện ; học-sanh
tới kỳ thực-nghiệm, tàu trận nước
ḿnh không chứa hết, th́ nhà-nước cũng
gởi họ sang mấy chiếc tàu trận
của Anh mà tập-rèn công việc trong tàu và
nghiên-cứu về cơ-khí. Một mặt
tạo-lập ra mấy xưởng tự đóng
lấy tàu binh ; chỉnh đốn nhứt là xưởng
ở Hoành-tu-hạ - 横須賀 -
Yokosuka
.
Năm Minh-trị thứ 6 khởi công đóng
lấy hai chiếc tàu, 1540 tấn và 897
tấn, đến năm thứ tám hạ
thủy. Lúc đầu c̣n mướn kỹ-sư
chuyên-môn ở bên Tây sang làm đốc-công ; nhưng
từ Minh-trị thứ 9 trở đi,
Nhựt-bổn đă có những tay chuyên-môn
đóng lấy được rồi, chẳng
cần phải người ngoại-bang giúp
sức. Tuy vậy vua
Minh-trị muốn cho nước ḿnh mau có
hạm-đội lớn, nên chi mỗi năm
đều xuất công-nho ra mướn xưởng
đóng tàu ở Anh, ở Đức, ở Pháp,
ở Mỹ, đóng những chiếc
chiến-hạm lớn. Chính ngài mỗi năm
tự giảm số tiền chi-tiêu trong
nội-cung lấy 30 muôn viên để bỏ vào
khoản chế-tạo quân-hạm. Quốc-dân
thấy vậy cảm-động, nhiều người
quyên giúp tiền muôn bạc triệu để
cho nhà-nước đóng tàu. Bởi vậy đến
năm Minh-trị 16, Nhựt-bổn đă có
một đội chiến-hạm đủ các
hạng tuần-dương, thiết-giáp, ngư-lôi,
thủy-lôi vân vân … cộng tới một trăm
mấy chục chiếc. Trong những lúc
số chiến-hạm mỗi ngày một tăng-gia,
th́ các pháo-đài và quân-cảng trong nước
cũng lần-lượt hoàn-thành. Cho tới súng
đạn lớn nhỏ, người Nhựt
đă tự chế ra rất là tinh-xảo.
Nhứt thiết những việc ǵ quan-hệ
về hải-quân, giờ cũng có trường
giáo-dục huấn-luyện hết thảy. Năm Minh-trị 27
(tức năm Giáp-ngọ, 1894), v́ việc
Triều-tiên mà Nhựt-bổn đem hải-quân
khai-chiến với Trung-quốc. Bao nhiêu năm
Nhựt-bổn kinh-doanh hải-quân, trận
Trung-Nhựt giao chiến nầy có dịp cho
Nhựt đọ tài thử sức coi hải-quân
ḿnh kết-quả ra thế nào. Nhựt chỉ
đem ra có 27 chiếc tàu, đánh hạm-đội
tư-hon của nhà Thanh trận nào cũng thua ;
Nhựt bắt được của Thanh 17
chiếc. Trận nầy
Nhựt-bổn đại-thắng, chẳng
những khiến cho thế-giới phải kính-phục,
mà chính Nhựt-bổn cũng tự biết
hải-quân ḿnh cần phải mở mang nhiều
nữa mới đủ. Từ đó
Nhựt lại lo đóng thêm nhiều tàu mới,
chế-tạo ra những kiểu súng mới, và
ngày đêm thao-luyện hải-quân, cho nên đến
đầu năm 1905 mới đánh phá tan-tành
Luôn dịp, ta nên
biết trong khi chánh-phủ Minh-trị lo
khuếch-trương hải-quân th́ nhơn-dân
Nhựt-bổn đua nhau chế-tạo thương-thuyền.
Cũng trong cái thời-gian như hải-quân, bóng
cờ thương-thuyền của
Nhựt-bổn bay phất-phới khắp cả năm
châu sáu biển. Cái giống Đại-ḥa
sẵn có nghề-nghiệp tài-năng đi
biển từ xưa, ngày nay trên mặt biển
không chịu thua ai, nghĩ cũng xứng đáng
lắm vậy. Chỉ lạ một điều là
về hải-nghiệp cũng như các phương-diện
học-thuật khác, họ đổi cũ thay
mới, mở-mang tấn-tới quá mau, ai cũng
kinh-dị bái-phục là phải lắm.
KHÍ-KHÁI VÀ VƠ-CÔNG
CỦA TÊN LÍNH NHỰT Quân-đội nước
Nhựt, hải vậy mà lục cũng vậy,
bỏ cũ theo mới trong ṿng 30 năm, đă
thu được kết-quả tốt-đẹp
rực-rỡ, nổi oai-danh lẫm-liệt
vẻ-vang, ta nên biết một phần lớn là
do nơi tinh-thần thượng-vơ của dân-tộc
Nhựt-bổn sẵn có lâu đời mà ra. Từ xưa, họ
có tinh-thần thượng-vơ, đến đỗi
kết-tụ thành như một tín-ngưỡng,
một luân-lư, một quốc-hồn, ai nấy
đua nhau ǵn-giữ trau-dồi, lấy đó làm
mực thước xử thế lập thân, và
tự nhận cái nghĩa-vụ “cứu dân báo
quốc” là nghĩa-vụ ḿnh, làm được
nghĩa-vụ ấy là sự vinh-diệu đệ
nhứt. Chính là “Vơ-sĩ-đạo”. Ở chương
đầu hết, tôi đă có một đoạn
nói về lai-lịch và tôn-chỉ của Vơ-sĩ-đạo
rồi, khỏi cần nhắc lại nữa.
Đây, nhơn dịp nói về cuộc cải-cách
quân-đội Nhựt trong hồi duy-tân, nên tôi
muốn tom-góp lược-thuật một vài
chuyện khí-khái cương-dơng của nhà vơ-sĩ
Nhựt, tên lính Nhựt, hay nói chung là người
dân nước Nhựt. Ta sẽ thấy rằng vơ-sự
của Nhựt ngày nay tuy là đổi cách khác h́nh,
chớ cái thể-chất của nó là tánh khí-khái
cương-dơng th́ vẫn là từ cái nguồn Vơ-sĩ-đạo
đời xưa dồi-dào lai-láng mà phát ra
vậy. Vơ-sĩ Nhựt có
cái đặc-biệt, là nhiều người có
phong-thể nho-nhă ung-dung, mà trong cái phong-thể
đó vẫn không mất khí-khái cương-dơng. Thiệt, vơ-sĩ
họ xưa nay không phải chỉ ṛng chuộng
sự giỏi nghề mạnh sức mà thôi,
hầu hết kiêm học cả văn, cho nên có
hạng vơ-gia mà giỏi văn-học, hay thơ
ca, không phải là ít. Ai nấy đều có ḷng
nhân-ái nghĩa-hiệp, tánh ư một mực khiêm-nhường,
rất trọng danh-dự. Ngày xưa vơ-sĩ ra
trận gặp kẻ đối-địch
với ḿnh, hai bên cùng đem tên họ và quê-hương
ra tỏ cho nhau biết, rồi bấy giờ
mới nghiêm-chỉnh oai-dung, lấy nghề vơ ra
tranh cao hạ với nhau. Khi đă phân cao hạ
th́ kẻ thắng không bao giờ làm nhục bên
thua, hành xác kẻ chết. Họ cho là cái lễ
giao-chiến phải vậy mới đúng. Đến
sự đánh chùng giết lén, th́ vơ-sĩ
lấy làm xấu hổ, không thèm làm, dầu
được thắng trận thành-công ǵ đi
nữa cũng vậy. Đă có một câu
chuyện hồi giữa thế-kỷ 11, đến
nay người Nhựt c̣n truyền làm giai
thoại. Nguyên-nghĩa-Gia
- 源義家 cầm binh đi đánh Áo-châu, th́nh ĺnh giữa đường bắt gặp
tướng giặc là An-bồi Trịnh-nhiệm - 安部貞任
- Abe
Sadatou liền phóng
ngựa rượt theo, toan bắn một mũi tên
cho tướng giặc chết tốt. Song trước
khi bắn, họ Nguyên
nghĩ ra một bài ca, rồi hát lớn tiếng
để ngơ ư cho tướng giặc biết
rằng ḿnh sắp bắn đây. An-bồi Trịnh-nhiệm nghe ca, kềm ngựa
quay đầu ngó lại, rồi ứng-khẩu
đọc một bài ca để đối đáp,
trong bài ca bày tỏ nông-nổi của ḿnh
giữ thành cực-khổ bấy lâu. Nghĩa-gia
nghe bắt mủi ḷng, lập tức thu cây tên
cất vào trong bao, không nỡ nào bắn cho đành,
để mặc cho Trịnh-nhiệm
chạy trốn. Một vơ-sĩ chơn-chánh,
chẳng thèm đánh chùng giết lén người
ta, và có phong-thể nho-nhă tới như vậy
đó. Đời thượng-cổ,
Thần-công hoàng-hậu 神功皇后
đem binh đánh Hàn, có lịnh truyền cho tướng-sĩ
: “Kẻ đă đầu hàng chớ có giết
; kẻ đă bị vít, chớ làm nặng thêm, 降?殺,
傷?使重(**)”. Chắc câu cổ-huấn đó, vơ-sĩ
Nhựt vâng giữ đời đời, nên chi
ta thấy trong trận Nhựt Nga chiến-tranh ;
bữa nọ trước cửa Lữ-thuận,
một chiếc chiến-hạm Nga bị bắn
ch́m, tướng-sĩ Nga trôi nổi lúp-ngúp trên
mặt biển, quan tư-lịnh ở
chiến-hạm Nhựt là trung-tướng Thượng-thôn
-
上村 ngó thấy, liền hô binh-sĩ của ḿnh mà nói
: “Giờ họ là người bị nạn
chết trôi, chớ không phải là kẻ thù
nữa, ta phải hết ḷng cứu-vớt cho mau
!”. Tức thời binh Nhựt thả xuồng bơi
lại cứu-vớt, được tướng-sĩ
Nga trên 300 người khỏi chết. Tướng-sĩ
Nga cảm-động quá, khen-phục binh Nhựt
có lượng bác-ái, chớ kẻ khác th́
mặc-kệ chết ch́m, dễ chịu cứu
vớt chưa ! Một đặc-tánh
của vơ-sĩ Nhựt là có máu công-phẫn
lạ lùng. Trời ơi ! Hễ khi họ
thấy một chuyện ǵ thiệt-tḥi
nhục-nhă cho quốc-gia chủng-tộc họ,
th́ máu công-phẫn của họ sôi lên sục
sục, không có cái sức mạnh nào làm cho
nguội lạnh đi được. Nhứt là
họ tự nghĩ ḿnh đây là vơ-sĩ
vẫn có nghĩa-vụ xông-pha khói lửa, da
ngựa bọc thây, để hộ-vệ ṇi-giống
nước non, mà nay có chuyện tổn-hại
bất-b́nh cho ṇi-giống nước-non, th́ ḿnh
làm sao chịu nổi ! Bộ ḿnh đây là giá áo
túi cơm, vô tâm vô dụng sao ? Nếu ḿnh không
lo báo-phục, không rửa sạch chỗ
bất-b́nh ấy đi, chẳng hóa ra ḿnh hư-sanh
vô-dụng lắm ; vậy dầu sống hay
chết, mất hay c̣n, tất nhiên ḿnh phải có
một phen quyết-đấu mới được.
Ḷng công-phẫn đó chẳng phải riêng
của một vài cá- Hồi năm 1894
(tức năm Minh-trị thứ 27), v́ vụ
can-thiệp nội-chánh nước Cao-ly, mà
Nhựt cử binh đánh nhau với Tàu. Chỉ
giao-phong có mấy trận, cả binh lục và
binh thủy của nhà Thanh đều đại-bại
; nhà Thanh phải lật đật xin đ́nh
chiến giảng ḥa. Qua năm sau (1895), Lư-hồng-Chương
李鴻章 - Ri
Koushou
phụng mạng vua Thanh (lúc nầy là vua
Quang-Tự 光緒)
phong làm toàn-quyền
đại-sứ, sang tới đất Mă-quan 馬關 nước Nhựt,
để cùng toàn-quyền Nhựt là Y-đằng
Bác-văn 伊藤 博文
kư tờ ḥa-ước. Phàm nước thua
trận, bao giờ chẳng phải chịu
thiệt-tḥi, cũng như nước thắng
trận bao giờ lại không đ̣i ăn
miếng sướng ? Theo ḥa-ước Mă-quan 6
khoản, có một khoản Tàu phải nhường
đất bán-đảo Liêu-đông 遼
東
lại cho Nhựt, cùng 2 đảo Đài-loan 台湾
,
Bành-hồ
澎湖
nữa. Ḥa-ước
nầy vừa mới kư tên đóng dấu
được 6 ngày, th́ Nga lấy oai-thế ḿnh
khuyên Nhựt trả Liêu-đông cho Tàu, đừng
lấy. Hoàng-đế Ni-cô-la thứ nh́ (Tsar
Nicolas II) nước Nga gởi điện-văn
qua Minh-trị Thiên-hoàng ; đại-ư nói Nga
thấy trong ḥa-ước Mă-quan có khoản
Nhựt đ̣i nhượng Liêu-đông, cốt
để có chỗ ḍm ngó oai hiếp Bắc-kinh
rất tiện, như vậy e có hại cho
cuộc ḥa-b́nh lâu dài ở Đông-phương,
nên Nga lấy t́nh thân-ái, xin khuyên Nhựt chớ
lấy Liêu-đông v.v… Tiếng nói là khuyên,
chớ kỳ thiệt là Nga ép Nhựt không
được lấy, v́ lúc bấy giờ Nga là
nước lớn, oai to thế mạnh lắm,
Nhựt phải xét ḿnh mà kiêng nể ngay.
Huống chi ở trong vụ đó lại có nước
Đức nước Pháp, tán-thành đồng ư
với Nga nữa, thành ra thế-lực 3 nước
dồn ép Nhựt ta phải nhả Liêu-đông
trả Tàu. Vụ nầy làm cho
nhơn-tâm ở Nhựt sôi-nổi tức-tối
lạ thường. Bọn vơ-nhơn đều
nghiến răng trợn mắt, đấm
ngực dậm chưn, tỏ ḷng phẫn-khích
đối với danh-dự quốc-gia và hết
sức oán-hận anh Nga lấy cường-oai
can-thiệp, làm cho Nhựt-bổn hụt mất
một cái lợi-quyền chính bởi bọn
họ là vơ-nhơn đă xông-pha khói lửa
mới có. Ḷng phẫn-khích bày tỏ ra ở ngôn-ngữ
hành-động hằng ngày : nào là nhiếc Nga
ngang-tàng, chê bai chánh-phủ ḿnh nhút-nhát, cái giọng đó thấy đầy trên báo-chương,
chẳng bữa nào không ; nào là ŕnh đón
kiều-dân Nga mà ẩu-đả hay ám-sát,
cốt làm sao cho sanh cuộc chiến-tranh hai nước
mới thôi. Tuy những
chuyện ngôn-ngữ bạo-động nầy không
phải “tác-giả” đều là vơ-nhơn, nhưng
mà chính là ảnh-hưởng của vơ-nhơn và
chính vơ-nhơn xúi ngầm. Chánh-phủ Nhựt e
khiêu-khích sanh biến với Nga, nên phải ra tay
đàn-áp, v́ chơn-t́nh lúc nầy Nhựt chưa
có đủ cái thực-lực để
chống-chọi với Nga đâu được.
Nhiều vơ-nhơn phẫn-khích mặc ḷng,
chớ cũng tự lượng sức ḿnh như
thế. Song, họ coi mối thù lớn như
trời biển, trước sau thế nào cũng
có một phen đánh Nga rửa thù mới xong. Một vị lăo-tướng
ở Nhựt bây giờ là Đại-đảo
Kiện-nhứt 大島健一
- Ooshima Kenichi
mới đây thuật chuyện lại rằng cùng
lớp mang gươm vác súng với ông ta hồi
đó, nghe cái tin tổ-quốc bị 3 nước
kia can-thiệp mà phải trả Liêu-đông, th́
ai nấy tức-giận dầy gan ói mật. Chính ông ta cũng v́
tức-giận quá mà phát ra thơ cảm-khái, có
câu : 遺恨十年磨一剣 流星光底逸長蛇 Di-hận
thập niên ma nhứt kiếm, Lưu-tinh
quang để dật tràng-xà. Hai câu thơ của
Đại-đảo Kiện-nhứt có thể
đại-biểu chung cả tấm ḷng công-phẫn
báo-cừu của tướng-sĩ
Nhựt-bổn ở đời bấy giờ.
Từ tướng-soái đến sĩ-tốt, ai Mà quả nhiên như
câu thơ sấm của Đại-đảo
Kiện-nhứt ở trên đây : tướng-sĩ
Nhựt-bổn luyện nghề tập trận,
nếm mật nằm gai trong ṿng 10 năm, từ
1895 đến 1905 là họ đủ
thực-lực và có cơ-hội đánh mọp
binh Nga ở đồng-bằng cũng như
ở trên mặt biển, trả được cái
thù thị-oai bắt trả Liêu-đông năm xưa.
Chính Đại-đảo
Kiện-nhứt cũng là một viên tướng
đánh Nga hồi 1905 ; mà trước khi 10 năm
ông ta quyết mài một lưỡi gươm ṛng-ră
10 năm cho thiệt bén, để nữa chém
đầu người Nga cho đă-nư giận,
thế là đúng kỳ và như nguyện đó
vậy. Không ngờ cái khẩu-khí anh-hùng linh
đến như thế. Ta coi vơ-sĩ
Nhựt giàu ḷng công-phẫn đồng-cừu, có
cái kết-quả vẻ-vang là đem
tổ-quốc họ đặt lên ngang hàng
liệt-cường thế-giới, v́ sự
thiệt Nhựt-bổn chiếm được
địa-vị ấy, chính là sau trận
thắng Nga mà đi. Có trận Nhựt
Nga, Tây-phương mới bừng mắt ngó
thấy tướng-sĩ Nhựt-bổn có
sức chiến-đấu lạ thường, không
sợ hiểm nguy, không kể tánh-mạng, không nài
đau-đớn. Tấm ḷng họ ái-quốc
nồng-nàn, mà không bộc-lộ ra bên ngoài có
một vẻ ǵ là hầm-hừ, nóng-nảy ; trái
lại, họ ái-quốc một cách b́nh-tịnh,
thâm-trầm, đă đem thân hứa cho nhà-nước
th́ họ thái nhiên sấn-sổ vào mọi
cảnh nguy-hiểm, gian-nan ; trái tim họ đối
với nước cứng như sắt đá, không
có sức nào làm tan-ră đổi dời đi
được. Đầu năm
1904, hồi Nhựt-Nga rục-rịch
khai-chiến, dư-luận Âu-châu đều tin
chắc thế nào Nhựt cũng phải thua, bất quá Nhật
chỉ giao-phong với Nga một vài trận, là
đủ thấy nhức-nhối mềm xương,
không chịu nổi đâu. Trừ ra có mấy
vị quân-quan Âu-châu dự vào (Bát-quốc liên-quân)
đánh giặc Quyền-phỉ ở nước
Tàu hồi năm 1900, nhơn đó mà được
chứng-kiến cách hành-quân của
Nhựt-bổn, th́ mới tin rằng chưa
chắc nga thắng nổi Nhựt mà có thắng
cũng là trần-ai khổ-sở, chớ không
dễ ǵ.
Đến khi tuyên-chiến
rồi, ngay mấy phát súng đầu-tiên mà
đi, binh Nga thấy cái sức chiến-đấu
của binh Nhựt mà kinh-hoàng sửng-sốt.
Thứ binh ǵ mà đánh đâu cũng lăn nhào
vô trong ṿng khói lửa, thị cái chết như
không. Trên bộ đă vậy, dưới
thủy cũng chẳng khác ǵ : hễ gặp tàu
trận bên giặc là họ sấn tới mà
đánh, c̣n có một tên quân một viên đạn
là c̣n đánh, chớ không chịu lui trước
bao giờ. Rất đỗi là cửa biển
Lữ-thuận 旅順
(Port
- Arthur) mà họ muốn lấy sức người
để bít lại, thật vơ-sĩ họ can-dơng
đến thế là cùng ! Làm cách nào mà bít
được cửa biển ? Nguyên là hạm-đội
Thái-b́nh-dương của Nga đóng ở
Lữ-thuận, sau mấy trận tḥ ra đánh
nhau với hải-quân Nhựt bị thất
lợi, bèn trốn núp ở trong cửa biển
không dám ló ra nữa. Hải-quân Tổng-tư-lịnh
Nhựt là Đông-hương
đại-tướng 東郷大将
liền nghĩ ra cách “bít cửa”
Lữ-thuận, nếu thành-công th́ nhốt
cả hạm-đội Nga nằm cứng trong
cửa, không có ngơ ra ; bằng không vậy th́ cũng
là cách chọc cho tàu Nga phải ra ngoài biển khơi
để mà đánh. Hải-quân Nhựt
mua rất nhiều tàu đ̣ cũ, để dùng
vào việc bít cửa. Mỗi chiếc tàu đều
chở cốt-ḿn và năm bảy viên tướng-sĩ
để chỉ-huy chiếc tàu, rồi th́
cả đoàn cùng nhắm cửa Lữ-thuận
mà chạy thẳng vào. Nếu pháo-đài của
Nga ngó thấy mà bắn ch́m càng tốt, không th́
mỗi chiếc tàu cũng tự châm lửa vào
cốt-ḿn cho phát nổ lên, để tàu ch́m
xuống nằm ngổn-ngang một đống
ở ngay cửa biển, làm mắc nghẹt
đường lối ra vào của hạm-đội
Nga. Cuộc bít-cửa
như thế, Nhựt-bổn làm tới năm
bảy lần, chớ không phải một.
Mỗi lần bảy tám chiếc tàu đi
tự-tử cách nầy, Hải-quân Tư-lịnh-bộ
phải cần mấy chục viên tướng-sĩ
dẫn đi ; mà tướng-sĩ dẫn đi
như thế cũng là đi tự-tử,
chớ trăm phần không có lấy một
phần may sống sót, lội về bổn
trận được. Thế mà lần nào cũng
vậy, vừa có một tiếng hô của Tư-lịnh-bộ,
tức thời có cả ngàn người trong
hải-quân dành nhau biên tên vào sổ ứng nghĩa
liều ḿnh, đến đỗi Tư-lịnh-bộ
phải dùng cách bắt thăm, ai trúng th́ đi.
Những người bắt thăm trật,
rầu buồn tức tối lắm. Nói chuyện bít-cửa,
không thế nào không nhắc tới Quảng-lại
Vơ-phu 廣頼武夫 . Quảng-lại
Vơ-phu, chức Hải-quân trung-tá, làm trưởng-quan
chiếc tàu thủy-lôi (torpilleur) hiệu là
Triều-nhựt 朝日 đă mấy
phen có công đánh thắng hạm-đội Nga
ở trước Lữ-thuận rồi. Sau đó
trút tháng, hạm-đội Nga nằm lỳ trong
cửa không thấy tḥ ra. Quảng-lại
hâm-hở đánh giặc mà không được
đánh, tức quá, bèn cùng 70 tử-sĩ,
dẫn năm chiếc tàu cũ, xông-pha vào mũi
đạn của pháo-đài Nga, để toan
lấp cửa Lữ-thuận. Song lần nầy
không thành-công. Cách một tháng sau,
Quảng-lại
dẫn 4 chiếc tàu đ̣ cũ khác, đi bít
cửa nữa. Trong 4 chiếc tàu, Quảng-lại
tự cầm đầu chiếc tên là Phước-tỉnh
; và một người bạn là Sam-giă-tôn
杉野孫làm phó. Khi đoàn tàu chạy gần tới
cửa Lữ-thuận, Quảng-lại
bảo Sam-giă
xuống dưới bụng tàu sắp-đặt
cốt-ḿn, sửa-soạn việc tự bắn
cho tàu ch́m, c̣n ḿnh th́ ở trên coi chỉ-huy
chiếc tàu chạy phăng-phăng vô trong
cửa. Th́nh ĺnh bị một viên đạn
thần-công của Nga bắn tới, trúng
giữa bụng tàu, thành ra cốt-ḿn chưa
đốt đă nổ,
Sam-giă chết
tươi. Tàu gần ch́m, Quảng-lại
cùng bọn lính xuống thuyền nhỏ bơi
đi. Chừng ngó lại không thấy bạn Sam-giă
ở đâu, Quảng-lại biểu tốp lính
bơi về trước, rồi ḿnh tự quay
lại leo lên chiếc tàu đang ch́m kia mà t́m kiếm Sam-giă. Lúc bấy giờ trong chiếc tàu đă
bị nước ngập tới từng trên
rồi, mà Quảng-lại
chạy từ mũi xuống lái 3 lần, cũng
không t́m thấy bạn, lúc ấy mới chịu
xuống thuyền bơi về. Bơi chưa
được bao xa, bỗng một viên đạn
Nga bay tới, trúng ngay giữa đầu Quảng-lại,
làm cho tan-nát thân-thể. Tin buồn đưa
về Đông-kinh, trong trào ngoài quận, trên vua dưới
dân, ai cũng thương-tiếc kính-phục ; v́
Quảng-lại v́
nước quyên-sanh, nặng t́nh với bạn mà
chết như thế, nên cả nước
Nhựt đều tôn là “Quân-thần”,
lại làm lễ chiêu-hồn rất lớn. Lúc sắp đi bít
cửa lần thứ hai, Quảng-lại
cầm bút đề một bài thơ ở trên tàu
Triều-nhựt như vầy : 一死心賢 再期?效 含笑上船 Thất
sanh báo quốc, Nhứt
tử tâm kiên Tái
kỳ thành hiệu Hàm
tiếu thượng thuyền. Ư nói ḿnh là đời
thằng nam-tử, thân-h́nh 7 thước, đă
hứa đem ra báo bổ quốc-gia, th́ một cái
chết đă nhứt-định trong ḷng rồi
; lần nầy là lần thứ hai ḿnh đi làm
việc bít cửa, mong sao được thành-công,
th́ ḿnh chết cũng vui. Bây giờ ta tươi
cười bước lên tàu để đi. Ta xem mấy câu thơ
trên đó, đủ thấy một người
vơ-sĩ Nhựt khảng-khái quyết-tử
hết sức ! Cái gương
quyết-tử của Quảng-lại
Vơ-phu, có vô số người sau noi theo. Chắc ai cũng
nhớ đầu năm 1932, binh Nhựt đánh
Thượng-hải, gặp nhằm tay cường-địch
là đạo binh 19 của Tàu chống-cự
lại hẳn-ḥi, binh Nhựt đánh rất hăng,
thế mà dây dưa trút tháng, vẫn chưa phá
nổi mặt trận binh Tàu. Bấy giờ trong
binh-đội Nhựt, có ba tên lính Ba người lính
liều chết kiểu đó, người
Nhựt gọi là “nhục-đạn, 肉弾 (viên đạn
thịt). Hiện nay ở Đông-kinh có đài
kỷ-niệm ba người liệt-sĩ nầy
; nhà-nước đúc tượng đồng
tả-chơn như lúc ở Thượng-hải
vậy. C̣n câu chuyện
nầy, cũng tỏ ra tánh-khí cương-dơng
khinh-sanh của vơ-sĩ Nhựt, thấy trong sách
“Le Japon dans le Monde” của Antoine Zischka tả một cách
đối-chiếu ngộ lắm : Hồi năm
1933, hạm-đội Mỹ tập trận ở
Thái-b́nh-dương, có thả một viên đạn
thủy-lôi xuống biển để thử, nhưng
viên đạn ấy chưa nổ, nên bộ
Hải-quân muốn lấy lên, bèn rao hơi có
cậu lính nào t́nh-nguyện làm việc đó, nhưng
chẳng có một cậu nào dám lănh mạng
hết. Họ nghĩ viên đạn của nhà-nước
đáng giá 300.000 quan, tuy là nhiều tiền
thật, nhưng mà giá-trị tấm thân họ c̣n
quư hơn, mắc hơn số tiền ấy
nhiều, dại ǵ họ xuống biển lặn
ṃ rủi chết oan mạng. Trái lại, đồng
thời bộ Hải-quân Nhựt-bổn mới
chế ra được một kiểu ngư-lôi
(torpille) có máy riêng, cho người ngồi vô
trong đó rồi phóng ra, để người
ngắm đúng tàu nghịch mà vặn máy cho ngư-lôi
đánh ngay mục-đích, th́ tàu nghịch
thế nào cũng phải bị bắn ch́m, không
thoát đâu khỏi. Có điều muốn thí-nghiệm
sức mạnh của ngư-lôi mới chế,
bộ Hải-quân rao hỏi mấy người t́nh-nguyện
cảm-tử, trong vài ba ngày tiếp được
đơn t́nh-nguyện của bốn năm ngàn
người liều ḿnh chịu chết. Nghĩ
coi, một đàng là viên đạn chưa
nổ, mà lặn đem lên, không chắc có
rủi-ro ǵ, thế mà chẳng có một người
dám chịu ; c̣n một đàng là mạng
chết nắm chắc cả trăm phần trăm,
th́ có mấy ngàn người hiến-thân
cảm- Sau nữa, vơ-sĩ
Nhựt-bổn xưa nay c̣n có cái tập-tục
lạ-lùng nầy, càng tỏ ra họ khí-khái cương-dơng
đến cực-điểm ; ấy là
tập-tục mổ bụng tự-tử,
tiếng Nhựt gọi là Hara-kiri
hay
seppuku
. Từ khi
Nhựt-bổn có Vơ-sĩ-đạo
dựng lên, liền có tập-tục nầy, do
ở quan-niệm danh-dự mà ra. Bởi vơ-sĩ
Nhựt thờ chuộng danh-dự thứ
nhứt. Một vơ-sĩ đă cầm gươm
ra trận th́ chỉ có nước một là
thắng hai là chết, chớ bại trận là
điều nhục-nhă cho vơ-sĩ, hay là để
cho giặc bắt sống được ḿnh,
danh-dự vơ-sĩ cũng cấm ngặt lắm.
Lâm vào cảnh đó, vơ-sĩ phải có gan
tự giết ḿnh đi, để bảo-toàn
danh-dự. Song nếu tự
giết ḿnh bằng chén thuốc độc,
bằng sợi dây thắt cổ, hay là nhào
xuống sông xuống hồ, vơ-sĩ đều
cho là những cách hèn-nhát, không xứng-đáng
với hạng người có can-đảm anh-hùng.
Lấy dao cắt cổ, họ cũng cho là cách
chết theo đàn-bà. Người vơ-sĩ anh-hùng
tất phải tự chết một cách thung-dung,
chậm-răi, thong-thả, tự-nhiên, không mất
vẻ tươi cười mà cũng không rên la
đau đớn. Đă vậy mà phải
chết trước mặt người ta và
phải giữ lễ-nghĩa hẳn-ḥi cho
tới khi tắt hơi ngă xuống mới thôi.
Nhà vơ-sĩ Nhựt bèn lựa cách mổ
bụng, chỉ có vậy mới là chết có
gan, chết sang-trọng, hiệp với tư-cách
của con nhà vơ. Người định
hara-kiri ngồi trước bàn thờ ông bà, làm
lễ cúng-bái hẳn-ḥi, chung quanh có mấy người
bạn-hữu hay họ-hàng đứng
chứng-kiến, trong đó có một người
cầm sẵn thanh kiếm nơi tay. Rồi đó
người tự-tử rút lấy con dao đựng
trong hộp để trước mặt, một
tay cầm dao tự mổ bụng ḿnh, một tay
kéo lấy ruột ra ngoài, nét Bởi có
tập-tục và thành lễ như thế, nên chi
mỗi người vơ-sĩ nào ban đầu cũng
học cách dùng thanh kiếm cho đúng phép
lịch sự, pḥng mai sau có lúc cần phải
mổ bụng ḿnh không biết chừng. Thuở
xưa, vơ-sĩ Nhựt tập rèn
kiếm-thuật hết sức trang-trọng,
tinh-vi, không khác ǵ nhà thi-sĩ cặm-cụi
về nghề đẽo chữ gọt vần,
hay là những chốn ngoại-giao, trào-đ́nh,
người ta g̣-gẫm về lối y phục
giao-tế vậy. Cái tục
tự-tử anh-hùng can-đảm nầy xưa
nay ở nước Nhựt thấy có rất thường
; ngoài vơ-sĩ ra, hạng người khác cũng
có nữa. Mỗi khi một vị Thiên-hoàng qua
đời, thế nào cũng có ít nhiều người
mổ bụng để chết theo, v́ là thương
vua quá. Ví dụ Năi-mộc 乃木-Nogi đại-tướng mổ bụng
tự-tử liền sau khi vua Minh-trị thăng hà.
Năm 1924, có một người thường-dân,
ngồi ngay trước cửa dinh công-sứ
Mỹ-quốc tại Đông-kinh mà mổ
bụng tự-tử, là cốt để tỏ
ư phản-đối cái chánh-sách của
Mỹ-quốc bạc-đăi dân Nhựt kiều
ngụ ở hạt Californie. Từ đó tới
nay, c̣n thiếu ǵ đám hara-kiri
khác. Trận Nhựt-Hoa giao-chiến ở Thượng-hải,
cũng có một vị tiểu-tướng
mổ bụng, v́ đă lỡ để binh Tàu
bắt sống rồi thả về. Sau cuộc
thao-diễn hải-quân ở Thái-b́nh-dương
năm kia, có một viên đội-trưởng cùng
mổ bụng xử ḿnh, v́ tự xét ḿnh hơi
lỗi phận-sự chút đỉnh. Chuyện Năi-mộc hy-điền 乃木希典
- Nogi Maresuke mổ bụng
chết theo vua Minh-trị, nên thuật sơ
lại cho độc-giả nghe. Hồi Nhựt Nga
chiến-tranh, Năi-mộc
làm Lục-quân đại-tướng, cầm
mấy đạo binh vây đánh Lữ-thuận
dữ quá, mấy ngàn binh Nga đành phải đầu
hàng. Chiến-công và oai-vơ của Năi-mộc
nổi vang thế-giới, có nhà thế-tộc
ở Âu-châu, lấy một thanh bửu-kiếm
của hoàng-đế Nă- Theo như tiên-sanh,
sở-dĩ Năi-mộc
mổ bụng chết theo Minh-trị Thiên-hoàng, là
v́ có một chuyện hồi nhỏ, cũng là
danh-dự vơ-sĩ làm nguyên-nhơn. Lúc vua tôi
đều c̣n nhỏ tuổi, cùng học một
trường ; bữa kia Năi-mộc
v́ việc học lỗi-lầm mà bị ông
thầy quở-trách sao đó, Năi-mộc
nghĩ sự danh-dự, nhứt định
tự-tử. Song vua Minh-trị (lúc đó c̣n là
đông-cung thái-tử) can ngăn ; ngài nói : - Ta là vua của ngươi
: sự lỗi-lầm đó ta gánh vác dùm cho, ta
biểu ngươi cứ việc sống. V́ bấy giờ vua
Minh-trị đă biết tài của Năi-mộc
sau nầy có thể làm rường cột cho
quốc-gia, nên chi ngài gánh lỗi, để cho Năi-mộc đừng chết vậy. Quả thiệt
về sau Năi-mộc cầm
binh đối nghịch với Nga ở Măn-châu,
đánh đâu thắng đó, nổi tiếng
anh-hùng. Vua Minh-trị có đức sáng tri nhơn
thiện dụng như thế, gọi là minh-quân
anh chúa phải lắm. Một chuyện
từ hồi c̣n nhỏ, ai không tưởng Năi-mộc
quên rồi. Nhứt là Năi-mộc
lập đại-công với quốc-gia thế
đó, mấy cái lầm-lỗi lúc trước cũng
đền-bù có dư. Nhưng mà không ; việc
phạm danh-dự thuở nhỏ Năi-mộc
chẳng quên ; nay vua Minh-trị thăng-hà, Năi-mộc
mổ bụng chết theo, là v́ Năi-mộc
nghĩ vua ḿnh đă qua đời Một bực người
phú-quư hiển-vinh, anh-hùng oanh-liệt như Năi-mộc,
không chịu hưởng sự vẻ-vang sung-sướng,
mà c̣n nhớ lại việc danh-dự từ năm
bảy chục năm trước, cam bỏ
hết một đời phú-quư hiển-vinh để
cứu lấy danh-dự ; thật vơ-sĩ
Nhựt-bổn có cái tinh-thần quư-trọng
danh-dự đến thế là tuyệt-phẩm
vậy.
TRẬN Ở ĐỐI-MĂ
HẢI-GIÁP, ĐÔNG-HƯƠNG NGUYÊN-SOÁI PHÁ TAN
HẠM-ĐỘI CỦA NGA Muốn biết
cuộc duy-tân của Nhựt-bổn
khởi-sự từ năm 1868 trở đi cho
tới ngoài 30 năm sau, có cái thành-hiệu đến
đâu rồi, th́ cứ xem cái thành-hiệu
về binh-lực vơ-bị của họ là
thấy rơ-ràng hơn hết. Tôi muốn nói cái
thành-hiệu đó là trận Nhựt thắng Nga
năm 1905, thắng cả trên bộ lẫn dưới
thủy. Một nước, hồi nào muôn
việc cũ mèm, bỗng chốc muôn việc
đổi mới, mà thấm-thoát có 37 năm,
hải-quân lục-quân của họ đem ra
chiến-thắng một đại cường-quốc
phương-Tây, bảo đó không phải là cái
thành-hiệu duy-tân th́ là ǵ ? V́ sao có trận
Nhựt Nga chiến-tranh 1904-1905 ? Tóm tắt là v́ Nga
mở-mang thế-lực sang phương Đông
lớn quá, làm ngăn-trở con đường
tấn-phát của Nhựt, cho nên Nhựt phải
sanh-tử tương-tranh để t́m lấy
mạch sống. Bắt đầu từ cuối
thế-kỷ 18, Nga ỷ mạnh xí mất
một miếng đất tổ-truyền của
Nhựt làm của ḿnh, ấy là cù-lao Hoa-thái 樺太島
(1). Nhựt vẫn căm-tức nhưng v́
thế yếu, không
làm sao được.
Lần lần về sau Nga mở-mang
thế-lực, trên bộ th́ khắp Măn-châu
tới Triều-tiên, dưới nước th́ có
hạm-đội đóng ở Hải-sâm-uy 海參
威
(Vladivostok) và ở
Lữ-thuận 旅順
(Port-Arthur), nắm giữ cái hải-quyền
ở trên Nhựt-bổn-hải
日本海 - Nihonkai (Mer du Japon), làm trở ngăn khó chịu cho con
đường tấn-phát của Nhựt-bổn
qua đại-lục, tức là cái ngơ sống cho
Nhựt tất-nhiên phải đi. Đại-khái
cái nguyên-nhơn cốt-yếu của trận
Nhựt-Nga chiến-tranh 1904-1905 là ở đó,
chớ việc nội-chánh của nước
Triều-tiên làm cớ cho hai bên khai-chiến,
chỉ là một cái nút chỉ nhỏ ở trong
nùi tơ rối lớn mà thôi. V́ chuyện thâm-thù
là một, v́ lẽ sanh-tồn là hai, cho nên tướng-sĩ
Nhựt cùng Nga giao-chiến có cái tráng-khí hùng-tâm,
không viết mực nào tả ra cho hết. Trên
bộ dưới thủy cũng vậy, con
muỗi Nhựt tấn lên đến đâu là
con cọp Nga thối lui đến đó, làm cho dư-luận
thế-giới sửng-sốt không ngờ, và bày
tỏ ra việc cải-cách vơ-bị của
Nhựt-bổn chỉ có ba chục năm thành-hiệu
lớn quá. Song, đây không phải có ư viết
Nhựt Nga chiến-sử, mà chỉ riêng nói
về trận Đối-mă hải-giáp 對馬海峽
(Détroit de Tsoushima), là v́ trận nầy có
nhiều ư-nghĩa : Một là nó
kết-thúc Nhựt Nga chiến-tranh, bởi đến
lúc Nga đem hạm-đội Ban-tích (Escadre de la
Mer Baltique) sang cứu-viện mà bị phá tan, th́
Nga phải ngă cờ cuốn giáp ngay, không dám
đánh với Nhựt nữa ; đành bỏ
quyền-lợi ở Nam-Măn, ở Tiều-tiên,
cho tới hải-quyền của Nga ở
Nhựt-bổn bấy lâu cũng tiêu nữa.
Nhựt bắt đầu tấn-phát qua đại-lục
từ đây. Hai là trận
nầy làm cho Nhựt từ bữa nay qua bữa
mai nhảy lên ngang hàng liệt-cường
thế-giới và có thanh-thế, có địa-vị
trọng-yếu, trên Thái-b́nh-dương. Ba là trận nầy
Nhựt-bổn lấy số ít đánh với
số nhiều mà thắng, tỏ ra nhơn-tài
hải-quân nước Nhựt mới tập rèn
đổi mới không bao lâu mà có thao-lược
lạ lùng. Người Tây-phương
ngợi-khen so-sánh Đông-hương
nguyên-soái với
đề-đốc Nen-sôn (Amiral Nelson) của
Anh-quốc khi xưa, v́ Nhựt thắng trận
nầy là trận rất to mà tự ḿnh
hao-tốn rất nhỏ mới kỳ. Vào hồi tháng 8 tháng
9 năm 1904, Nga-hoàng Ni-cô-la II (Tsar Nicolas II)
được tin cấp báo của quân ḿnh
ở phương-Đông : dưới nước
th́ hạm-đội Thái-b́nh-dương (2)
bị đánh gần tiêu, trên bộ th́
Lữ-thuận sắp mất mà Liêu-dương và
Phụng-thiên cũng nguy. Thấy binh-t́nh
nguy-cấp như thế, Nga-hoàng liền mở quân-sự
hội-nghị, quyết-định lựa
chọn những chiếc tàu chiến tốt
nhứt ở trong hạm-đội Ban-tích mà
lập ra hạm-đội Thái-b́nh-dương
thứ hai, giao cho Thủy-sư đề-đốc
Rô-dê-văng-ky (Amiral Ziniri Petrovitch Rojestvenski) làm tổng-tư-lịnh, để qua Đông-phương
cứu-viện. Mùng 4 tháng 10 năm
đó, cả đoàn tàu trận lớn nhỏ
gần 40 chiếc đậu dài ở cửa
biển, khói lên nghi-ngút, che bóng mặt trời,
ngó oai-phong thật là lẫm-liệt đường-hoàng,
ai cũng phải sợ. Khi đoàn tàu sắp
nhổ neo đi, Nga-hoàng cùng hoàng-hậu, thái-tử,
ngự giá xuống coi rồi phán rằng : - Đem đoàn tàu
như vầy đi đánh giặc, giặc nào không
tan ; hăm trận, trận nào không phá ! Trẫm phái
hạm-đội này sang Đông, trong ư chẳng
phải là cốt mong vào cửa biển Hải-sâm-uy
của ta bên đó mà thôi, ư trẫm c̣n trông tướng-sĩ
các ngươi phen nầy cùng giặc Nhựt
quyết chiến, để rửa thù cho hạm-đội
Thái-b́nh-dương và làm rỡ-ràng cho nước
nhà ; vậy tướng-sĩ các ngươi nên
cố-gắng ! ---------------- (2) Lúc đó hải-quân nước Nga chia làm 4
hạm-đội hay là 4 đoàn tàu chiến,
đóng ở 4 nơi : một là hạm-đội
Ban-tích (Escadre de la Mer Baltique) ; hai là hạm-đội
Hắc-hải (Escadre de la Mer Noire) ; ba là hạm-đội
Lư-hải (Escadre de la Mer Intérieuse) ; bốn là
hạm-đội Thái-b́nh-dương (Escadre du
Pacifique). Hạm-đội nầy đóng ở
cửa Lữ-thuận, bị hạm-đội
Nhựt phá tan, sau đem hạm-đội Ban-tích
sang cứu viện cũng bị phá tan nữa. Rồi đó
hạm-đội Ban-tích lục-đục
khởi-hành. Đề-đốc
Rô-dê-văng-ky chia ra làm hai toán : một toán do
ngả Địa-trung-hải qua kinh-đào Suy-ê
(Canal de Suez) mà sang Ấn-độ-dương ; c̣n
một toán tự ḿnh thống-lănh th́ bao ṿng châu-Phi,
rồi qua mũi biển Hảo-vọng (Cap de Bonne Expérance) rồi cũng băng
qua Ấn-độ-dương mà sang Đông. Sau khi hạm-đội
nầy đi được ít ngày, kế có tin
rằng hạm-đội Thái-b́nh-dương
ở Lữ-thuận bị Nhựt-bổn đánh
ch́m hết rồi, Nga-hoàng lo sợ quá, vội vàng
sai thêm một đoàn tàu nữa đi, gọi là
hạm-đội Thái-b́nh-dương thứ ba. Hạm-đội trước
đang đi nửa đường hay tin
Lữ-thuận đă bị binh Nhựt hăm
mất rồi, mà binh Nga đánh nhau ở
Phụng-thiên cũng thua, thành ra tướng-sĩ
trên hạm-đội lo buồn, nay đi mai
nghỉ, rất là chần chờ chậm
chạp. Măi đến ngày 12 tháng 4 năm sau -
1905 - mới đi qua Saigon, ghé vào đậu
ở vịnh Cam-ranh nước ta để
chờ hạm-đội Thái-b́nh-dương
thứ ba tới nơi rồi cùng đi. Song lúc đó nước
Pháp trung-lập, theo phép không được cho tàu
trận của bên nào đậu nhờ trong
đường nước của ḿnh. Nhựt
hay tin có tàu Nga đậu ở vịnh Cam-ranh,
liền đánh điện-văn trách hỏi nước
Pháp, và xin chiểu theo điều-ước
trung-lập mà tống-cổ tàu Nga đi. Bởi
vậy hạm-đội Nga phải nhổ neo ra
khơi, chớ không được đậu
ở Cam-ranh nữa. Ra biển chạy được
ít lâu th́ gặp hạm-đội Thái-b́nh-dương
thứ ba cũng vừa qua tới, nhập lại
với nhau, cả thảy trên 40 chiếc. Hôm nay là
mùng 5 tháng 5 năm 1905. Tính ra hai hạm-đội
Nga khởi-hành ở biển Ban-tích bên Nga từ
đầu tháng 10 năm ngoái, thế là hết 7
tháng mới đến phía ngoài hải-phận
Trung-kỳ ta. Nói về hải-quân
Nhựt-bổn, từ tháng chạp năm trước
(1904), đánh phá tan nát hạm-đội Nga
ở cửa Lữ-thuận Đông-hương
東郷
nguyên-soái cùng các viên bộ-tướng là Thượng-thôn
上村 ,
Xuất-vơ ,
Qua-sanh 瓜生
.v…
thắng trận khải-hoàn, về Đông-kinh bái
yết Thiên-hoàng, rồi đến ngày mùng 6 tháng
2 năm 1905, lại vâng mạng xuất-chinh,
sửa-soạn đâu đó, chờ hạm-đội
Ban-tích của Nga sang tới nơi là đánh. Nguyên-soái
Đông-hương
bài binh bố trận, chia hải-quân ra làm 7 đội,
mỗi đội tuần-pḥng một ngả
ở trong Nhựt-bổn-hải và
Trung-quốc-hải, c̣n chính ngài th́
thống-xuất đội chiến-hạm
thứ 7, pḥng-bị quanh miệt quần-đảo
Lưu-cầu 琉球
(Iles
Ryukyu) và eo biển Đối-mă 對馬
, v́ ngài đă định
trước thế nào hạm-đội Nga cũng
phải đi qua ngả nầy mà lên Hải-sâm-uy
của họ. Lúc nầy là 14 tháng
5, hạm-đội Nga đang c̣n linh-đinh trên
mặt biển ở phía ngoài hải-phận
Trung-kỳ ta, mà vẫn chưa biết hạm-đội
của Đông-hương
bố-trí thế nào, trấn-thủ ở đâu.
Bấy giờ, đề-đốc Rô-dê-văng-ky
bèn hội tất cả các bộ-tướng và
hạm-trưởng các tàu tề-tựu ở tàu
kỳ-hạm (3) để bàn tính phương-lược,
coi giờ nên đi ngả nào. Các tướng bàn-bạc
phân-vân chia-rẽ. Một viên bộ-tướng
nói : - Bên giặc thế
nào cũng giữ chặt lấy ngả
Nhựt-bổn-hải, hạm-đội ta
chớ nên đi lên ngả đó mà nguy. Chi
bằng ta ṿng ra Thái-b́nh-dương, dựa theo mé
biển phía ngoài Nhựt-bổn mà dông cho mau,
rồi băng qua eo biển Tôn-cốc 宗谷
của Nhựt mà lên Hải-sâm-uy th́ mới toàn
vẹn được. Một viên
hạm-trưởng vùng-vằng tức-tối,
đứng phắt dậy nói lớn :
(3) Đoàn tàu chiến khi ra trận, chiếc tàu
có ông Hải-quân nguyên-soái ở trên, treo cờ
hiệu-lịnh nguyên-soái, th́ gọi là
kỳ-hạm 旗艦 ,
tiếng Tây kêu là Navire-Amiral. - Chúng ta đây,
cả đoàn tàu hùng-tráng trên 40 chiếc, che mây
rẽ nước từ Tây sang Đông, phí ngày
giờ trải 8 tháng nay, đi băng ngang một
nửa trái đất, là cốt để t́m
lấy giặc mà đánh cho hả ḷng, hầu
lập nên đại-công như đề-đốc
Nen-sôn (Nelson) thuở trước. Nay lại định
trốn tránh quân giặc mà bao ṿng ngả Thái-b́nh-dương,
thật là vô-lư. Theo ư tiểu-tướng định
kế bây giờ, không có ǵ hơn là trước
hết chúng ta đánh lấy Đài-loan 台湾
làm nơi căn-cứ cho hạm-đội Ban-tích
của ta, ấy là thượng-sách, rồi th́
thừa cơ đánh giặc sau. Các tướng
thanh-niên cường-tráng, đều khen kế
đó là phải. Đề-đốc Rô-dê-văng-ky
suy-nghĩ lẳng-lặng một lát rồi đứng
dậy bảo chư tướng : - Ta quyết định
đưa cả hạm-đội do ngả Đối-mă
hải-giáp mà lên Hải-sâm-uy. Chư tướng
vỗ tay, tung hô vạn-tuế. Đoạn, đề-đốc
lại ra hiệu-lịnh cho tất cả đoàn
tàu như vầy : - Quân giặc
sắp gần kề trước mắt ta
rồi. Hạm-đội chúng ta ăn thua
vinh-nhục, chỉ ở trong khoảng ít ngày
nữa đây, vậy tướng-sĩ các ngươi
phải nỗ-lực để báo-đền
tổ-quốc. Đến ngày 25,
hạm-đội Nga do phía đông Đài-loan mà
ra Trung-quốc-hải, chỉ sai vài chiếc tàu
vận-tải ghé vào Thượng-hải lấy
thêm than dầu vật-thực, c̣n th́ toàn-đội
nhắm ngay eo biển Đối-mă mà phăng-phăng
thẳng tới. Phía bên quân
Nhựt, nguyên-soái Đông-hương
hay tin hạm-đội Ban-tích đă chạy ngang
qua quần-đảo Lưu-cầu, th́ định
chắc sớm tối ngày 26 hay 27, thế nào cũng
đi qua hải-giáp Đối-mă, cho nên hạm-đội
Nhựt bờm sẵn ở đấy chờ
đánh. Nói cho ngay, Đông-hương nguyên-soái dư biết
rằng đề-đốc Nga, tay cừu-địch
với ḿnh, là một vị hải-quân to tướng, đă
nổi tiếng thông-minh, can-đảm và có tài thao-lược ghê-gớm lắm. Đông-hương
lại cũng dư biết rằng lấy số
tàu binh mà kể, th́ hạm-đội Nga
nhiều hơn hạm-đội ḿnh. Vậy th́
Nhựt khó làm sao thắng Nga cho nổi. Tuy nhiên, Đông-hương
đă suy-tính hư thiệt kỹ-lưỡng,
biết rơ hạm-đội của đề-đốc
Rô-dê-văng-ky thiếu-thốn về binh-lực
và thuốc đạn ; nhứt là cả đoàn
tàu đi từ Âu sang Á, ṛng ră 8 tháng nay,
tự-nhiên máy-móc phải tṛng-trành, tướng-sĩ
phải mỏi-mệt, mà tàu lại không chở
đủ số than để lên tới Hải-sâm-uy
mà qua mắt Nhựt-bổn cho được ;
thế nào giữa đường tránh khỏi
đánh nhau ? Nga yếu thế e thua là ở
chỗ đó. Trái lại, tàu Nhựt th́ vừa
mới sơn phết, sửa-sang máy-móc và tích-trữ
đạn dược rất sung, c̣n tướng-sĩ
ai nấy đều tỉnh-táo hăng-hái,
chỉ đợi có giặc lại mà đánh. Lấy t́nh-trạng
hai bên về binh-lực và sĩ-khí như thế
mà suy-xét so-đo, cho nên Đông-hương
nguyên-soái vững ḷng chờ đợi hạm-đội
Nga tới chỗ eo biển chỉ rộng có 122
hải-lư là eo biển Đối-mă để cùng
giao-chiến một phen sống mái, chớ không v́
thấy tàu Nga đông, tướng Nga giỏi, mà
kiêng sợ chút nào ! Ngày 26, Đông-hương nguyên-soái ra lịnh cho
chiếc tàu do thám, hiệu là Tín-nùng 信濃
ải cẩn-thận tuần-pḥng ở quanh
biển Đối-mă, hễ thấy bóng tàu Nga,
phải đánh điện-tín cấp báo cho đại-đội
hay. Chiếc tàu nầy đi tuần biển đến
2 giờ khuya th́ thấy đoàn tàu Nga, liền
phi báo cho hạm-đội Nhựt hay. Các nhà quân-sự
chuyên-môn của Âu-Mỹ nói rằng chớ chi
chiếc tàu Tín-nùng của Nhựt đi tuần
chậm-trễ 5 phút đồng-hồ sau, th́
hạm-đội Nga vượt khỏi Đối-mă
rồi, không đến đỗi phải chôn thây
ở đó. Tảng sáng 27,
mặc dầu biển dậy sóng to, trời có
sa-mù bịt-bùng, hạm-đội tiên-phong
của Nhựt được tin hạm-đội
Nga sắp tới, tướng-sĩ Nhựt hâm-hở
nghinh-chiến. Xuất-vơ
trung-tướng truyền bảo bộ-hạ như
vầy : - Anh em ta đêm ngày
chờ đợi hạm-đội Ban-tích
tới để đánh ; ngày nay may mắn làm
sao tàu giặc đă tới trước
mắt, cái giờ sanh-tử quyết-chiến
của anh em ta đến rồi. Song binh-gia
thắng bại, không biết đâu trước
mà lường ; nói ví-dụ như tàu chúng ta
bị bắn nặng lắm, th́ anh em ta cũng
thề đánh tới chết chớ không thèm
lui. C̣n một viên đạn, cứ đánh ; c̣n
một tên quân, cứ đánh. Ai nấy đều
nên nỗ-lực tận-tâm mà đánh giặc,
rủi như tàu chúng ta ch́m th́ trước khi
chun vô bụng cá, chúng ta đem hết thảy
vật-dụng quân-cơ trong tàu mà tự hủy
đi ráo, chớ để lọt qua tay bên
giặc nghe ! … Rồi đó Xuất-vơ trung-tướng giàn trận, xông vào
giao-chiến với hạm-đội Nga. Trong lúc
sa-mù tối-tăm, tàu Nga không biết tàu
Nhựt nhiều ít thế nào, chỉ thấy bên
Nhựt bắn ḿnh th́ ḿnh bắn lại, rồi
th́ phân hạm-đội ra làm hai hàng tả
hữu, kéo dài trên 20 dặm, phăng phăng
chạy vào eo biển Đối-mă. Lúc nầy mà
đề-đốc Nga c̣n chưa thấy rơ
thiệt-t́nh bên Nhựt, trong trí vẫn tưởng
rằng mấy chiếc tàu Nhựt mà ḿnh ngó
thấy đây là thứ tàu hư cũ không
thể chiến-đấu ǵ được ; c̣n
đại-đội hải quân Nhựt th́ đang
đón hạm-đội ḿnh ở eo biển Tôn-cốc
là phía trên kia, thế là Nhựt mắc mưu ḿnh
rồi, thôi ḿnh có thể thừa hư mà
thắng lên Hải-sâm-uy dễ-dàng như chơi.
Than ôi ! Đề-đốc Nga không biết có
hạm-đội của Đông-hương
đang bờm sẵn ở Đối-mă
hải-giáp, lát nữa coi mà ! Quả thiệt Đông-hương nguyên-soái được tin
hạm-đội Nga sắp qua Đối-mă
hải-giáp liền ra lịnh cho cả hạm-đội
bộ-hạ ḿnh gồm 20 chiếc tàu, giàn
trận như h́nh tràng-xà, xông ra nghinh-địch.
Cờ hiệu giao-chiến kéo lên bay
phất-phới ở trên kỳ-hạm Tam-lạp
三笠 Đông-hương nguyên-soái
truyền lịnh cho toàn đội rằng :
“Tổ-quốc vinh nhục ở một trận
nầy, tướng-sĩ các ngươi đều
phải gắng sức”. Lịnh nầy làm cho hùng-tâm
tráng-khí của chư tướng-sĩ thêm
phấn-chấn trăm phần. Hạm-đội
Nhựt phân hai, một nửa đánh vào sau lưng
hạm-đội Nga, một nửa th́ chạy hàng
dài ở phía tả, chận ở mặt trước.
Lúc hai bên c̣n cách xa nhau 10 Nga muốn biến
thế-trận để đối-địch
cho dễ, nhưng bị Nhựt xông vào đánh
riết quá, nên biến thế-trận không
kịp. Đă vậy mà súng Nhựt bắn 10 phát
trúng đến 6, 7 ; c̣n súng Nga bắn trả th́
xuống nước gần hết. Hồi 2
giờ chiều, hai bên đánh nhau càng hăng, súng
nổ vang trời, khói lên mù mịt. Tuy binh Nga
chống-cự hăng-hái can-đảm cũng
dữ, nhưng mà tàu nào tàu nấy bị đạn
Nhựt bắn phá nhừ tử, thành ra ḷng quân
đă hơi rúng-động. Đến 2 giờ
rưỡi, hạm-đội Nga bị khốn
trong ṿng vây, trận-thế rối loạn tứ
tung, muốn phá vây chạy trốn, nhưng mà tàu
Nhựt áp tới bao-phủ như bức tường
dầy, không có ngả nào cho tàu Nga thoát ra
được. Lúc nầy tàu Nga có mấy
chiếc bị bắn ch́m rồi, tàu Nhựt
lại nhắm vào kỳ-hạm của đề-đốc
Rô-dê-văng-ky mà bắn dữ-dội. Đề-đốc
đứng trơ trên tướng-đài, tay
cầm thanh gươm ra hiệu cho tướng-sĩ
; bỗng chốc tàu cháy ngùn-ngụt, cháy tới
tướng-đài, làm cho đề-đốc
Nga bị thương nặng lắm, vội vàng
cùng bộ-tướng sang qua tàu khác vừa xong,
th́ chiếc kỳ-hạm ch́m nghỉm. Bây giờ chiếc
tàu Nga hiệu Nicolas 1er thay làm kỳ-hạm, cùng
chiếc Alexandre III đánh lại tàu Nhựt
rất là dơng-mănh, v́ tướng-sĩ ở hai
tàu nầy đều là hạng tinh-nhuệ trong
hải-quân Nga. Song, rủi cho Nga,
hết tàu nầy tới tàu khác, bị trúng
đạn Nhựt mà nổ ch́m liền. Thét tàu
Nga phải đành liều, phá ṿng vây mà chạy
; tàu Nhựt rượt theo bén gót. Tối lại, trên
biển u ám, không sao ngó thấy rơ đường
mà đánh, nên chi Đông-hương
nguyên-soái Chính một
chiếc tàu có đề-đốc Rô-dê-văng-ky
và tham-mưu bộ-tướng cũng bị
hết than hư máy, đứng sững trên
biển, nên phải kéo cờ hàng, để cho
binh Nhựt bắt sống cả mấy thầy
tṛ ; c̣n chiếc tàu Nga th́ Nhựt dắt về
Tá-thế-bảo 佐世保 - Sasebo
quân-cảng. Có 5 chiếc khác
thừa lúc đêm tối, định dông
thẳng lên Hải-sâm-uy, không dè tới sáng,
bị một hạm-đội Nhựt lù lù
chận ngang trước mặt. Chính là hạm-đội
của Đông-hương,
Đông-hương
ra hiệu khuyên hàng ; 5 chiếc tàu Nga biết
thế chống-cự không nổi, kéo cờ
trắng lên hàng ngay. Nội buổi sáng
28 tàu Nhựt c̣n lùng kiếm tàu Nga, hoặc
bắn ch́m, hoặc bắt sống. Thế là
cả hạm-đội Ban-tích của Nga trên 40
chiếc, đến đây không c̣n sót lại
chiếc nào toàn-vẹn. Tính ra Nhựt bắn ch́m
của Nga 21 chiếc ; bắt sống 5 chiếc ;
3 chiếc mắc cạn bị hư ; 8 chiếc
trốn thoát ; 1 chiếc chạy mất tung-tích nơi
nào không biết. Có lẽ nó là chiếc chạy
lạc vào cửa Ô-cấp ta rồi ch́m ở
khoảng trên Nhà-bè mà mấy chục năm nay c̣n
thấy cột buồm trồi lên mặt nước
đó chăng ? Phía Nga, hạm-đội
Ban-tích tan-nát như đă kể trên đây, c̣n
tướng sĩ th́ 4.000 người bị
hoặc bị đạn mà tử-trận,
hoặc đắm tàu mà chết ch́m ; 7.000 người
bị Nhựt bắt sống, trong số đó có
đề-đốc Rô-dê-văng-ky và nhiều
danh-tướng khác nữa. Thế mà phía
Nhựt, th́ chỉ mất ba chiếc tàu ngư-lôi,
chết 116 người và bị thương-tích
350 người thôi. Trận
hải-chiến ở eo biển Đối-mă
nầy kết-thúc cuộc thắng bại
giữa hai nước Nhựt Nga, từ đó Nga
bị đuổi ra khỏi phía đông Thái-b́nh-dương
để nhường cho Nhựt trở nên
hải-thượng bá-chủ. Vả lại
trận Đối-mă đánh xong hôm nay, th́ ngày
mai oai-danh Nhựt-bổn lừng-lẫy toàn-cầu,
nhảy vọt lên ngang hàng với liệt-cường
Âu Mỹ. Ai cũng nói rằng thiên-hạ
cổ-kim, không tiền tuyệt hậu, chẳng
thấy có một trận hải-quân
chiến-thắng nào mà cái giá nó ít tốn-hao quá
như là trận Nhựt chiến-thắng Nga
ở Đối-mă hải-giáp vậy. Thắng trận
khải-hoàn, Đông-hương
nguyên-soái trở nên một bực dân-tộc
anh-hùng, thế-giới vĩ-nhơn. Người
thắng trận đă nâng cao địa-vị
của quốc-gia dân-tộc Nhựt-bổn đó,
thọ gần 80 tuổi, mới mất ở
Đông-kinh hồi tháng 6 năm 1934,
Nhựt-bổn làm lễ quốc-táng hết
sức long-trọng. Nhơn dịp đó, ta
thấy vô số báo chí Âu Mỹ tự thuật
lai-lịch và ca tụng chiến-công của Đông-hương.
Đông-hương,
hồi đầu duy-tân, là một chàng thanh-niên
do vua Minh-trị lựa chọn phái đi qua
học hải-quân ở Anh-quốc giữa năm
1868. Đông-hương
lưu học tại Anh-quốc luôn 7 năm, đă
nghiên-cứu về binh-pháp hải-quân lại
tinh-thông cả về cơ-khí hải-quân
nữa. Lúc bấy giờ Âu-châu gọi Đông-hương
là “cậu học tṛ Nhựt-bổn” (écolier
Japonais). Cách sau vừa đúng 30 năm, tảng sáng
ngày 27 tháng 5 năm 1905, cậu học tṛ
Nhựt-bổn làm Hải-quân nguyên-soái. Phá tan
hạm-đội của một cường-quốc
Âu-châu ở Đối-mả hải-giáp đó. Giữa lúc đánh
trận, Đông-hương
cầm thanh bửu-kiếm đứng trên tướng-đài
của chiếc kỳ-hạm Tam-lạp 三笠
, chỉ-huy quân-sĩ
từ sáng sớm đến tối mịch,
bỏ cả ăn uống, quên hết hiểm
nguy. Đạn Nga bay ngang trước mặt vù vù,
mà Đông-hương
không hề nhúc-nhích, cái thái-độ dơng-cảm
tự-nhiên của Đông-hương như thế, càng làm cho
mạnh khí nức ḷng tướng-sĩ
Nhựt-bổn bội phần. Ai nấy reo ḥ hăng-hái,
quyết chiến cho đến lúc toàn thắng
mới thôi. Có tướng ấy, tất nhiên có
quân ấy là phải lắm. Tuy thắng đại-trận,
lập đại-công thế ấy, mà Đông-hương
chẳng lấy làm đắc-chí tự-kiêu chút
nào. Ai khen công-trận th́ Đông-hương chỉ nói đó là nhờ có
oai-linh của Thiên-hoàng, dơng-khí của ba quân,
hồng-phước của tổ-quốc. Ngày
khải-hoàn về Đông-kinh, cái cử-chỉ
trước hết của Đông-hương
là vô nhà thương thăm viếng đề-đốc
Rô-dê-văng-ky, nắm tay đề-đốc mà
nói : - Tôi rất lấy
làm vinh-hạnh được gặp một tay
đối-địch hết sức dơng-cảm
như ông. Cái cử-chỉ
nầy càng tỏ ra vơ-sĩ Nhựt-bổn có tánh
nho-nhă di-truyền từ xưa, như một
đoạn trên kia đă nói vậy. CHÚNG TÔI HỌC THEO
TÂY-PHƯƠNG CÁC ÔNG MÀ ! Xét qua công-cuộc
cải-cách vơ-bị của Nhật đă thành-công
mau lẹ và có kết-quả rỡ-ràng như
thế rồi, luôn dịp ta nên nh́n biết
một điều nầy nữa. Điều
nầy, chẳng phải ư tôi muốn nói ra đặng
ngợi-khen ǵ Nhựt-bổn, nhưng mà nó chính
là một sự thật, không nên bỏ qua. Hồi duy-tân,
Nhựt-bổn hối-hả sửa-sang vơ bị
theo như Tây-phương, chẳng phải
chỉ cốt lo “giữ ḿnh” mà thôi đâu,
kỳ thiệt họ đă lập chí “ăn người”
rồi. Đă không muốn tấn-hóa tự-tân
th́ thôi, chớ nếu tấn-hóa tự-tân, th́
tất-nhiên phải có những vấn-đề
công-nghệ phát-đạt, vấn-đề nhơn-khẩu
gia tăng, bắt buộc họ có cái t́nh-thế
riêng phải lấy vơ-lực để t́m
lấy hơi thở, mưu lấy đường
sống. Bởi vậy, ông tướng
tên quân nọ mới ngày hôm nào hăy c̣n mang giáp múa
đao, cầm cung ra trận, không khác ǵ tướng-sĩ
Trung-quốc thuở xưa, thế mà bỗng
chốc duy-tân, bao nhiêu thói xưa lối cũ xóa
đi hết, nhứt thiết đổi dùng
từ binh-cơ đồ-trận cho tới
nhung-trang khí-giới của Tây-phương,
sự biến-hóa ấy thấm-thoát chưa
được bao lâu, th́ họ đă đem ra
thực- Sau lúc thắng Nga
trở đi, vơ-bị của Nhựt ngày càng thêm
mở-mang tấn-tới. Đến giờ, thôi
th́ quá rồi : hải-quân lục-quân của
họ đă đứng ngang hàng với mấy nước
đệ nhứt hùng-cường trong
thế-giới ; vơ-nhơn họ, ở bên trong có
thế-lực lớn lao bên đàn chánh-trị,
ngó ra ngoài muốn hầm-hư nhai nuốt cả
những Úc-châu của Anh, Phi-luật-tân của
Mỹ, Nam-dương quần-đảo của Ḥa-lan,
chớ không phải muốn vừa. Măn-châu chưa
đủ no bụng họ đâu, họ c̣n đang
ḍm qua dĩa thịt liền một bên, muốn
nhai luôn cả Tây-bá lợi-á của Nga luôn
một miếng cho gọn ! Tuy ngoài miệng hay
nói ḥa-b́nh ngọt sớt, nhưng kỳ
thiệt Nhựt-bổn chính là một nước
“quân-quốc chủ-nghĩa” (Nation militariste) rơ-ràng
không c̣n phải nghi ǵ nữa. Có người Âu
Mỹ nào trách-thiện Nhựt về chỗ
đó th́ Nhựt cười và nói : - Ủa ! Chúng tôi
học theo Tây-phương các ông chớ ai ! Th́ chính là lời nói
thiệt. Như trên xa kia
đă nói, thiệt là trước nhờ mấy
tiếng súng của đề-đốc Bá-lư,
sau nhờ có những hiệp súng của 4 nước
Âu Mỹ hiệp nhau bắn nổ rầm-rầm
ở Lộc-nhi-đảo và Hạ-quan, làm cho người
Nhựt vùng tỉnh-giấc mê mộng mấy ngàn
năm mà vội-vàng cải-cách duy-tân. Việc
thứ nhứt là họ đă ngó thấy Tây-phương
mạnh ở súng gang tàu sắt, th́ trước
hết họ phải lo sao cho họ cũng
có những vật
cần kíp đó. Antoine Vischka
(4) viết câu nầy thực là đúng với
tư-tưởng tâm-lư người Nhựt
hồi năm 1868 : “Nếu người ta
sống theo cách Âu-châu th́ cũng phải biết
bắn giết theo cách Âu-châu mới được”,
(Si on vivait à l’européenne, il fallait aussi tuez à l’européenne). Vơ-bị nước
Nhựt hồi duy-tân sửa-sang tấn-tới quá
mau, cho đến đỗi cách sau 37 năm đem
ra thực-nghiệm chiến-thắng được
Nga, tóm lại chỉ gốc ở một chỗ
giác-ngộ và định-kiến có bấy nhiêu
đó ! Lại cũng v́
chỗ giác-ngộ định-kiến đó mà
Nhựt-bổn phải trở nên một nước
quân-quốc chủ-nghĩa, soi gương nối
gót thầy học Tây-phương. Thử hỏi
xưa nay trong thiên-hạ có một nước nào,
hoặc mở thêm đất cát, hoặc mưu
lấy lợi-quyền, mà khỏi dùng đến
vơ-lực ? Nước mạnh nào lại không là
nước quân-quốc chủ-nghĩa ? Tây-phương
bắt đầu từ thế-kỷ 17 sang
mở-mang đất-cát, kinh-doanh quyền-lợi
ở Đông-phương, chẳng nhờ có binh
ṛng tướng mạnh, tàu sắt súng gang, th́
nhờ ở sức nào khác hơn ? Chính Tây-phương
qua bắn súng vào Pḥ-tang tam-đảo
rầm-rầm, mới đánh thức
Nhựt-bổn tỉnh-ngộ tự-cường
đó chớ ai ! Cũng chính Tây-phương
chỉ tỏ cho Nhựt biết sức mạnh
của súng đạn tân-thời và biết
mối lợi của vơ-lực sung-túc, cho nên
Nhựt phải bắt-chước đó. Ngày nay
họ trở nên quân-quốc chủ-nghĩa mà thú
thiệt rằng học bài chung sách của ông
thầy Tây-phương là phải lắm. Danh-sĩ Pháp là
Maurice Dekobra năm ngoái qua chơi Nhựt-bổn
trở về viết cuốn sách “Samourai huit
cylindres” rất ngộ, có nhắc lại câu nói
của ông giáo-sư Nitobé
ở trường Đông-kinh Đế-quốc
đại-học như vầy : “Hồi
Nhựt-bổn tự bỏ cái thú
tịch-mịch phong-lưu của ḿnh từ xưa
mà để mắt ḍm ra thiên-hạ, ngó thấy
trên biển Trung-quốc phất-phới nhiều
lá cờ lạ, thuở nay (4) Tác-giả cuốn “Le
Japon dans le Monde”, 326 trương, nhà Payot ở
Paris xuất-bản. ḿnh không biết, th́
ai nấy đều sửng-sốt lạ-lùng : nào
cờ tam-tài, nào cờ có băng đỏ
của Hồng-mao, nào cờ điểm sao
lốm-đóm của Mỹ-quốc. “Chớ chi lúc
nọ ở dưới những lá cờ đó,
có một đạo binh toàn là thi-gia và
mỹ-thuật-gia kéo tới bờ biển chúng tôi,
th́ không chừng chúng tôi đă cao-hứng v́
lẽ cạnh-tranh tinh-thần, mà cùng họ
phấn-đấu ở trong ṿng nghệ-thuật
văn-chương một cách rất là ôn-tồn
thân-ái. Song cơ-khổ thay ! Lúc chúng tôi ḍm
thấy dưới những bóng cờ đó tua
tủa lên vô số là đầu gươm mũi
súng chói mắt sáng ḷa, th́ chúng tôi hiểu ngay
rằng chúng tôi đây phải đúc súng rèn
binh để giữ lấy thân chúng tôi mới
được. Bởi vậy, ngay từ khi chúng
tôi bắt đầu tiếp-xúc với Tây-phương,
th́ chủ-nghĩa quân-quốc đưa tới
cho chúng tôi bắt chước đầu hết
mọi sự. Thiệt, công-cuộc
tổ-chức hải-quân và lục-quân của
Nhựt ngày nay, có phải là Nhựt phát-minh ra
đâu ; Nhựt chỉ chép y kiểu cách của
Âu-châu thôi mà.”
|
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương IX ]