|
Chương IX VĂN HÓA ĐÔNG TÂY Nhiều
người ngó thấy Nhựt-bổn sanh ra
được đứa con duy-tân tự-cường
giống Âu-châu như đúc khuôn, tưởng
vậy là Nhựt-bổn nhờ công ơn khí-bẩm
của Âu-châu truyền cho hết thảy. Mà
người ta không tưởng vậy sao
được ; v́ chứng-cớ h́nh-tích là
những cơ-khí, cửa nhà, xe tàu, y-phục cho
đến chánh-trị, lư-tài, kinh-tế, quân-sự
kia, nhứt thiết là của Âu-châu sản-sanh,
vậy th́ đứa con Nhựt-bổn duy-tân,
chẳng phải con của Âu-châu th́ c̣n ai ? Nếu
chỉ xét người ở ngoài da, th́ vậy
đó là phải rồi. Nhưng, chưa chắc
mỗi ai có khí-bẩm Âu-châu truyền cho, cũng
duy-tân tự-cường được,
Trung-quốc từ thế-kỷ 18, đă có
nhiều người Tây-phương lui tới,
đem những cái hay của họ sang cho mà
thấy, sao Trung-quốc không văn-minh hùng-cường
đi ? Cũng như nước Nam ḿnh đời
Gia-long, có những người Pháp tài nghề
chuyên-môn, là Olivier, là Chaigneau, qua đây đóng tàu
đúc súng, xây thành luyện quân ở ngay trước
con mắt ḿnh, sao ḿnh không giỏi văn-minh hùng-cường
đi ? Tại
sao ? Chỉ
tại Trung-quốc với ḿnh như chị đàn-bà
khô-khan yếu-đuối, trong ḿnh không có
những cái tánh-chất có thể cảm-thọ
khí-bẩm tốt lành của người ta để
sanh-sản ra tốt lành. Trái
hẳn lại, Nhựt-bổn từ xưa
chẳng những đă chứa sẵn nhiều tánh-chất
phát-dục chín chắn tốt lành, mà ngay đứa
con văn-minh hùng-cường cũng đă
nằm sẵn trong thai-nghén của họ rồi,
vừa đúng lúc ngày đầy tháng, th́ Âu-hóa
tới rước nó ra, chớ không phải Âu-hóa
đem trọn đứa con đẻ sẵn cho
Nhựt-bổn đâu ! Khác nào hột giống cây
quư tự người Nhựt đă gieo nó dưới
đất rồi, Âu-hóa như trận mưa
phải thời, tự nhiên nó nảy mầm
đâm nhánh lên vậy. Một
bực danh-nhơn trong thời-đại
Minh-trị, nông-học kiêm pháp-học bác-sĩ là
Tân-độ-hộ
Đạo-tạo -
新渡戸稲造 - Nitobe Inazou
ví dụ Âu-hóa có công như là cô mụ, rất
có ư-vị : -
“Âu-hóa đối với nước Nhựt chúng
tôi không khác ǵ chuyện cô mụ hộ-sanh đối
với một đứa “nhỏ trong thai, đến
ngày đến tháng, cô mụ tới đỡ
cho nó chun ra đời. Nếu Âu-châu có công
với “sự tấn-hóa duy-tân của chúng tôi,
tức là cái công của cô-mụ hộ-sanh đó.
Nghĩa là đứa nhỏ “cứng-cát
tốt-lành đă có sẵn trong thai-nghén của
chúng tôi rồi, chỉ nhờ Âu-hóa tới làm
người “hộ-sanh, khiến cho người
mẹ sanh ra đứa nhỏ được
mau-chóng hơn, dễ-dàng hơn, và ít
quằn-“quại đau-đớn. Bảo
rằng đứa nhỏ do chúng tôi sanh ra đó
là của Âu-châu ban cho hết thảy th́ “sai
lắm. Rút lại mà nói : Nhựt-bổn có
nhờ Âu-châu là để cho cái sức có
sẵn nơi ḿnh, được “mau phấn-phát,
tấn-tới theo thời vậy.” Câu
nói nghe như hơi quá tự-phụ, nhưng
quả là chứa đầy sự thiệt. Về
văn-hóa tư-tưởng, Nhựt-bổn có
chứa cái kết-thai lâu đời chẳng
phải tầm thường. Nhứt là văn-hóa
tư-tưởng nào họ cũng thâu-góp,
cảm-thọ của người, nhưng rất
khéo lựa chọn, khéo dung-ḥa, khéo lọc hay
bỏ dở để cho thích-hiệp và
hữu-dụng với ḿnh, thành ra đến lúc
văn-hóa tư-tưởng Thái-tây sang Đông,
họ biết đón rước vồ-vập
lấy liền. Trên con đường nầy, trước
khi muốn thấy dấu chưn họ ở
chặng sau, ta ḍm sơ lại bước đi
của họ ở mấy chặng trước
thử xem. Sự
thiệt, Nhựt-bổn đă sẵn có một cái
thai văn-hóa kết tinh lâu rồi. Muốn
xét cái thai văn-hóa của Nhựt-bổn, đầu
hết phải xét từ tôn-giáo mà đi. Thiệt,
quả như lời của ông giáo-sư Félicien
Challayé
đă nói : “Chính là tôn-giáo đă vạch rơ ra
những tánh-chất cốt-yếu của nền
văn-hóa ấy, khiến cho nó có vẻ lạ khác
người ta, có linh-hồn riêng của nó. Nó
ảnh-hưởng tới tư-tưởng, tánh-t́nh
và công việc của người Nhựt làm
một cách rất sâu-xa ; chính tôn-giáo đă giúp
ư-tưởng cho họ nảy ra văn-chương,
ra mỹ-thuật, làm nên khuôn-mẫu cho tất
cả những điển-chương phép-tắc
tổ-truyền ; chính tôn-giáo đă làm cho rung-động
và ngày nay cũng vẫn c̣n rung-động sự
sống bề ngoài cũng như sự sống
bề trong của người Nhựt” (Ce
sont les religions qui ont déterminé les caractères essentiels de
cette civilisation, lui ont donne son originalités, son âme. Elles
ont profondément agi sur les idées, les sentiments et les actes de
Japonais ; elles ont inspirée leur liztérature et leurs arts, modelé
toutes les institutions tradictionnelles ; elles ont animé et elles
animent encore leur vie extérieuse comme leur vie intérieuse). Từ
thuở nước Nhựt cổ, có ba nền
đạo lớn, vẫn là những đạo
cốt-yếu của nước Nhựt kim ngày
nay : Thần-đạo, Khổng-giáo, Phật-giáo. THẦN-ĐẠO.
- Ở chương thứ nhứt, độc-giả
đă thấy một đoạn nói người
Nhựt tin-tưởng nước họ là
Thần-quốc, do Thần dựng lên, đức
Thiên-hoàng là con cháu, ḍng-dơi của vị
Thần tôn-nghiêm cao-quư hơn hết, đời
đời truyền nối trị v́, không ai
được xâm-phạm, không hề có sự
thay-đổi bao giờ. Tự-nhiên Thần-đạo
(神道
- Shindou,
shinstoisme) là đạo gốc, có từ lúc
Nhựt-bổn mới thành dân-tộc, mới
lập quốc-gia trở đi. Đây,
cần nói thêm về Thần-đạo, nhứt
là những điều trước kia chưa nói,
v́ có quan-hệ với vấn-đề văn-hóa. Ta
nên phân biệt : Thần của người Nhựt, không phải Thần
như của Tàu và nước Nam ta, phàm ai
sống khôn thác thiêng, được người
ta lập đ́nh miểu thờ tự và có nhà
vua sắc phong là Thần
th́ mới là Thần
; cũng không đồng nghĩa với Thánh
(Saint) ở đạo Gia-tô, thường là
những người xưa kia tận trung với
đạo Chúa hay là tử-tiết v́ đạo,
về sau được Ṭa-thánh ở La-mă phong Thánh
th́ mới được là Thánh. Thần-đạo
ở Nhựt-bổn cốt nhứt là sự tưởng-nhớ
kính-thờ các “Gia-di” (加彌, Kami),
tức là anh linh của những người qua
đời. “Hết thảy những kẻ
chết đều thành Thần”, ấy là
lời của nhà chí-sĩ ái-quốc Hirata
(1776-1843), đứng ra xướng-minh Thần-đạo,
gây nên một phong-trào vừa có chủ-nghĩa tôn-giáo
quốc-gia ; vừa có tôn-chỉ chánh-trị ái-quốc
; chính cái phong-trào đó về sau kết-cuộc
là Mạc-phủ phải dâng trả quyền-chánh
của Thiên-hoàng và mở ra thời-kỳ
Minh-trị duy-tân vào năm 1868 vậy. Căn-bổn
của Thần-đạo tóm-tắt lại ở
sự tin-tưởng nầy : anh-linh của
kẻ chết vẫn quanh-quất ở giữa
kẻ sống ; vẫn đi về lui tới nhà
cửa con cháu ; tuy ở trong cơi thiêng-liêng vô-h́nh
mà vẫn kiểm-xét tánh-hạnh đạo-đức,
và dự phần vào những cảnh vinh nhục
vui buồn của kẻ đang sống luôn luôn.
Vẫn biết rằng cơi Thần cũng như cơi
người, có hạng xấu tốt nên hư,
nhưng mà hết thảy những kẻ đă
chết, đều có quyền sức thiêng-liêng
tác oai tác phước cho người sống
được. Giữa người sống
với kẻ chết vẫn có sợi dây
quan-hệ liên-lạc với nhau. Kẻ
chết cần dùng người sống tưởng-nhớ
kính-thờ để cho vong-linh được yên-ổn
sung-sướng trên cơi thiêng-liêng. C̣n người
sống phải nhờ kẻ chết che-chở pḥ-trợ
cho ḿnh ở đời. Có
nhiều hạng Thần : Thần của gia-đ́nh
là anh-linh của cha mẹ, ông bà, tổ-tiên,
thờ-tự bàn thờ trong nhà ; Thần chung
của làng xóm, thờ ở đ́nh miễu hương
thôn ; tới Thần chung cả nước là anh
linh của các đấng anh-hùng hào-kiệt, chí-sĩ,
danh-nhơn, mà trên hết là anh-linh của
tổ-tiên đức Thiên-hoàng. Cho đến
trời, đất, cây, đá, các đồ dùng
về nghề-nghiệp, mỗi sự vật
đều có Thần giám-đốc
chủ-tể nữa. Cái
gốc luân-lư ở xă-hội Nhựt-bổn xưa
nay cũng thế, là ở gia-đ́nh. Ông Lafcadio
Hearn làm giáo-sư ở Đông-kinh trong lúc
Minh-trị duy-tân, vô dân Nhựt, ở nước
Nhựt luôn 40 năm, biết rơ người
Nhựt đến tận móng tay kẻ tóc,
muốn chỉ tỏ cái đại-cương
của gia-đ́nh luân-lư Nhựt-bổn bằng câu
nầy đúng lắm : “Gia-đ́nh là một tôn-giáo,
nhà cửa con cháu ở là một đền
thờ.” (La famille est
une religion, le home (la demeure
familiale) un temple). Xứ
ḿnh lâu nay, thấy có nhiều nhà - ấy là nói
những người không phải theo đạo
Thiên-chúa - đă giẹp bàn thờ ông bà đi,
chớ ở Nhựt-bổn, nhà nào cũng có,
từ nhà các ông tể-tướng, nguyên-nhung,
cho đến nhà của thường-dân lao động.
V́ đó là một dấu tỏ ra con cháu cung-kính
tưởng-nhớ ông bà tổ-tiên, thường
thường khấn-vái cúng-kiến. Họ cho
rằng ḿnh đây có thân-h́nh, cửa nhà, có
sự-nghiệp ; hay là bất cứ sự
vật ǵ, đều nhờ ông bà cha mẹ ban
cho, nên ḿnh phải luôn tưởng nhớ kính-thờ
mới được. Huống chi là tổ-tiên
vẫn ḍm thấy công việc ta làm, vẫn nghe
mỗi lời ta nói, vẫn thấu ḷng dạ ta,
vẫn xét đoán ta ; nếu ta ở đời mà
cư-xử hành-vi đến can danh phạm nghĩa,
để cho anh-linh tổ-tiên sầu tủi,
thật là ta mắc một tội rất lớn. Trong
gia-đ́nh, Thần-đạo buộc có
kỷ-luật nghiêm-minh : con phải hiếu
thảo vâng lời cha mẹ, vợ phải kính-nể
chồng, em phải nghe lời anh, kẻ dưới
phải phục-ṭng người trên. Luật nghiêm
ấy phải có chỗ bù-chế lại, là nghĩa-vụ
giúp đỡ lẫn nhau, buộc những kẻ
trên phải lo-lắng, phải cứu-vớt,
phải an-ủi, phải tư-trợ cho sự
sống của kẻ dưới được
thong-thả êm-đềm. Ngoài
luân-lư gia-đ́nh, tới luân-lư hương-tộc,
Thần-đạo nghiêm-cấm những kẻ cùng
ở một làng xóm,
cùng chung một họ-hàng, không được gây
gỗ chửi rủa nhau. Lúc có hoạn nạn -
như trộm cướp cháy nhà - th́ phải tương
cứu. Ai ở trong làng mà phạm tới luân-lư
hương-tộc đại-khái của Thần-đạo
như thế, đều bị người ta
khinh-khi, ruồng-bỏ, đến đỗi
muốn lập gia-đ́nh không được,
rồi phải bỏ làng mà đi phiêu lưu. Trên
gia-đ́nh và hương-tộc, là quốc-gia.
Thần-đạo dạy người ta suy
rộng tấm ḷng con hiếu cha từ ra trung-quân
ái-quốc, làm người phải biết
trọng danh-dự, trọng khí-tiết, khinh tài
trượng nghĩa, dầu phải v́ danh-dự
v́ quốc-gia mà chết bỏ ḿnh đi, cũng
đừng thèm sợ tiếc. Vơ-sĩ-đạo,
độc-giả xem trên xa kia đă biết, là
đạo ǵ, chính là một chi-nhánh nảy
từ luân-lư quốc-gia của Thần-đạo
mà ra đó. Sở-dĩ
Nhựt-bổn là một dân-tộc chuộng
sự thanh-khiết nhứt đời, cũng là
do phận sự của Thần-đạo bắt
buộc. Họ nói Thần ưa sự
thanh-khiết, cho nên mỗi người nào kính-thờ
tưởng-nhớ Thần, luôn luôn phải
giữ tâm ḿnh và thân ḿnh cho thiệt trong
sạch ; không vậy th́ Thần không gần-gũi
ḿnh, không chứng-dám pḥ-trợ cho ḿnh. Người
Nhựt vẫn lấy chỗ tập-tục
thanh-khiết của Thần-đạo bắt
buộc họ mỗi ngày mỗi giờ mỗi giây
mỗi phút như thế là chỗ đặc-biệt
tự-cao ; không như tục-lệ người Tàu
đến khi sắp có cúng tế mới lo
trai-giới mộc-dục (ăn chay, kiêng cử,
tắm gội), bởi vậy là dấu tỏ ra
b́nh-thường không thanh-khiết. Người
Ấn-độ lúc làm lễ Phật phải xông
hương ; đạo Gia-tô xức dầu thơm
trước khi tụng kinh làm lễ, đều là
cách mượn vật che thân. Cái
đặc-sắc của Thần-đạo, là
một nền luân-lư đạo-đức,
chớ không có những lễ-nghi
phiền-phức như các đạo khác, mà
chỉ cốt có một tấm ḷng thành. Họ
lấy ḷng thành là nồng-cốt mực-thước
của mọi đức-hạnh ; lấy đó mà
thờ Thần, lấy đó mà ăn ở
với người, tấm ḷng lúc nào cũng như
nước trong, như gương sáng. Tấm
ḷng thành đó lúc gặp Nho-giáo Phật-giáo
truyền tới, tức thời biết đón rước
dung-ḥa và lựa-lọc cái hay của người
rồi đẽo-gọt lại trở nên cái hay
của ḿnh ; tới sau có văn-hóa Thái-tây tràn
sang, họ cũng tỉnh-ngộ ngay về
chỗ hay dở, về sự cần-dùng mà
tiếp lấy tức-thời, không
chần-chờ do-dự đến đỗi
nguy-vong như ai.
NHO-GIÁO.
- Nho-giáo ở bên Tàu truyền qua nước
Nhựt, vào khoảng Ứng-thần Thiên-hoàng -
應神天皇 - Oujin Tennou năm thứ 16, chiếu theo Tây-lịch,
nhằm năm 285. Ban
đầu Nho-giáo sang Nhựt, xă-hội Nhựt
chẳng hề bị xảy ra mảy may
nhiễu-loạn nào, không như lúc đầu
của đạo Phật và đạo Gia-tô
mới truyền-bá, ḷng người
ngờ-vực, mới cũ ganh nhau, đến
đổi đổ máu. Tại
sao ? Tại
đạo Nho dạy những thuyết phần
nhiều phù-hạp với Thần-đạo và
tập-tánh của người Nhựt. Thiệt
vậy, Thần-đạo dạy người ta
phải hiếu-kính cha mẹ, thờ tưởng
tổ-tiên, phải trọng lễ-nghĩa đạo-đức,
phải trung-quân ái-quốc v.v… th́ đạo Nho
cũng vậy. Cho nên người Nhựt đón
rước đạo Nho một cách vui-vẻ êm-ái,
để tô-điểm thêm vẻ tốt đẹp
cho nền văn-hóa của họ. Nguyên
là đời Ứng-thần Thiên-hoàng, có mấy
vị sứ-thần của nước Bách-tế
(tức Cao-ly bây giờ) qua Nhựt-bổn, đem
theo ngũ kinh tứ thơ dạy cho người
Nhựt, đạo Nho truyền qua từ đó.
Lần hồi nhà vua mở trường đại-học
ở kinh-sư, và truyền lịnh mỗi nước
chư-hầu lập một quốc-học, đặt
ra những chức bác-sĩ, trợ-giáo để
dạy Nho-học cho dân. Nhờ vậy mà sức
truyền-bá của đạo Nho càng ngày càng
thạnh. Có
một lúc Nho-học ở Nhựt đă suy-vi, nhưng
đến đầu thế-kỷ 13 (kể theo Tây-lịch)
nhờ có mấy ông thầy chùa đem
học-thuyết Tống-nho truyền qua Nhựt,
bấy giờ Ở
bên Tàu, khoảng giữa đời nhà Tùy, nhà
Đường, Phật-giáo thạnh-hành quá,
gần muốn làm tiêu Nho-giáo. Sau nhờ
Tống-nho cứu-vớt lại. Trong Tống-nho,
lănh tụ là Châu-tử (1130- 1200), khéo lấy
tinh-thần của Phật giáo mà thay lông đổi
cốt, xướng lên những thuyết lư-khí tâm-tánh,
khiến cho Nho-giáo sắp nguy lại quật lên có
thế-lực. Thuở Hán-đường, nhà nho
hay câu-nệ với những câu nói của thánh-nhơn,
thành ra Nho-học thiếu mất khí sống ;
đến nhà nho đời Tống không vậy,
cốt lấy tinh-thần mà giải-thích đạo
Nho, nói rằng tấc ḷng của thánh-nhơn ḿnh
không cần phải ḍ kiếm ở mấy ngàn năm
trước làm ǵ ; trái lại, chỉ nên ḍ
kiếm ở ngay trong tim, trong óc ḿnh là thấy.
Nhờ Tống-nho phát-minh cái thuyết tánh-lư như
thế mà Nho-giáo lại có hoạt-khí, và
Nhựt-bổn hoan-nghinh Tống-học là
hoan-nghinh thứ Tống học đó. Học
phái Châu-tử đẻ ra ở Nhựt-bổn có
nhiều tay đại-nho, có công to với nền
giáo-dục trong nước. Song
cũng có phái Cổ học nổi lên, chê
Tống-học xen lộn thuyết Phật vô, làm
sái mất cái chơn-nghĩa của
Khổng-tử đi, cho nên họ muốn t́m
suốt đến nguồn Khổng-giáo, để
giữ hệ-thống chánh-quyền. Phái nầy cũng
nảy ra lắm bực danh-nho bác học. Rồi
có học-phái Chiết-trung, nghĩa là ở
giữa hai phái trên đây. Đến
lúc bên Tàu có Vương-dương-Minh -
王陽明 (1472-1528) xướng lên
thuyết Lương-tri 良知 - Ryouchi,
chính người Tàu không biết quư-chuộng
hoan-nghinh, mà nhà nho ở Nhựt lại đón rước
một cách vui mừng nô-nức. Đại-khái
học-thuyết Dương-minh lấy lương-tri
làm gốc, hễ lương-tri (tức là lương-tâm)
của con người ta t́m-ṭi suy xét
một việc ǵ mà biết nó là hay, là phải,
th́ cứ việc mạnh-bạo thực-hành, không
ngần-ngại ǵ cả. Chính là một
học-thuyết chuộng sự thực-hành,
đào luyện cho người ta giàu về
tinh-thần thực-hành vậy. Người
hoan-nghinh học thuyết Dương-minh đầu
hết ở Nhựt-bổn là Trung-giang
Đằng-thụ,
(中江藤樹- Nakae Touju ) một bực cự-phách
trong Châu-tử học-phái. Đến lúc tuổi
già ông ta mới biết học-thuyết Dương-minh
là hay, tức-thời bỏ học-thuyết Châu-tử
rồi ở Cận-giang 近江 dạy học-tṛ, hết sức xướng lên
thuyết “Lương-tri”, nói rằng con người
ta chỉ học suông th́ vô vị lắm, học
phải lo chính ḿnh thực-hành mới là có ích,
vậy th́ chỉ duy có cái đức lương-tri
là có thể biết rơ năng-tánh của mỗi
người và có thể thấy rơ sự
thực-tại của cơi đời. Đằng-thụ
nổi tiếng là Cận-giang thánh-nhơn
近江聖人 - Ooumi Seijin, lôi kéo được số khá đông sĩ-phu
biết bỏ Châu-học là cái học chỉ
chuộng lư-tưởng mà quay về Dương-minh-học
là cái học ganh-đua thực-hành. Lúc
Nhựt-bổn rục-rịch khai-quốc duy-tân,
đám chí-sĩ trong nước xôn-xao hoạt-động,
muốn mưu ích-lợi cho quốc-gia mà rủ
nhau ra sức hô-hào mở-mang văn-minh mới,
trong đó nhà nho chiếm số rất nhiều.
Nhà nho hào-kiệt có tiếng lớn công to
với cuộc duy-tân, như Hoành-tỉnh
Tiểu-nam (横井小楠 - Yokoi Shonan) (1809-1869), Tá-cửu-gian
Tượng-sơn
佐久間像山
- Sakuma Shouzan
(1811-1864), Cát-điền
Tùng-âm 吉田松陰 - Yoshida Shou-in, Tây-hương
Long-thạnh 西郷 隆盛 - Saigo
Takamori
(1826-1877) v.v…. đều là người của phái
Dương-minh. Phái nầy tuy có số ít, nhưng
đẻ ra được anh-hùng hào-kiệt
nhiều hơn. Trong khi phái nho Châu-học bo bo
cố chấp và xướng lên những
thuyết “tỏa quốc nhương di” (khóa các
cửa biển lại, chống-cự người
Tây-phương ra vô) th́ phái nho Dương-minh
biết sự mở cửa đón Tây, duy-tân
tự-cường là sự cần-dùng cấp-bách.
Vậy cho biết cùng là Nho-giáo mà biết
lựa-chọn học-thuyết hay dở, nó
quan-hệ đến cuộc mất c̣n suy
thạnh của một quốc-gia dân-tộc
lắm thay ! Thiệt, dân-tộc Nhựt-bổn
biết đón rước văn-hóa
học-thuật phương-Tây,
không phải không nhờ có chỗ dưỡng-dục
sẵn sàng từ trước ; chỗ đó
Nho-giáo chiếm một phần rất lớn,
nhứt là Nho-giáo theo thuyết Dương-minh. Ta
lại nên nh́n biết trong khoảng một ngàn
mấy trăm năm, Nhựt theo Nho-giáo, là
chỉ ham-chuộng nghiên-cứu những cái
tinh-ba triết-lư của Khổng-tử, chớ không
rước lấy những cặn-bă là hư-văn
khoa-cử của bọn nho Đường
Tống bày ra. Đă vậy mà họ lại
biết nhơn Hán-tự để chế-tạo
ra một thứ văn-tự riêng của ḿnh, không
chịu làm nô-lệ Nho-học Hán-văn một cách
tuyệt-đối như các đệ-tử khác.
Đó là hai cái đặc-sắc học Nho
của họ, mà chính hai cái đặc-sắc
ấy dự phần công-lao rất lớn vô
cuộc duy-tân vậy. Đến
đời duy-tân trở đi, Nho-giáo bị
học-thuật Tây-phương lật đổ,
làm cho tiêu ṃn, nhưng đó chẳng qua chỉ là
h́nh thể Nho-giáo mất đi mà thôi, chớ
tinh-thần Nho-giáo th́ người Nhựt họ
c̣n giữ măi trong tâm-năo và sự giáo-dục
của họ, lấy cái tinh-thần ấy để
bù-chế vào chỗ thái-quá của văn-minh
vật-chất Tây-phương. Vả lại,
Nho-giáo là một dấu-tích văn-minh
cổ-thời của Đông-phương, và chính
Nhựt-bổn có chịu ảnh-hưởng sâu
xa, thành ra không khi nào họ bỏ tinh-thần
Nho-giáo. Ta xem trong chương-tŕnh đại-học
của Nhựt-bổn, vẫn có một khoa
Nho-học Hán-văn, và trong xă-hội vẫn có
những tay học-vấn chuyên-môn nghiên-cứu và
tuyên-truyền những triết-lư của
Khổng-tử ; mỗi năm ở văn-miếu
thờ Khổng-tử vẫn giữ lễ
tế-tự long-trọng như thường.
Họ ra sức chủ-trương và dẫn
nhiều chứng-cớ bày tỏ ra rằng Nho-giáo
có lắm chỗ đi đôi với khoa-học
đời nay, mà không chống-chơi nhau ǵ hết. * PHẬT-GIÁO.
- Phật-giáo truyền sang Nhựt-bổn vào
khoảng thế-kỷ thứ 6 của Tây-lịch,
tự Cao-ly truyền của Trung-quốc rồi
đem qua Nhựt. Các
tôn-giáo khởi lên ở Ấn-độ, đại-khái
đều gốc ở quan-niệm quốc-gia và
nhơn-dân ; duy có Phật-giáo là một tôn-giáo
rộng cả thế-giới, tự phát lên
một vẻ mới lạ tốt đẹp, thành
ra nó dễ tràn-lan truyền-bá ra đến
nửa phần thiên-hạ. Phật-giáo
truyền-bá ra hai ngả khác nhau. Một là phái
Tiểu-thừa 小乗
hay Hinayâna,
người ta cũng gọi là Nam-tôn
南宗 , thạnh-hành ở các xứ Tích-lan và Miến-điện.
Một là phái đại-thừa 大乗 hay Mahâyâna, người
ta cũng gọi là Bắc-tôn 北宗,
thạnh-hành ở nước Tàu và Trung-bộ châu
Á. Đại-khái hai phái hơi khác nhau về
chỗ tin-tưởng niết-bàn (nirvána) ; Nam-tôn chủ-trương rằng người
ta có thể tới niết-bàn do nơi công-phu
tu-luyện và ư-chí tự-do của ḿnh ; nhưng
Bắc-tôn chủ-trương phải nhờ có
sức thiêng-liêng cứu-độ giải-thoát
nhiều hơn là nhờ ư-chí tự-do. Chính
Phật-giáo Đại-thừa đó Cao-ly đem
sang Nhựt-bổn hồi thế-kỷ thứ 6.
Lúc mới truyền qua, Phật-giáo bị
Thần-đạo chống-chơi công-kích dữ
lắm. Nhưng sau những nhà thâu-truyền
Phật-giáo khéo thay-đổi một chút cho thích-hiệp
và không động chạm tới ḷng tín-ngưỡng
Thần-đạo của người Nhựt,
bấy giờ Phật-giáo mới thạnh-hành
truyền-bá ở dân-gian Nhựt-bổn. Nhứt
là từ thế-kỷ thứ 9 trở đi,
Phật-giáo có ảnh-hưởng sâu-xa đến
văn-hóa Nhựt-bổn đủ các phương-diện.
Tư-tưởng triết-lư, chánh-trị, giáo-dục,
mỹ-thuật, công-nghệ, kiến-trúc, công
cuộc xă-hội từ-thiện v.v… nhờ
sức cảm-hóa và sức thâu-thập của
Phật-giáo mà mở mang tấn-tới lạ thường.
Cho đến văn-học thi-ca cũng vậy.
Thứ chữ riêng của Nhựt-bổn gọi
là “Phiến-giả, 片假 - ??”,
gồm có 50 âm, lấy gốc ở văn-pháp
của chữ Phạn
; c̣n
chữ mới là “B́nh-giả 平假 - ??”, sự sắp đặt có ngụ giáo-lư
của Phật-giáo mà làm thành ra ca-dao,
tục-ngữ, kịch-bản, thi-văn. Tóm
lại, gọi là tinh-túy của cổ-văn-học
Nhựt-bổn đều nhờ đạo
Phật cảm-hóa mà ra. Từ
thế-kỷ thứ 9 cho tới trước ngày
duy-tân 1868, Phật-giáo rất có thế-lực,
hầu như quốc-giáo của Nhựt-bổn ;
rồi sau đó Phật-giáo mới tách riêng
quốc-gia và trở nên một Tôn-giáo tự-do
quan-hệ nhứt ở xă-hội Nhựt-bổn
đến nay. Phật-giáo
ngay từ khi mới vô nước Nhựt trở
đi, đă chia ra nhiều tôn-phái, nhưng tôn-phái
nào cũng đóng góp vô cuộc xây-dựng văn-hóa
tốt đẹp rất nhiều, và không
nhiễm phải những cái lưu-độc
của bọn háo-sự bày đặt ra như các
nơi khác. Cũng như đón rước Nho-giáo,
người Nhựt đón rước Phật-giáo
cũng chỉ cầu lấy cái chơn
tinh-thần làm gốc, chính cái chơn
tinh-thần đó phát-huy ra văn-hóa
rực-rỡ cho họ. Văn-học bác-sĩ Cao-nam
Thuận-thứ-lang (高楠順次郎
- Takakusu Junjirou)
đă nói không sai : -
“Phật-giáo qua Nhựt không bao lâu mà
phổ-biến cả trên dưới, ai nấy
đều hâm-mộ quy-hướng. “Chẳng
những Phật giáo cảm-hóa đạo-đức
người Nhựt mà thôi, lại có vang bóng
rất sâu xa tới “mọi việc chánh-trị,
giáo-dục, văn-học, công-nghệ,
mỹ-thuật. Tóm lại, nền văn-hóa xưa
của “nước Nhựt, do Phật-giáo vun-đắp
mở-mang cho phần nhiều. “Có
một điều nên nói cho rơ, Phật-giáo
ở các nước trên đại-lục kia, người
ta đều quên sót cái “tinh-thần khởi-nguyên
của nó, chỉ vồ-vập lấy những
nộc-đọc mối tệ là nhiều. Duy có
Nhựt-bổn “có cái tánh riêng, đối
với văn-vật xứ ngoài truyền vào,
biết lựa chọn tinh-hoa, thảy bỏ
cặn-bă, “rồi nhồi nắn lại, cho
vừa hiệp với quốc-t́nh của ḿnh. Th́
tinh-thần của Phật, gặp được
sự lựa “chọn nhồi nắn đó, mà
nảy được chơn-tướng ra. Cho nên
Phật-giáo của Nhật không phải là
“Phật-giáo của Ấn-độ, cũng không
như Phật-giáo của các nước Chi-na,
Miến-điện, Xiêm-la, “Việt-nam. Các
xứ nầy đều trúng độc, duy có
Nhựt là giữ được tinh-thần
khởi-nguyên của Phật “mà thôi”.
TÓM
LẠI ẢNH-HƯỞNG CỦA BA ĐẠO
THẦN, NHO, PHẬT. - Tới đây tưởng
độc-giả đă thấy rơ rằng : tư-tưởng,
luân-lư, phong-tục, tánh-t́nh, chánh-trị,
học-thuật, mỹ-nghệ, nhứt thiết
những cái hiệp lại thành ra một nền
văn-hóa riêng của Nhựt-bổn sẵn có
từ xưa, đều lấy ở trong
nguồn ba đạo lớn là Thần-đạo
và Nho-giáo, Phật-giáo mà ra. Về
văn-học, kho sách xưa của Nhựt
chứa đầy những sách có giá-trị
của các bực danh-nho, cao-tăng viết ra,
đủ các môn loại : triết-lư, tôn-giáo,
kịch-bản, thi-ca, sử-kư v.v. Có ông soạn
tới sáu bảy chục bộ sách. Đời xưa,
họ đă thạnh-hành in sách truyền-bá
khắp trong dân-gian, chớ không phải viết sách
ra để dành làm riêng của mỗi nhà. Về
mỹ-thuật, kiến-trúc, hội-họa và
điêu-khắc, những tay thợ khéo đời
xưa lưu lại thiếu ǵ kiểu nhà đẹp,
thiếu ǵ bức tranh vẽ tuyệt-bút,
thiếu ǵ đồ chạm trổ thêu dệt có
công-phu tinh-tế lạ lùng. Nhà mỹ-thuật Tây-phương
ngó thấy cũng phải thán-phục. Những
vẻ đặc-biệt về sự sống
vật-chất và sự sống tinh-thần, như
thanh-khiết, giản-dị, lễ-phép, t́nh
quyến-luyến gia-đ́nh, yêu-mến
quốc-gia nồng nàn cực độ, và cái thiên-tánh
ưa cảnh tự-nhiên, cũng là chịu
ảnh-hưởng 3 đạo Thần, Nho,
Phật. Tập-tục
vệ-sanh sạch-sẽ của Nhựt-bổn,
thiệt không phải là thứ nhập-cảng
từ Âu-châu, cũng không phải ở bên Tàu
truyền qua ; nó là tập-tục sẵn có
tự-nhiên ở dân-tộc Nhựt-bổn, do nơi
Thần-đạo bắt buộc mỗi người
tin Thần kính Thần phải giữ thân-thể
và tâm-năo trong sạch luôn luôn, th́ Thần
mới pḥ-hộ, chứng-giám. Tánh
ăn ở giản-dị, có phần tại
lẽ kinh-tế, v́ Nhựt vốn xứ nghèo, có
phần tại vẻ mỹ-quan của người
Nhựt rất ghét thói xa-hoa, chỉ chuộng
sự đẹp thanh-tao, đơn-giản,
nhứt là v́ đạo Thần và đạo Nho
đều dạy người ta phải quư-trọng
giữ-ǵn những sự-sản của ông bà
đă khó-nhọc gây dựng lên mà lưu lại
cho ḿnh ; ḿnh không có quyền được
hoang-phí sự-sản ấy đi một cách ích-kỷ. Nói
ǵ sự lễ-phép của người Nhựt
khắp thiên-hạ đều biết. C̣n
tinh-thần ái-quốc của họ thôi th́
tuyệt-phẩm. Chính v́ tấm ḷng ái-quốc
nồng-nàn, người Nhựt buộc ḿnh cái
nghĩa-vụ phải đóng góp tâm-lực vô công-cuộc
duy-tân nước ḿnh để cho nước cũng
mới-mẻ, cũng hùng-cường như Âu
Mỹ. Ai được chứng-kiến trận
Nhựt Nga chiến-tranh đủ ghê tướng-sĩ
Nhựt yêu nuớc đến đỗi khinh
sống liều chết ra thế nào. Sau hết,
đến tấm ḷng tự phụ nước
non ḿnh là Thần-quốc và yêu mến
phong-cảnh thiên-nhiên một cách thâm-thiết, làm
cho tâm-năo người Nhựt cao-thượng,
đối với sự sống có vẻ hớn
hở tươi cuời hiện ra trên nét
mặt luôn luôn. Ông giáo sư Lafcadio Hearn đă nói
cái nụ cười của người Nhựt
là một sức mạnh lạ-lùng, thiêng-liêng.
Thiệt vậy, nụ cười như hoa
nở tối ngày trên môi ; vui sướng mà cười
đă đành, lúc rầu buồn giận-dữ,
lúc cầm dao tự mổ bụng ḿnh mà nụ cười
vẫn tươi vẫn có mới kỳ. Thế
là Nhựt-bổn sẵn có một nền văn-hóa,
sẵn có những cốt-cách văn-hóa lâu đời
rồi, không phải mù-mờ hèn-thấp ǵ ;
đến lúc tư-tưởng học-thuật
Thái-tây sang Đông, họ thấy cần-dùng th́
tự-nhiên đón rước và cũng dung-hóa như
xưa kia đă đón rước dung-hóa đạo
Nho đạo Phật vậy. Hèn chi họ nói :
“Đứa con văn-minh, chúng tôi đă chửa
sẵn nó trong thai, Âu-châu các ông tới chỉ như
cô mụ đỡ dùm cho nó ra đời, chớ
không phải bổn-lai chúng tôi tối-tăm
ngu-dại, rồi nhờ có văn-hóa các ông th́
chúng tôi mới có văn-hóa đâu”. * ÂU-HÓA CỦA
NHỰT-BỔN. - Nhựt-bổn bỗng chốc
sửa-sang thay-đổi mọi việc, mới
theo phương-Tây, tự mắt người ngoài
ḍm vào cho là sự lạ lùng, c̣n chính họ là
người trong cuộc, chỉ cho là sự
tự-nhiên. Nguyên lai dân-tộc họ từ xưa
vẫn có tánh hâm-hở mạnh-bạo bắt chước
những cái hay của người ta rồi khéo
dung-ḥa uốn-nắn cho hiệp với chỗ
cần-dùng của ḿnh, thành ra lúc trước ngó
thấy Nho-giáo, Phật-giáo có chỗ hay, họ
vội vàng đón rước cũng như bây
giờ ngó thấy văn-minh Âu-châu hay, tự-nhiên
họ cũng vội-vàng đón rước, không
lạ ǵ. Có điều ta nên
nh́n biết rằng thuở xưa dân-tộc
Nhựt-bổn ở dưới chế độ
phong-kiến, có bị áp-chế là áp-chế
về h́nh-thức bề ngoài thôi, chớ về
tư-tưởng học-thuật, dân họ
vẫn tự do dồi-mài lượm-lặt theo
ư họ muốn, nhà cầm-quyền muốn ngăn-cấm
cũng chẳng ngăn-cấm được. Th́
đời Mạc-phủ Đức-xuyên, đằng-đẳng
300 khóa cửa tuyệt giao với người ngoài,
nhứt là với giáo-sĩ Tây-phương,
tức là đời Đông là Đông, Tây là Tây
chưa gặp nhau mấy, lại nghiêm-cấm nhơn-dân
cầu học ngoại-nhơn, thế mà cũng có
những người Nhựt, hoặc lén bỏ nhà
vượt biển ra ngoài mà dọ xét sự t́nh
thiên hạ, hoặc ḷ-ṃ tới Tràng-kỳ
học-hỏi nơi mấy người Ḥa-lan mua
bán tại đó mà biết chữ Ḥa-lan,
biết những thuật chữa bịnh, đúc
súng, trị quân, xây thành của Âu-châu. Thử
xem giữa lúc nhà-nước cấm học Âu-học
mà Nhựt-bổn c̣n cầu-kỳ hào-dị như
thế, có lạ ǵ đến lúc chính nhà-nước
cần dùng đổi-thay lối mới, nhơn-sĩ
họ chẳng ùn-ùn đổ theo Âu-hóa, phát
khởi-chóng mà thành-hiệu mau ! Cũng đem cái
tinh-thần khéo biết chọn-lựa dung-hóa là
tinh-thần sẵn có từ xưa, họ đón-rước
chọn-lựa Âu-hóa : nước nào ở Tây-phương
có món sở-trường th́ họ lọc
lấy món sở-trường ấy, mà tẩy
đi món nào xem ra là sở-đoản và không
lợi cho quốc-t́nh, không hiệp cho gia-dung
của họ, chớ không phải vùa càn quơ bướng
hết thảy. Ví dụ lục-quân hóa theo Đức,
tư-tưởng dân-quyền tự-do hóa theo Pháp,
hải-quân và chế-độ lập-hiến hóa
theo Anh, công-nghệ kiến-trúc hóa theo Mỹ.
Nhiều môn khác, họ trộn chung những cái
hay của người ta, rồi lọc ra lấy
một cái hay nào hơn hết để mà theo.
Họ Âu-hóa những triết-học, chánh-trị,
pháp-luật, giáo-dục, cơ-khí v.v… theo
kiểu lọc bột vậy đó. Cuối
thế-kỷ trước, Nhựt-bổn bắt
đầu Âu-hóa, nhiều người Âu-châu nghe
tiếng hay là ngó thấy, đều ra dáng kiêu
ngạo, Cả hai phái đều
tưởng sái sự thật. Phái trên đợi
đến kết-quả Nhựt Nga chiến-tranh,
tự biết ḿnh bậy rồi : Nhựt họ
Âu-hóa nên thân, chớ không phải là tuồng hát-khỉ. C̣n phái dưới
chỉ ngó bề ngoài mà nói, tới chừng ḍm
xa vô bề trong một chút, họ phải
thấy sự thật hiển-nhiên nầy :
Những cái mà cậu Nhựt kim-thời muốn
bảo tồn dấu-tích nước Nhựt xưa,
c̣n nhiều hơn là những cái mà cậu đă
mượn và muốn mượn của Âu-châu
đời nay. Thiệt vậy, cũng
như ngày họ Nho-hóa, Phật-hóa, ngày nay
Nhựt-bổn không Âu-hóa nhứt-thiết đâu. Họ vẫn giữ
cái cốt-cách xưa của họ về sự
sống vật-chất, như nhà cửa,
vật-dụng, ẩm-thực, y-phục ; cả cái
cốt-cách xưa về sự sống tâm-linh, như
phong-tục, các thói quen, các cuộc giải-trí
v.v… Cho đến nghệ-thuật xưa, luân-lư
xưa, tôn-giáo xưa, họ vẫn
bảo-thủ y-nguyên mặc dầu Âu-hóa. Họ không trọn
vẹn bắt chước văn-minh Âu-châu cho
tới nhứt-thiết cái ǵ ngộ-nghĩnh hơn
hết, đặc-biệt hơn hết, thâm-thúy
hơn hết. Không, không mặc dầu phải Âu-hóa
c̣n nhiều, người Nhựt vẫn so-sánh phán-đoán
ḿnh
Âu-châu thô-lỗ, không được sâu-sắc
lư-thú bằng cổ văn-minh của họ. Thế mà họ
vẫn phải Âu-hóa, là v́ sự cần-dùng
bắt buộc, thời-thế bắt buộc,
tấm ḷng độc-lập tự-tôn của
họ bắt buộc. Coi mấy chương
ở trên đầu sách, độc-giả đă
biết Nhựt-bổn khóa cửa tuyệt giao
từ thế-kỷ 17, đến giữa
thế-kỷ 19, người Tây-phương đem
sức mạnh tới hâm-dọa, biểu họ
phải mở cửa ra trước mặt
của sức mạnh, Nhựt-bổn phải tuân-lịnh.
Bấy giờ cả nước rung-động như
sấm vang núi chuyển ; họ biết rằng
sống bằng lư-tưởng thanh-cao không đủ,
sức mạnh tuy họ gớm ghiếc, nhưng
mà cần dùng. Nước họ tuy có tŕnh-độ
tinh-thần, nghệ-thuật và tôn-giáo khá cao, nhưng
không thể ỷ-thị có bấy nhiêu đó mà
sống đối với đời nầy ;
nếu họ không làm sao cũng có sức
mạnh về quân-sự, về kinh-tế, về
cơ-khí, về công-nghệ như người
ta, th́ bề nào cũng bị ngoại-nhơn
mạnh hơn kéo tới lấy họ làm mồi
để trên dao thớt ; họ sẽ đứng
vào hàng nô-nhan thuộc-địa của Âu-châu. Sự sống và cách
sống của họ xưa nay họ quư-chuộng
mến-yêu lắm, không thể nào rời bỏ ;
họ đoán biết thân ḿnh nếu rủi
để cho ngoại-nhơn tới nước
họ làm chủ, họ sẽ buộc ḿnh đổi
thay mất sự sống và cách sống riêng
đó, cho tới tánh-t́nh, phong-tục của
tổ-tiên để lại cho, cũng không sao
giữ nguyên vẹn được đâu.
Huống chi non-nước của Thần, ḍng dơi
của Thần, lẽ nào để ai xa lạ
đâu tới nuốt sống và nhận ch́m
xuống cho đành. Vậy th́, cho được
giữ nguyên văn-hóa tổ-truyền, họ
muốn họ vẫn tự-do độc-lập,
cho được tự-do độc-lập,
họ muốn trở nên hùng-cường, cho
được trở nên hùng-cường, họ
phải bắt chước phỏng theo ít
nhiều món của cái văn-minh Âu-châu kia đă
lấy sức mạnh mà ấn đại vô nhà
họ. Những chế-độ
học-thuật ǵ của Âu-châu mà họ xem ra Âu-châu
được hùng-cường độc-lập
bởi đó th́ họ bắt chước
phỏng theo có bấy nhiêu thôi. Ngoài ra, chính
họ cũng sẵn có những món không kém thua
ai, c̣n hay hơn nữa không chừng. Ta nên hiểu cái
chủ-nghĩa, cái thâm-tâm của Nhựt-bổn
Âu-hóa là thế. Trước hết,
họ mượn của Âu-châu những cơ-quan
mới lạ, cần dùng cho việc hộ-vệ
non-nước, là lục-quân và hải-quân. Cho
được giao-thiệp bằng vai ngang bực
với các nước Âu Mỹ và chỉ tỏ
ra họ cũng là một quốc-gia văn-minh tân-thời,
họ bèn Âu-hóa những chế-độ chánh-trị
và pháp-luật. Cho được làm nên công-cuộc
duy-tân lớn lao, về xă-hội, về quân-sự,
về kinh-tế, tất nhiên phải cần
nhiều tiền, họ bèn vay mượn tiền
bạc của các nước Tây-phương
để dựng lên đại-thương-măi và
đại-công-nghệ theo Âu-hóa. Cho được
Âu-hóa các chế-độ cơ-quan trong nước,
Âu-hóa cả thương-măi, công-nghệ, quân-sự
; cho được tự ḿnh đào-luyện ra
cho ḿnh có những tướng, những quân,
những quan ṭa, những thầy thuốc,
những kỹ-sư, mỗi mỗi như Âu-châu,
Nhựt bèn mở mang sắp-đặt một khuôn-khổ
giáo-dục mới, một phần dựa vào
khoa-học Âu-châu làm gốc. Hết thảy
những sự bắt chước đó đều
phát-động ra bởi cái ư-chí can-cường
của người Nhựt muốn trở nên
mạnh để vẫn được tự-do,
vẫn được tự-do để giữ
lấy lối sanh-hoạt riêng, tư-tưởng
riêng của ḿnh từ xưa. Th́ ra
Nhựt-bổn chỉ Âu-hóa để
đương đầu với Âu Mỹ cho
dễ và để vẫn là Nhựt-bổn cho
dễ đó thôi. Bởi vậy,
phần nhiều cái họ Âu-hóa chỉ như
bao-phủ lơ thơ một lớp bề ngoài ;
lắm người Âu Mỹ thật thà không
biết, tưởng đâu là Nhựt họ Âu-hóa
không nên thân, Âu-hóa như hát khỉ ; chớ
kỳ-thiệt họ chủ-tâm Âu-hóa một cách
có chừng vậy đó. Đến nay cũng
thế, Âu-hóa trải 70 năm dư, mà nước
Nhựt kim-thời vẫn ở bên cạnh
với cổ Nhựt-bổn hơn là với kim
Âu-châu (En tout cas, aujourd’hui encore, le Japon moderne reste
plus voisin du vieux Japon que de la moderne Europe. - FÉLICIEN
CHALLAYE). Có lẽ không
một người Tây-phương nào cho bằng
ông giáo-sư Lafcadio Hearn thấy rơ tới
những lằn xếp ở trong trái tim khối
óc của dân-tộc Nhựt-bổn, là v́ - như
trên kia đă nói - ông ta sống làm giáo- MỘT NGƯỜI
BẢO-THỦ. - Muốn h́nh-dung ra cái hiện-tượng
“hóa Tây giữ Đông” của dân-tộc
Nhựt-bổn. Ông giáo-sư Lafcadio Hearn chép
truyện một chàng thanh-niên con nhà Thần-đạo
vơ-sĩ của Nhựt ở giữa
thế-kỷ 19, mà ông đặt tên là “Một
người bảo-thủ”. Thuở nhỏ, anh
nầy cũng phải chịu sự giáo-dục
nghiêm-khắc như con nhà vơ-sĩ khác. Người
ta rèn-tập ảnh phải chịu đói
chịu lạnh cho quen. Người ta dạy
dỗ ảnh cái đạo lập-thân
xử-thế, bất cứ gặp
cảnh-ngộ nào cũng phải ung-dung
trấn-tỉnh, coi thường sự đau-đớn
khổ-sở, xem khinh sự chết và đừng
thèm sợ hăi ǵ hết. Bởi vậy, có
bữa - cách giáo-dục lạ thay ! - người
ta dẫn ảnh đi xem một vụ xử
trảm, căn dặn khi ngó thấy gươm chém
đầu rơi, không được rùng ḿnh
biến sắc chút nào. Trở về, ảnh
phải ăn một chén cơm chan canh đỏ
tươi như sắc máu. Đến đêm, người
ta sai ảnh ra chỗ xử trảm ban ngày mà t́m
cái đầu rụng đó đem về. Cả
ngày, anh chàng hết giờ luyện tập vơ-nghệ,
th́ tới giờ nghiên-cứu Hán-văn,
Nho-học và những triết-lư của Thần-đạo
của Phật-giáo. Không bao lâu, anh chàng trở nên
một người vơ-dơng, lễ-độ, liêm-khiết,
hâm-hở đem tấm-thân của ḿnh
cống-hiến cho nước, cho vua, cho đồng-bào,
cho danh-dự. Lúc nầy có đoàn
tàu chiến của ngoại-quốc ra vô
phấp-phới ở cửa biển Hoành-tân,
Giang-hộ, hâm dọa bắt buộc
Nhựt-bổn phải mở cửa thông-thương.
Chàng thiếu-niên vơ-sĩ ta thấy
tổ-quốc bị khinh-khi như thế, th́ khí
phẫn-uất nổi lên đùng đùng. Nhưng
không biết làm sao nhận ch́m cả đoàn tàu
của kẻ nghịch đi, tối ngày chàng
khấn vái Thần Phật
lấy phép linh xô đẩy ra khỏi bờ
biển Pḥ-tang hay là dùng cách nào đánh ch́m nó
xuống đáy biển hết thảy. Cả dân-tộc
cũng đều một lời khấn vái như
chàng vậy. Song đoàn tàu vẫn trơ trơ
bất động ; Thần Phật làm ngơ.
Liền đó, Mạc-phủ tới. Trào-đ́nh,
tự thú ḿnh vô-lực để chống
lại sức mạnh của người Tây-dương,
bèn hạ lịnh cho nhơn-dân phải mau mau
học lấy ngôn-ngữ và học-thuật Âu-châu.
V́ sự sanh-tồn của quốc-gia quan-hệ
ở đó ; nếu không duy-tân cải-cách
sớm lẹ, th́ nguy cho nền độc-lập
của dân-tộc quốc-gia. Chàng thanh-niên vơ-sĩ
ta liền đi học tiếng Anh ở một
hải-cảng bị buộc mở ra giao-thông lúc
bấy giờ ; chàng háo-kỳ, nên chăm-chỉ
nghiên-cứu dọ hỏi cả những sự-t́nh
của các nước Tây-phương. May sao
gặp được một vị giáo-sĩ Thiên-chúa
thấy chàng là người chí-sĩ, bèn đem ḷng
thương, dạy chàng học Thánh-kinh. Chàng
tự suy-nghĩ trong trí, có lẽ tại người
Âu-châu có một nền luân-lư rất cao, cho nên
họ mới hùng-cường quái lạ như
thế kia chăng. V́ tấm ḷng ái quốc sai
khiến, chàng trở nên tín đồ Gia-tô và
vẫn cặm-cụi nghiên-cứu những
học-thuật Âu-tây. Lần hồi, chàng
tự tỉnh-ngộ và tin quyết rằng
tinh-thần khoa-học chống chơi với đạo-lư
Gia-tô, và chống-chơi với cả những tôn-giáo
tổ-truyền Nhựt-bổn nữa. Bảo
rằng có một ông Thượng-đế
chủ-tể vơ-trụ và linh-hồn của
mỗi người tràng-sanh bất-diệt, th́ làm
sao mà tin cho được. Chàng nghĩ trong
trời đất không có cái tính thiêng-liêng nào
hơn là cái t́nh người đối với người
th́ mới phải. Rồi đó chàng thôi không tín-ngưỡng
đạo Gia-tô nữa. Bây giờ, muốn phán-đoán
Âu-châu cho đúng, chàng quyết đi du-lịch
quan-sát Âu-châu một phen. Chàng qua ở quanh các
nước Âu-châu rất lâu năm, tự mưu
lấy sự sống của ḿnh, cho nên hết làm
việc bằng tay th́ làm việc bằng năo,
cốt để kinh-nghiệm cho nhiều, và
mắt ngó thấy mỗi sự vật ǵ, chàng cũng
chịu khó t́m xét suy nghĩ đến nơi. Thử hỏi sau
cuộc du-lịch quan-sát đó, chàng thanh-niên vơ-sĩ
có cảm-giác và phán-đoán ra thế nào ? Té ra trước
cặp mắt chàng xem xét, th́ văn-minh Âu-châu có
mở-mang thông-minh của con người ta
một cách đáng sợ thiệt, nhưng nó
vẫn thiếu giá-trị về tinh-thần. Cái
chỉ tỏ ra đặc sắc của Âu
Mỹ, chỉ là sức mạnh vật-chất
của họ tràn lan mở rộng ra một cách
dữ-dằn, do nơi một công cuộc
cạnh tranh nhau gớm-ghiếc mà ra. Sự
sống là một đám vật lộn tranh ăn
giữa đàn beo sói. Kẻ mạnh và kẻ khôn-lanh
làm cho thế-giới thành ra địa ngục
cho những kẻ hèn-yếu. Thói xa-hoa hoang-phí vô
độ của một bọn người
bắt cả phần đông phải làm tôi
mọi mà không biết thương-hại một
chút nào. C̣n biết bao nhiêu con người ta
khổ-năo tới nước những sự
cần dùng thiết thân cho họ mà họ không có.
Chỉ v́ tánh dâm-lạc trong một vài giờ, mà
thói kiêu-căng của bọn giàu có nhai nuốt
mất cả công-lao nhọc-nhằn hàng mấy
chục năm. Rồi chàng nghĩ bụng :
“Bọn ăn thịt người ở đời
văn-minh c̣n độc dữ bằng mấy
bọn ăn thịt người ở chốn
rừng rú, là v́ chúng đ̣i thịt măi, không
biết bao nhiêu cho vừa !” Mà hễ xă-hội càng
lớn lên chừng nào, th́ vực thẫm hang sâu
đau-đớn khổ-sở của xă-hội
đặt ḿnh lên trên đó càng thêm sâu thẫm
chừng nấy. Người Âu-châu chỉ
biết tôn-trọng có sức mạnh mà thôi, coi
sức mạnh như thần thánh ; rơ ràng họ
thờ-phượng những vị thần
bạo-ngược đời xưa là Odin và
Thor, mà đổi tên khác đi đó thôi. Cái
thế-giới đó không c̣n có đức tín ǵ
hết. Rồi th́ anh
Nhựt-bổn nầy cả quyết xuống tàu
trở về tổ-quốc đứng lên hô-hào
đồng-bào d́u-dắt quần-chúng. Chương-tŕnh
hành-động của anh ta rất là đơn-giản
: - “Anh em chúng ta
chỉ nên mượn của Âu-châu những cái
ǵ cần dùng cho sự hộ-vệ
tổ-quốc ta “mà thôi, c̣n th́ ta vẫn
phải giữ những cái tinh-hoa của văn-minh
nước Nhựt cổ mới được”. Câu chuyện tóm
tắt đại-khái trên đây, thật khéo
tả rơ ra cái chủ năo Âu-hóa của dân-tộc
Nhựt-bổn ; nó không phải là tư-tưởng
cố-chấp của một người đâu,
chính là tấm gương chiếu rọi chung
cả tinh-thần dân Nhựt vậy. Quả thiệt,
Nhựt-bổn họ chỉ cốt Âu-hóa để
cho dễ chống-chơi với Âu-châu và cho dễ
c̣n y là người Nhựt đó thôi. XĂ-HỘI CHỦ-NGHĨA.
- Trong thời-đại duy-tân, văn-hóa Thái-tây
vang dội đến cuộc sanh-hoạt chánh-trị
và xă-hội Nhựt-bổn, có hai cái sức
mới, thế-lực rộng lớn : Xă-hội
chủ-nghĩa và Phụ-nữ vận-động. Xă-hội chủ-nghĩa
truyền vô nước Nhựt vào khoảng 1890,
nghĩa là sau lúc thực-hành duy-tân mới
được 22 năm. Những tín-đồ
xă-hội chủ-nghĩa trước hết
ở nước Nhựt chính là những người
Nhựt tín-đồ Thiên-chúa. Lúc nào nước
họ luôn mấy trăm năm ngờ vực
cấm tuyệt đạo Thiên-chúa, tới
chừng khai-quốc duy-tân, họ lại
lợi-dụng ngay đạo Thiên-chúa và các ông
cố đạo làm xe chở học-thuyết
nọ chế-độ kia của Âu Mỹ đem
qua cho họ. Katamaya, nhà
viết báo, Kinoshita,
nhà văn-học, Abe,
cựu giáo-sĩ và giáo-sư, đều là người
truyền-bá xă-hội chủ-nghĩa đầu
hết. Nhưng họ là người xă-hội
chủ-nghĩa ôn-ḥa, chịu ảnh-hưởng
Tolstoi. Có nhiều người
khác tư-tưởng mạnh bạo hơn, như
Sakai, chủ-trương
phổ-thông đầu phiếu và Kotoku,
cộng-sản, chủ-trương lấy
tổng băi-công làm khí-giới để đối
phó với tư-bổn. Các nhà xă-hội
chủ-nghĩa Nhựt-bổn hoạt-động
cũng hăng-hái : nào là dịch những sách
của Marx, Engels và Kropotkine, nào là mở ra
những báo-chí làm cơ-quan truyền-bá
chủ-nghĩa xă-hội, nào là tổ-chức ra
các cuộc mết-tinh, nào là xướng-khởi
nhiều vụ băi công. Kể tới tháng
chạp năm 1904, xă-hội chủ-nghĩa
mới hoạt động có 14 năm, mà họ bán
được 15.000 cuốn sách dịch của Âu-châu, 200.000
tờ báo, 39.000 tập sách cổ-động, 120
cuộc đại-hội và lập ra nhiều
chi-bộ ở trong 11 nơi có thợ khai mỏ và
xưởng công-nghệ lớn lao.
Ban đầu chánh-phủ
c̣n dung dưỡng, nhưng sau thấy chủ-nghĩa
xă-hội có cái phong-trào vận-động
cộng-ḥa, tức là có ư-nghĩa phản-đối,
cách-mạng, xâm phạm bất-kính với
quyền tuyệt-đối của đức Thiên-hoàng.
Bấy giờ chánh-phủ mới ra tay
trừng-trị : tịch thâu, hủy đốt
những sách của Marx ; các báo xă-hội hơi
nói quá một chút đều bị phạt
vạ rất nặng, các ông trợ bút
chủ-nhiệm thường bị kêu án tù năm
mười năm, c̣n nhà in th́ bị tịch-biên
mất. Sức đè
xuống càng nặng, th́ sức bùng lên càng
nhiều. Năm 1910, vợ chồng Kotoku
và mấy chục bạn đồng-chí xă-hội
chủ-nghĩa rủ nhau sắp đặt ám-sát
Minh-trị Thiên-hoàng và khởi loạn. Nhưng cơ-mưu
bị bại-lộ ; họ đều bị
bắt. Ngày 24 janvier 1911, hai vợ chồng Kotoku
và muời người nữa bị xử
tử. Dầu bị
trừng-trị cấm ngăn mặc ḷng, đảng-viên
xă-hội Nhựt-bổn vẫn hoạt-động,
vẫn tuyên-truyền, nhứt là trong đám
thợ-thuyền, cho tới thanh-niên học-sanh và
hạng trí-thức vô-sản cũng quy hướng
chủ-nghĩa xă-hội rất nhiều. Bắt đầu
từ năm 1807, thợ mỏ ở Trường-kỳ bỏ
việc, nắm đầu ông chủ và hai người
lính cảnh-sát mà đánh gần chết, từ
đó trở đi thợ thuyền
Nhựt-bổn, chịu ảnh-hưởng xă-hội
chủ-nghĩa, có tổ-chức thành ra liên-đoàn
hẳn-ḥi và tổ-chức ra những cuộc
đ́nh-công luôn luôn. Thợ-thuyền đàn bà cũng
vậy. Tinh-thần cách-mạng
càng ngày càng bồng bột. Bởi vậy các nhà
cầm-quyền ở Nhựt-bổn vẫn lo
sợ phong-trào cộng-sản tràn-lan qua nước
ḿnh. Họ phải chiếm-cứ Măn-châu và tính
xâm-đoạt cả Nội, Ngoại Mông-cổ
nữa, là cốt đóng đường chận
ngơ cộng-sản qua nước Nhựt đó. Nhiều người
Âu-châu xem xét t́nh-trạng Nhựt-bổn rồi
nói trước rằng rồi đây thế nào
cũng thực-hành một chế-độ
cộng-sản mới, chế-độ
cộng-sản Thiên-hoàng làm chủ, để cho
được điều-ḥa tấm ḷng người
ta trung-thành với cuộc dĩ-văng và tấm ḷng
hâm-mộ những sự mới lạ đời
nay. Kỳ thiệt, dân
Nhựt chỉ mượn chủ-nghĩa xă-hội
để làm khí giới đối-phó với
những tay quư-phái, nghiệp-chủ, phú-gia, không
đè-nén ức-hiếp họ được
nữa thôi, chớ không khi nào trong tâm-năo họ
mất được cái tinh-thần trung-nghĩa
sùng-bái Thiên-hoàng. Vụ âm mưu của hai
vợ chồng Kotoku
đă nói sơ trên kia chỉ là chuyện muôn ngàn
thuở vậy thôi. Từ đó tới nay
gần ba chục năm trời, thỉnh
thoảng vẫn có một vụ âm-mưu hay ám-sát
có mục-đích chánh-trị chớ chẳng không,
nhưng chỉ là đối với quan-liêu chánh-khách
mà phát ra, c̣n đối với Thiên-hoàng, dầu
kẻ gây biến làm phản tới đâu cũng
vẫn là đặt cao trên đầu, coi như
“thần-thánh bất khả xâm phạm”. * PHỤ-NỮ
VẬN-ĐỘNG. - Địa-vị gia-đ́nh
và xă-hội của đàn bà Nhựt xưa kia cũng
bó buộc thấp-thỏi như chị em nhà Nam
chúng ta vậy. Cũng y như ḿnh, sợi dây luân-lư
nghiêm-khắc trói buộc họ không biết là
mấy ṿng : tứ-đức, tam-ṭng,
chức-nghiệp, tiết-tháo v.v. ṿng nào cũng
riết chặt
lạ lùng. Đến đỗi đàn bà
phải thờ Trinh-nữ-đạo
貞女道
thiêng-liêng như đàn ông phải thờ Vơ-sĩ-đạo ; một chương trên xa kia
đă nói. Song, tới lúc
quốc-gia dân-tộc bước vào cơi duy-tân,
mọi việc ùn ùn sửa đổi theo
ảnh-hưởng văn-hóa Thái-tây, tự-nhiên
địa-vị phụ-nữ cũng vậy. Đồng thời
với xă-hội chủ-nghĩa, phụ-nữ
vận-động cũng xuất-hiện ở
Nhựt. Nhờ nơi phụ-nữ tự-giác
mạnh bạo, mà cũng nhờ nơi công-cuộc
Minh-trị giáo-dục xô đẩy phần
nhiều. Độc-giả đă thấy trong
tờ sắc lịnh thề-nguyền duy-tân
của Minh-trị, việc quan-hệ nhứt là
việc quốc-dân giáo-dục, trai gái cũng
thế. Phụ-nữ giáo-dục
vừa mới gây-dựng mở-mang theo cách-thức
Thái-tây được mươi lăm năm,
liền có phụ-nữ vận-động
nổi lên. Các cô có học-thức mới,
nhứt là các cô đi du-học Âu Mỹ về,
xúm nhau tổ-chức hoạt-động, và có
khi yêu-cầu ra mặt nữa, cho địa-vị
và quyền lợi đàn bà được
sửa-đổi theo thời. Họ muốn
sửa-đổi ít nhiều khoản ở trong
luật-phép, phong-tục, mà trào-đ́nh chánh-phủ
phải chiều theo. Bởi vậy trong bộ Dân-luật
mới thảo giữa hồi duy-tân, sự yêu-cầu
của đàn bà được thỏa-măn, như
là nhứt định một vợ một
chồng, bỏ hẳn thói tục đa thê ngày
trước, lại cho đàn bà cũng được
có sản-nghiệp riêng, và có quyền như
đàn ông được đứng lên xin ly-hôn
v́ lẽ chồng có ngoại t́nh. Về mặt
chức-nghiệp, họ cũng được
thỏa-nguyện và được b́nh-đẳng
với đàn ông ; nghĩa là các ty các sở,
bất cứ công tư, đều mở rộng
cửa cho viên-chức đàn bà. Họ cũng
đậu đốc-tơ, mở
bịnh-viện, hay là làm trạng-sư ngang vai
đồng bực với đàn ông. Duy có về mặt
sửa-đổi phong-tục và luân-lư gia-đ́nh,
chị em bên Nhựt đă phải nhiều phen
lao tâm khổ tứ, kêu gào chống-chơi lắm
mới được. Họ không chịu cái
lối hôn-nhơn “cha mẹ đặt đâu
ngồi đó” nữa. Nhiều cô ra mặt
phản-kháng gia-đ́nh, không chịu lấy anh
chồng do cha mẹ hay gia-đ́nh lựa chọn,
mà các cô không biết mặt-mày tâm-tánh và không
thể nào thương. Ngoài đường, người
ta thấy nam nữ học-sanh dắt tay nhau đi
lại tự-nhiên ; cái luân-lư “nam nữ thọ
thọ bất thân,
男女授受不親 ” của thói Nho xưa, các cô đă hất
đi xa lắc. Trong nhà, kính chồng chiều
chồng đă đành, nhưng anh chồng lâm le
ràng buộc các cô bằng những sợi dây luân-lư
hà-khắc như xưa, th́ các cô “cách-mạng”
ngay, không chịu bị ép một bề. Phụ-nữ
vận-động lúc bấy giờ có nhiều
tay kiện-tướng đứng ra xung phong đột
trận, sốt sắng kêu gào. Nổi tiếng
thứ nhứt là cô Ume
Tsuda, giáo-sư trường Quư-tộc
nữ-tử học-hiệu, đă nhiều
lần thay mặt chị em đi dự mấy
cuộc Phụ-nữ thế-giới đại-hội
ở Âu-châu và Mỹ-châu. Họ lập ra
nhiều báo-chí làm cơ-quan cho phụ-nữ
vận-động, làm chủ và viết bài toàn
là đàn bà. Có mấy cô có tư-tưởng
cấp-tấn, muốn nhập phụ-nữ
vận-động và xă-hội chủ-nghĩa làm
một, để nâng cao địa-vị của
phụ-nữ b́nh-dân, và sanh-kế
quyền-lợi của họ ; không phân
giai-cấp. Phụ-nữ vận-động
trải qua thời-gian không mấy, mà thâu
được kết-quả khá nhiều ; ngoài
ra những kết-quả vật-chất, người
ta thấy tinh-thần tự-do và bác-ái nhiễm sâu
trong óc của các hàng phụ-nữ Nhựt, giàu
sang nghèo hèn không c̣n là hàng rào cách biệt như
xưa. Rất đỗi có những cô con gái quư-tộc,
thà bỏ địa-vị sang giàu, thà bị bôi
tên trong sổ quư-phái, để tự-do
kết-hôn với một anh học tṛ nghèo, hay là
một chú thợ b́nh-dân. * KINH-TẾ, LƯ-TÀI, CÔNG-NGHỆ,
THƯƠNG-MĂI ĐỀU “ÂU-HÓA”. - Mấy
việc kinh-tế, lư-tài, công-nghệ, thương-măi,
chẳng phải nhờ có ảnh-hưởng Thái-tây
dội qua Nhựt-bổn mới có, mới
biết đâu. Chỉ có thể nói rằng
nhờ ảnh-hưởng Thái-tây khiến cho
Nhựt-bổn mở mang sửa-đổi
những việc ấy trở nên mới mẻ
rộng lớn, theo thời-đại và theo Thái-tây. Thiệt vậy, người
Nhựt thuở xưa đă từng sanh-tồn
về công-nghệ, ham chuộng ganh đua về công-nghệ.
Họ có nhiều món công-nghệ đặc-biệt
của họ. Nhứt là mấy món đại công-nghệ
như dệt sơn, chạm, vẽ, họ
vốn có căn-cơ và đặc-sắc lâu
đời. Thương-măi cũng vậy. Th́ năm sáu trăm
năm trước người Nhựt đă vượt
biển qua buôn bán ở Ấn-độ, Nam-dương
quần-đảo, Xiêm-la, Việt-nam, các xứ
ở quanh phương Đông, không mấy xứ không có
dấu cẳng vết chưn của chú lái buôn
Nhựt, ganh đua mạo-hiểm và thương-lợi
với người Tàu. Nước ta, giữa
đời nhà Lê, miền Bắc có
Phố-hiến (thuộc tỉnh Hưng-yên bây
giờ) là thành-phố buôn bán tụ tập các
ngoại-thương, bên cạnh những tiệm
buôn của người Hồng-mao, người Ḥa-lan,
người Tàu, có những tiệm buôn của người
Nhựt. Miền Nam, thuở họ Nguyễn làm chúa,
ở Hội-an (Faifoo, tỉnh-lỵ Quảng-nam bây
giờ) cũng có người Nhựt tới
mở tiệm mua bán, nhiều cậu lấy
vợ An-nam đẻ con rồi chết chôn ở
đó, mồ mả đến nay vẫn c̣n
dấu-tích. Có lần một chiếc ghe buôn
của họ gặp sóng gió đánh ch́m ở
hải-phận ta, h́nh như Mạc-phủ
Nhựt-bổn lấy nghĩa bang-giao tương-trợ,
viết thơ qua cầu trào-đ́nh nước
Nam giúp sức đóng dùm cho những người
sống sót kia một chiếc ghe để họ
về xứ. Họ phải ở lại chầu
chực cả năm, quan ta và thợ mộc ta không
sao đóng nổi chiếc ghe to lớn để
vượt biển khơi như họ được.
Nhắc mấy chuyện nầy lại cho biết
xưa kia người Nhựt từng chuộng thương-măi
và mạo-hiểm thông-thương ra thế nào
rồi. Cho đến cơ-quan
lư-tài, ta gọi là nhà băng hay ngân-hàng, không
phải đợi tới giữa thế-kỷ
19, nước Nhựt cổ-thời đă có
những nhà ngân-hàng lớn, sắp đặt
theo cách cha truyền con nối. Xưa gọi là
“Tiền-trang
銭莊 ”, nghĩa là một nơi đổi chác
gởi gấm tiền bạc để mua bán, th́
chính công việc nhà băng ngày nay. Nổi tiếng
nhứt là Tiền-trang nhà Tam-tĩnh
(三井-
Mitsui), tổ-tiên của nhà triệu-triệu-phú Tam-tĩnh (Mitsui) ở nước Nhựt bây
giờ, làm chủ không biết bao nhiêu là nhà băng,
xưởng tàu, mỏ than và những công ty buôn
bán lớn, người ta gọi là ông vua lư-tài
ở nước Nhựt, sản-nghiệp có
lẽ giàu hơn ông vua dầu-hôi Rockefeller ở
Huê-kỳ nhiều. Đường Chaigneau ở
Saigon ta đây, ai đi qua để ư chắc
thấy một nhà treo bảng “Tam-tĩnh
dương-hàng (三井洋行
- Mitsui Youkou)” th́ là một chi-nhánh của nhà Mitsui, hầu
khắp thế-giới đều có chi-nhánh. Nhà Tam-tĩnh mở ra công-cuộc buôn bán lớn lao
ở Kinh-đô (Kyoto, nơi đóng-đô của
vua Nhựt hồi xưa) từ thế-kỷ 16.
Qua đến thế-kỷ 17, nhà nầy khéo
sắp-đặt cách-thức giao-dịch
chở-chuyên tiền bạc khắp trong nước
Nhựt. Cuối thế-kỷ 17, Mạc-phủ
Đức-xuyên phó-thác việc kiểm soát lư-tài
cho nhà Tam-tĩnh.
Tục-lệ nhà nầy, cha truyền con nối,
trông coi sản-nghiệp và càng ngày mở-mang thêm
giàu thêm lớn ra măi ; sự kinh-doanh và giàu
lớn đă có trước khi Âu-hóa sang Đông.
Đến thời-kỳ Minh-trị duy-tân, nhà
Tam-tĩnh sắp-đặt sửa-sang lại công-cuộc
kinh-doanh đồ sộ của nhà ḿnh theo cách Âu-tây. Xem sơ như
vậy, là độc-giả đủ thấy trước
hồi Minh-trị duy-tân, nước Nhựt
từng có trí-thức riêng và căn-cơ
thực-lực riêng của họ về
kinh-tế, lư-tài, công-nghệ, thương-măi
rồi đó. Nhờ có trí-thức
và căn-cơ sẵn-sàng đó, thành ra đến
lúc Âu-châu qua xông đại vô nhà
Nhựt-bổn mà đánh thức họ vùng
dậy, quanh quẩn không có bao nhiêu năm, đại-công-nghệ,
đại-thương-măi, đại-lư-tài
của xứ họ mở-mang xây-dựng lên
đồ sộ lạ lùng. Th́ nền móng có
sẵn rồi, họ chỉ có việc xây cao
đắp rộng ra bằng vật-liệu
mới và nhơn-công mới thôi. Nếu như
canh-nông và tiểu-công-nghệ, tiểu-thương-măi
c̣n thấy những dấu-tích quang-cảnh
Nhựt-bổn cổ-thời, nhưng kể toàn-thể,
người ta có thể nói rằng t́nh-h́nh
kinh-tế hoạt-động ở nước
Nhựt đă Âu-hóa, Mỹ-hóa, tân-thời-hóa
một cách sâu-xa lắm. Bởi sự-thế
không vậy không được ; Nhựt-bổn
phải Âu-hóa từ kinh-tế lư-tài cho đến
thương-măi công-nghệ xứ họ, cũng
như họ đă Âu-hóa cả những
lục-quân hải-quân, chánh-trị luật-pháp
vậy. Ngay lúc mới bắt tay vào cuộc duy-tân,
họ háo thắng và phấn-phát lạ-lùng :
“Hễ Âu Mỹ có thứ ǵ th́ ta cũng
phải có thứ nấy, tổ-chức như
họ, hùng-cường như họ, có thế ḿnh
mới tự-lập và tranh-hành với thiên-hạ
được”. Bấy giờ,
phần nhiều là các ông phiên-vương chư-hầu
trả đất nạp quyền lại nhà vua
nhứt-thống rồi, đem vốn liếng
tiền bạc ra lập những nhà máy nọ, hăng
buôn kia, kinh-doanh các cuộc thương-măi công-nghệ
lớn lao. Từ năm 1872 trở đi, nhà băng
dựng lên như nấm mọc, để giúp
vốn cho người ta mở-mang chế-tạo
buôn bán. Nhưng ban đầu, mọi việc
kinh-tế lư-tài do sức dân và của dân hè nhau
sắp-đặt xây-dựng mặc ḷng, nhà-nước
vẫn có quyền xem xét, chỉ bảo, d́u
dắt, tức là thực-hành chánh-sách
“Kinh-tế chỉ-huy” (Economie dirigée). Bên
cạnh Minh-trị Thiên-hoàng, có một hội-đồng
cố-vấn làm việc đêm ngày, gồm
những người cẩn-thận sáng suốt và
chuyên-môn về các vấn-đề kinh-tế,
ngồi đó suy-nghĩ t́m-ṭi, làm như
ngồi cầm lái, để sai khiến cả
bộ máy kinh-tế trong nước. Chủ-ư nhà-nước
buổi đầu cốt trông nom chỉ dẫn
cho dân, làm việc ǵ đều nên việc
ấy, kẻo sợ có những người
hấp-tấp nóng nảy quá mà làm hư việc
đi, không những hao-tốn tài-lực của ḿnh
đă đành, c̣n e tổn-thương đến
công-cuộc duy-tân của nhà-nước nữa.
Sau mươi lăm năm kinh-tế chỉ-huy, nhà-nước
mới để dân tự-do kinh-doanh hoạt-động.
Một việc đó đủ chỉ tỏ cho
người ta thấy công-cuộc Minh-trị duy-tân
là một công-cuộc sắp-đặt, tính-toán
rất kỹ-lưỡng chi-li, không có một
mảy nào bơ thờ quên sót vậy. Trên kia đă nói
Nhựt phải nôn-nao Âu-hóa cả công-nghệ thương-măi,
là bởi sự-thế bắt buộc không
vậy không được. Sự-thế bắt
buộc để tranh-hành với thiên-hạ, mà
cũng bắt buộc v́ lẽ trăm công ngàn
việc sửa-đổi có liên-lạc
quan-hệ với nhau, mà sự cần dùng hơn
hết chính là tiền bạc. Thiệt vậy,
cho được thực-hành sửa đổi
to lớn lạ lùng về quân-bị, về chánh-trị,
về giáo-dục, như Nhựt đă làm thành-công
kết-quả đó, Nhựt đă cần
phải vung tay trút túi, xài những món tiền
hao-tốn gớm ghê, tự-nhiên họ phải
hối-hả mở-mang ra đại-công-nghệ
và đại-thương-măi theo như Âu-châu,
để có tiền bạc dồi dào làm
việc duy-tân. Sự biến-hóa
cải-cách như thế, chính là do nơi ư-chí
sắt đá của giống người Nhựt
muốn trở nên hùng-cường như người
ta cho mau, để ḿnh vẫn được
độc-lập tự-do như xưa vậy. |
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương X : ]