Nguyên tác của : Sakaiya Taichi Người dịch : Đặng Lương Mô Chương IX : Shibusawa Ei-ichi Thủy
tổ của "chủ nghĩa tư bản
Nhật" Người
lập ra "giới kinh tài" Shibusawa
Ei-ichi là nhân vật đă có những hoạt
động rộng lớn trong thời Minh
Trị, đă có quan hệ với rất
nhiều xí nghiệp, đă dựng nên hầu
hết các ngành nghề sản xuất hiện
đại của Nhật Bản. Các
ngành nghề mà Shibusawa đă có quan hệ gồm
từ ngân hàng tới đường sắt,
vận tải đường biển, xí
nghiệp chế tạo, công ty mậu dịch,
v.v.. Có thể nói, ông đă dựng nên khoảng
năm trăm xí nghiệp lớn trong hầu
hết các ngành nghề. Chỉ
bao nhiêu đó thôi, có thể nói Shibusawa chính là
nhân vật tiên phong trong chủ nghĩa tư
bản Nhật. Nhưng sự việc không
dừng lại ở đó. Cái quan trọng là ông
đă tạo ra "giới kinh tài," một
giới không thấy có ở nước ngoài. Thí
dụ, ở Mỹ có vua sắt thép Andrew Carnegie,
vua ôtô Henry Ford, những người đă đẻ
ra những xí nghiệp khổng lồ, đă
lập ra những tài đoàn[1]
lớn mạnh để cống hiến cho văn
hóa, học thuật. Thế nhưng, họ đă
không lập ra "giới kinh tài," tức là
đoàn thể gồm những doanh nhân cùng làm
ăn, cùng hoạt động với nhau. Nhân
vật kinh doanh lớn như Rothschild của Anh,
Krupp của Đức, cũng vậy, nghĩa là cũng
không lập ra "giới kinh tài." Nhật
Bản là nơi duy nhất đă thấy h́nh thành
"giới kinh tài," từ đó phát sinh ra
thể chế "phe phen[2],"
"thể chế đồng lơa" của
giới kinh doanh. Đó là bởi v́ Shibusawa đă
đồng thời có quan hệ với hàng
mấy trăm xí nghiệp, và như vậy đă
tạo ra môi trường cho các xí nghiệp này cùng
xuất vốn làm ăn với nhau. Là người
đă tạo ra phong cách làm ăn độc đáo
như vậy của chủ nghĩa tư bản
Nhật, Shibusawa Ei-ichi quả có giá trị đặc
biệt, đă để lại ảnh hưởng
lớn đối với nước Nhật ngày
nay. Ông thật xứng đáng là một trong
số "Mười hai người lập ra nước
Nhật" vậy. Shibusawa
Ei-ichi sinh năm 1840 (niên hiệu Thiên Bảo
thứ 11), và mất năm 1931 (niên hiệu Chiêu
Ḥa năm thứ sáu), hưởng thọ 91
tuổi. Thật là sống lâu lạ thường
so với những người đương
thời. Xuất
thân ở quận Hanzawa, đất Musashino (nay là
thị trấn Fukaya, tỉnh Saitama), từ một
gia đ́nh phú nông. Thời nay, khi nói nông gia hay nông
dân, người ta thường mường tượng
một cách sai lầm rằng đó là một gia
đ́nh làm ruộng, trồng lúa, trồng rau,
tự cấp tự túc thực phẩm. Nhưng nông
gia thời mạc phủ Tokugawa th́ không hẳn
thế. Gia thế Shibusawa Ei-chi thật ra làm
nghề nuôi tằm, chế thuốc nhuộm
bằng lá lam (lá tràm), và như vậy là một
nhà kinh doanh tiểu công thương nhiều
mặt. Tơ
tằm cũng như thuốc nhuộm, đều
là những sản phẩm để đổi bán
lấy tiền. Tự ḿnh chế ra sản
phẩm, đồng thời lại mua góp của
những nhà sản xuất địa phương,
rồi bán ra như là một nhà bán buôn địa
phương vậy. Xem
như vậy, nên coi gia thế Shibusawa Ei-ichi là nhà
buôn, là thương gia, hơn là nhà nông. Ngoài ra,
nghe nói gia đ́nh ông c̣n làm cả nghề
cầm đồ nữa. Gia đ́nh ông hẳn
phải có máu mặt trong địa phương.
Xem như vậy, Shibusawa Ei-ichi đă sống
thời thiếu niên trong gia cảnh vừa là nhà
nông, vừa là nhà buôn lại vừa là nhà công
nghiệp. Là một gia đ́nh phong lưu, cho nên
ông có điều kiện học hỏi được
nhiều thứ. Năm
Shibusawa 14 tuổi, đoàn tàu đen của đề
đốc Perry tới vịnh Uraga, gây ra sự xôn
xao lớn làm cho dư luận trong nước
Nhật chia hai. Năm
22 tuổi, ra thành Edo, Shibusawa đă nhập
bọn với đám người chủ trương
xua đuổi bọn man di và như vậy đă
bôn tẩu phấn đấu nhiệt t́nh cho
mục đích đó. Ông đă nhập bọn
với đám người âm mưu đốt cháy
khu nhà ở của người ngoại quốc
ở Yokohama nghĩa là đă tham gia vào những
hoạt động quá khích. Điều này chứng
tỏ ông ở tuổi thanh niên đă là một
người theo chủ nghĩa quốc túy,
chủ nghĩa yêu nước cuồng nhiệt. Âm
mưu đốt cháy khu nhà ở của người
ngoại quốc ở Yokohama là do Kiyokawa Hachiro
chủ mưu. Nhân vật này đă đề xướng
việc thành lập đội tự vệ Shinsen-Gumi,
đă t́m mọi cách để thực hiện âm
mưu đó nhân giai đoạn hỗn độn
cuối thời mạc phủ Tokugawa, song sắp
đến lúc thực thi kế hoạch th́
mục đích lại thay đổi, nên cuối
cùng bị ám sát. Việc âm mưu đốt khu
nhà người ngoại quốc ở Yokohama này
bị thất bại nửa chừng như
vậy, phần lớn là v́ tính khí của
Kiyokawa. Bỏ
trốn về Kyoto được, Shibusawa năm
1864, tức là chỉ bốn năm trước
cuộc cách mạng Meiji, đă được
nhận vào làm cho gia đ́nh Hitotsubashi, một
trong ba ḍng họ mạc chúa Tokugawa. Thế
rồi, khi công tử Yoshinobu được
chọn lên làm mạc chúa (đời thứ 15),
th́ Shibusawa cũng trở thành một nhân vật
trung tâm của thể chế mạc phủ. Trái
hẳn với phần đông những nhân
vật hoạt động trong thời Minh
Trị, Shibusawa đă vào làm gia thần cho mạc
chúa ở thời kỳ mạt vận. Năm 1867
(niên hiệu Khánh ứng năm thứ ba) ông tháp
tùng công tử Tokugawa Akitake, em mạc chúa Yoshinobu,
sang dự Hội chợ Paris và như vậy có cơ
hội được mắt thấy tai nghe
về Âu Mỹ. Tuy nhiên, nửa chừng cuộc
viễn du đó, cuộc cách mạng Minh Trị
xẩy ra và mạc phủ Tokugawa bị giải tán. Lúc
đó tại Hội chợ Paris có đủ
cả hai phe ủng hộ và chống đối
mạc phủ. Sau này, cùng với Shibusawa trở
thành một nhân vật lớn trong giới kinh tài
thời Minh Trị, là Godai Tomoatsu, cũng có
mặt ở Paris trong đoàn đại biểu
của phiên bang Satsuma, đang triển khai
đường lối ngoại giao hư hư
thực thực ở đó. Năm
1868 (niên hiệu Minh Trị nguyên niên), Shibusawa
về nước, bèn cùng với gia đ́nh
Tokugawa lui về sống ở Shizuoka, và có một
lúc đă lănh chức kế toán trưởng,
tức là quan chức phát hành tiền tệ
của phiên bang Sunpu. Đây chỉ là một
thời gian rất ngắn. Trước
nhất lập ra chế độ lưu thông
tiền tệ Từ
Paris về nước, việc làm trước tiên
của Shibusawa Ei-ichi là vay của lănh địa
Tokugawa ở Shizuoka 500 ngàn "lượng" (lúc
ấy tiền c̣n tính bằng "lượng")
tiền giấy phi hối đoái, để
lập ra "Pḥng thương mại,"
một công ty hợp doanh, tức là công ty cổ
phần đầu tiên của Nhật Bản.
Trong thời gian Hội chợ Paris diễn ra,
Shibusawa đă được mắt thấy châu
Âu, và ông đă tỏ ra vô cùng quan tâm tới
sự thành lập công ty. Bởi thế, ông đă
lập tức thực hành ư tưởng đó. Vậy
"Pḥng thương mại" là công ty làm ǵ?
Thật ra, đây chỉ là sáng kiến mượn
tiền của chính phủ trong khi chưa
quyết định nội dung việc làm của
công ty. Chính chỗ này cho thấy rơ cái cách suy
nghĩ, cái điểm tựa tư tưởng
của Shibusawa trong hoạt động sau này
của ông. Nghĩa là, Shibusawa Ei-ichi chỉ quan tâm
thành lập những tổ chức, chứ không
chú trọng tới việc làm giầu cũng như
tới việc gây dựng ngành nghề. Nhưng,
Shibusawa không ở lại Shizuoka. Ông tức
thời từ chức và năm sau, 1869 (niên
hiệu Minh Trị thứ hai), trở thành công
chức Bộ Kho bạc của tân chính phủ.
Thời ấy v́ thiếu nhân tài, nên chính
phủ đă vui ḷng thu nhận cả cựu
thần của mạc phủ. Năm
1871 (niên hiệu Minh Trị thứ tư),
đơn vị tiền tệ đổi từ
"lượng" thành Yen. Năm sau, chính
phủ chế định điều lệ Ngân hàng
quốc doanh với mục đích thiết
lập hệ thống lưu thông tiền tệ,
đồng thời, đốt bỏ những
tiền giấy phi hối đoái đă phát hành
từ trước. Cùng với động thái này,
Shibusawa năm 1872, đă từ chức khỏi
Bộ Kho bạc và vận động thiết
lập "Ngân hàng quốc doanh số 1" để
năm sau nữa, năm 1873, chễm chệ
ngồi vào ghế thống đốc của ngân
hàng này. Thời
đó, Shibusawa được coi là nhân vật
số một trong những vấn đề
tiền tệ, ngân hàng, tổ chức công ty. Cho
nên, khi ngân hàng quốc doanh được
thiết lập, th́ trước hết người
ta đă ngỏ lời mời Shibusawa vậy. Sự
việc này đă quyết định vận
mệnh của Shibusawa. Bởi v́ từ đó
về sau, ông đă có cơ hội lập ra
nhiều tổ chức, nhiều công ty khác
nữa. Trước
hết, Shibusawa đă liên quan đến sự
thiết lập hệ thống ngân hàng. Không
phải chỉ có "Ngân hàng quốc doanh số
1," mà ông c̣n can dự vào sự thiết
lập rất nhiều ngân hàng mang tên có số
hiệu tại mỗi địa phương
nữa. Sau
này, tới năm 1882 (niên hiệu Minh Trị
thứ 15), Ngân hàng Nhật Bản, ngân hàng Nhà Nước
"chính hiệu" mới được
thiết lập. Chứ cho đến lúc đó,
những ngân hàng như "Ngân hàng quốc doanh
số 1," hay những ngân hàng địa phương
khác, tuy gọi là Ngân hàng quốc doanh, nhưng
thực chất chỉ là ngân hàng dân doanh,
được Nhà nước cho đặc
quyền phát hành tiền tệ, không có vốn
của Nhà nước đổ vào, cũng
chẳng được Nhà nước bảo
đảm ǵ cả. Với
hiểu biết hạn chế, cũng như
chỉ có vốn hạn hẹp, chính phủ Minh
Trị đă lập ra chế độ theo đó
Nhà nước cho những thương gia hay
những nhà giầu có uy tín ở các địa
phương, được đặc quyền phát
hành tiền tệ. Thay vào đó, họ phải
nộp thế chấp cho Nhà nước bằng
tiền vàng tiền bạc thực. Nói cách khác,
Nhà nước dựa vào uy tín của những nhà
giầu, giữ vàng bạc của họ làm
thế chấp, rồi cho họ phát hành một lượng
tiền giấy, gọi là Phiếu Ngân hàng
quốc doanh, nhiều gấp mấy lần giá
trị thế chấp của họ. Việc
cho phát hành ngân phiếu quốc doanh như trên c̣n
có một mục đích nữa. Đó là dùng
những ngân phiếu quốc doanh đă được
Nhà nước nắm giữ thế chấp như
vậy, đổi cho loại tiền giấy phi
hối đoái đă được phát hành trước
đó. Loại tiền giấy phi hối đoái
do chính Chính phủ Minh Trị Duy tân phát hành, song
v́ lạm phát nên đă bị mất tín
nhiệm. Ngoài
ra, bởi v́ ngân hàng c̣n có chức năng
giữ tiền gửi nữa. Vừa phát hành
tiền tệ vừa giữ tiền gửi mà
nếu phá sản, th́ vấn đề phức
tạp lắm. Cho nên Nhà Nước bắt
phải nộp thế chấp bằng vàng bạc
thực. Đó là chế độ đă được
lập ra vào đầu thời Duy tân Minh Trị.
Không biết ai đă đề xướng ra
chế độ đó, nhưng xem ra quả là
một phương pháp thao tác tinh vi sự lưu
thông tiền tệ tín dụng. Trụ
sở Ngân hàng quốc doanh số 1 ở khu
Nihon-Bashi, một kiến trúc hoành tráng kiểu phương
Tây do chính người Nhật thiết kế thi
công, đă trở thành một danh thắng ở
Tokyo, một đối tượng cho bà con dân quê
lên tham quan rất đông. Tiếp
theo Ngân hàng Quốc doanh số 1 này, trên một
trăm ngân hàng khác có tên gọi bằng số
thứ tự, đă được thiết
lập ở khắp nước Nhật. Một
số ngân hàng như vậy hiện nay vẫn c̣n
hoạt động. Chẳng hạn Ngân Hàng
Số 4 ở Niigata[3],
là một ngân hàng như vậy. Một số không
nhỏ những ngân hàng như vậy đă
được thiết lập với sự nhúng
tay của Shibusawa. Tuy nhiên, phải nói rằng,
sự nghiệp đầu tiên của Shibusawa là
thiết lập hệ thống lưu thông
tiền tệ của Nhật Bản, chứ không
phải chỉ là thiết lập ngân hàng. Cha
đẻ ra chủ nghĩa ḥa hợp kiểu
Nhật Bản Thứ
đến, Shibusawa đă lập ra rất
nhiều xí nghiệp sản xuất. Năm 1873 (niên
hiệu Minh Trị thứ sáu), ông đă thiết
lập công ty giấy ở Oji, Tokyo (công ty này sau
mang tên Cty Giấy Oji), cho người cháu đứng
làm giám đốc kỹ thuật. Sản xuất
giấy là việc làm vô cùng quan trọng ở
thời Minh Trị. Chín
năm sau, tức là năm 1882 (niên hiệu Minh
Trị thứ 15), ông đă sáng lập công ty
Sợi Dệt Osaka. Đây chính là mốc khởi
đầu của nền công nghiệp dệt may
hiện đại của Nhật Bản. Từ
đó, Nhật Bản đă dần dần
trở thành nước tâm điểm của
thế giới về may dệt. Ngoài ra, Shibusawa c̣n
tham gia sáng lập ra nhiều xí nghiệp may
dệt khác, như Công ty sợi dệt Mie, v.v.. Năm
1887 (niên hiệu Minh Trị thứ 20), ông đă sáng
lập ra Công ty phân bón nhân tạo Tokyo. Nghĩa là
khi thấy rằng phân bón hóa học không thể
thiếu được trong công cuộc chấn hưng
nông nghiệp, ông đă lập tức thiết
lập công ty phân bón hóa học vậy. Sau
đó, Shibusawa đă tham gia vào sự thiết
lập nhiều công ty khác như Điện lực
Tokyo, Khí đốt Tokyo, Khách sạn đế
quốc, Đường sắt mỏ than Hokkaido, Tàu
biển Toyo, Đường sắt Kyofu, v.v.. Từ
năm 1906 (niên hiệu Minh Trị thứ 39) cho
đến 40 năm sau, phong trào huy động
vốn bằng cổ phiếu để khuếch
trương hay tân lập công ty, đă trở nên
rất sôi nổi. Hễ
Shibusawa trở thành chủ tịch cho ủy ban huy
động nào, th́ cổ phiếu của công ty
đó bán chạy như tôm tươi, đến
nỗi nhà văn Hasegawa Kotaro, trong cuốn "Bút
kư về sự thịnh suy của các tài
phiệt (Tài phiệt thịnh suy kư)," đă
miêu tả sự kiện như vậy bằng
lời viết "những cổ phiếu
quyền lợi của công ty đă mọc cánh mà
bay." Sự kiện này đă nói lên sự
kỳ vọng của người ta trước
sự việc Shibusawa đă gây dựng nên bao nhiêu
công ty vậy. Shibusawa
Ei’ichi trong khi hoạt động tích cực gây
dựng ngân hàng và công ty như vậy, th́ đồng
thời năm 1891 (niên hiệu Minh Trị thứ
24) đă nhậm chức Hội trưởng Pḥng
thương nghiệp Tokyo. Tổ chức này đă
được thiết lập năm 1878 với tên
gọi là Pḥng thương luật, rồi đổi
tên thành Pḥng thương nghiệp. Đến năm
1927 (niên hiệu Chiêu Ḥa thứ hai), tổ
chức này lại đổi tên thành Pḥng thương
công. Trong suốt thời gian ấy, Shibusawa đă
liên tục giữ chức Hội trưởng. Nói
tóm lại, không những ông đă lập ra
những xí nghiệp cá thể, mà c̣n lập ra
tập thể gọi là "giới kinh tài"
nữa. Chính Shibusawa đă tỏ ra vô cùng quan tâm
tới việc lập ra giới này. Theo
Shibusawa, cái cơ sở để tạo nên
chủ nghĩa tư bản Nhật là chủ nghĩa
góp vốn và chủ nghĩa hợp tác. Nghĩa là,
góp vốn từ mỗi người rồi
hợp tác với nhau gây dựng ngành nghề
sản xuất. Muốn vậy, không phải mỗi
nhà kinh doanh chỉ một ḿnh lo toan mỗi
việc, là xong, mà phải đặt pḥng thương
nghiệp ở khắp nơi, rồi để
cho pḥng thương nghiệp này kêu gọi
những nhà hằng sản địa phương
bỏ vốn ra xây dựng công ty. Như thế
mới là cách làm đúng. Nói cách khác, đây là
sự đề xướng ra "chủ nghĩa
hợp tác Nhật Bản" vậy. Thật ra,
sự kiện này cho thấy chính Shibusawa đă
hiểu lầm rằng công ty cổ phần là cơ
quan hợp tác giữa các nhà tư sản. Sự
hiểu lầm đó đă khiến Shibusawa đề
xướng ra "chủ nghĩa góp vốn,"
rồi trong quá tŕnh hiện đại hóa đất
nước, nó đă dần dần biến thành
"chủ nghĩa tư bản kiểu hợp tác"
đặc trưng của Nhật Bản. Chủ
nghĩa như vậy lại dần dần phát
triển thành "chủ nghĩa hợp tác
của giới kinh tài" như thấy biểu
hiện ở sự kiện mỗi khi thấy
cần đầu tư vào vấn đề ǵ, là
các xí nghiệp chủ yếu liền được
kêu gọi góp vốn. Cứ
như thế, từ thời Minh Trị, qua Đại
Chính tới Chiêu Ḥa, Shibusawa Ei’ichi đă
hoạt động ở cương vị
chỉ đạo trung tâm của giới kinh tài.
Hễ có việc ǵ, là lập tức người
ta lại bảo nhau "tốt hơn hết là hăy
mời Shibusawa chủ tŕ." Chủ
nghĩa hợp tác kiểu Nhật Bản lại
càng trở nên gắn kết mănh liệt trong
thời hậu chiến. Nó đă h́nh thành ra
thể chế phe đảng hay thể chất phe
phen của từng ngành nghề. Đến nỗi
ngày nay, mỗi khi muốn thành lập một ngành
nghề mới, phải để cho Keidanren[4]
hay Kankeiren[5] lên tiếng trước, rồi để
cho các ngành nghề đă có trước góp
vốn vào tùy theo tôn ti trật tự. Sự
việc này đă trở thành "lệ." Có
thể nói chính Shibusawa là cha đẻ ra xă
hội phe phen kiểu Nhật Bản. Iwasaki
Yataro, một tồn tại đối chọi Xem
những nhà kinh doanh thời Minh Trị, người
ta có thể chia họ ra làm loại người
chủ trương hợp tác, dùng phương
thức góp vốn để gây dựng ngành
nghề như Shibusawa Ei’ichi, hay Godai Tomoatsu ở
vùng Kansai, và một loại người khác có
chủ trương đầu tư tiến
bộ, phong cách kinh doanh "cá nhân chủ nghĩa."
Điển h́nh của loại người thứ
hai này là ông tổ của nhóm tài phiệt
Mitsubishi, tức là Iwasaki Yataro. Iwasaki
Yataro là người đáng coi là ḱnh phùng địch
thủ của Shibusawa EiỴichi, cả trên trường
kinh doanh, lẫn về kinh nghiệm nhân sinh, cũng
như về chủ trương, chủ nghĩa.
Hai người này, sau này va chạm với nhau
kịch liệt trong nghề vận tải
đường biển, quả là hai tồn
tại đối chọi với nhau, nhưng
lại bổ trợ lẫn cho nhau trong quá tŕnh phát
triển chủ nghĩa tư bản Nhật. Vậy
Iwasaki Yataro là nhân vật như thế nào? Để
hiểu rơ thời đại Minh Trị, người
ta không thể bỏ qua điều này được. Iwasaki
Yataro sinh năm 1834 (niên hiệu Tenpo thứ năm),
nghĩa là lớn hơn Shibusawa Ei’ichi sáu
tuổi. Xuất thân ở phiên bang Tosa (nay là
tỉnh Kochi), con một vơ sĩ samurai không chúa
nghèo xác mùng tơi, măi đến ba năm trước
thời Minh Trị, tức là năm 1865 (niên
hiệu Keio nguyên niên), mới mua nổi một chân
hương sĩ[6].
Xem như vậy đủ biết Yataro thời niên
thiếu, thanh niên rất nghèo khổ. Trong khi
đó, Shibusawa lại có thời kỳ trưởng
thành trong may mắn tột
bực. Iwasaki
Yataro cũng dính dáng tới những phong trào chính
trị cuối thời mạc phiên. Năm 1862 (niên
hiệu Bunkyu: Văn cửu thứ hai), ông đă
cùng với Yoshida Toyo, một trọng thần
của phiên bang Tosa, bôn ba cải cách chính trị
của phiên bang. Sau khi Yoshida bị thích khách
thuộc phe cần vương ám sát, th́ Iwasaki
đuổi theo hung thủ tới Osaka. Nhưng,
việc không thành, ông lại trở về phiên
bang. Sau
đó, ông mở cửa hàng bán gỗ,
chẳng bao lâu thất bại. Đây là lúc khởi
đầu của cuộc đời thương
gia, rồi nhà kinh doanh của Iwasaki. Năm Minh
Trị nguyên niên, tức 1867, ông mở Thương
hội
Tosa ở Nagasaki để mua trang thiết bị
cho phiên bang, rồi làm cố vấn cho thương
hội này. Trong
cùng năm, người ta thấy Shibusawa đă
vay 50 vạn lượng tiền giấy phi
hối đoái của chính phủ để
lập ra Sở thương luật ở Shizuoka
trong lănh địa của họ Tokugawa và Iwasaki cũng
lập ra một tổ chức để khởi
sự làm ăn trong vùng lănh địa của phiên
bang Tosa. Thời kỳ này, Iwasaki c̣n xưng tên là
Tosaya Zembei, chứ măi sau này ông mới đổi
tên là Iwasaki Yataro. Thế nhưng, Thương
hội Tosa cũng chẳng phát triển được
bao nhiêu. Bởi v́ phiên bang Tosa đă bị lung
lay sau sự đổi đời sang thời Minh
Trị. Năm
1870 (niên hiệu Minh Trị thứ ba), Tosaya Zembei
lập công ty Tosa Kaijosha. Công ty này cũng gặp
bế tắc, nên đổi tên là Thương
hội Tsukumo. Năm sau, với sự hủy
bỏ chế độ phiên bang, thương
hội này trở thành công ty tư của Iwasaki.
Thời gian này, công ty chuyên dùng thuyền bè
của phiên bang làm nghề thông thương
đường biển. Năm 1872, công ty đổi
tên thành Thương hội Mitsukawa, và năm sau
lại đổi thành Thương hội
Mitsubishi. Đến đây th́ quyền kinh doanh và
quyền sở hữu của Iwasaki đă thực
sự xác lập. Sở
dĩ Iwasaki cho đổi tên công ty liên tục là
để có thể vay thêm tiền kinh doanh.
Thời gian như vậy chính là lúc Iwasaki bị
thất điên bát đảo. Sau này, nh́n vào
những thành công của ông, người ta khó có
thể tưởng tượng ra được
những thất bại như vậy. So với
Shibusawa đă được đi Tây, được
mọi người tín nhiệm v́ có hiểu
biết mới mẻ, th́ Iwasaki khác xa lắm
vậy. Chủ
nghĩa cá nhân trong phép kinh doanh của Iwasaki Sau
một thời gian xoay xở liên hồi, từ năm
1874 (niên hiệu Minh Trị thứ bảy) Iwasaki
bỗng phất lớn. Nghĩa là khi trụ
sở chính của Thương hội Mitsubishi
đă chuyển về Tokyo, rồi năm sau đổi
tên thành Công ty Tàu Bưu chính Mitsubishi (Mitsubishi
Yusen Gaisha) và bắt đầu mua được
những tàu do chính phủ mạc phiên và Chính
phủ Minh Trị thanh lư. Nói cách khác, nhờ công
ty tàu biển này ông đă phất lớn. Năm
1874 xảy ra loạn Saga. Công ty Mitsubishi được
chính phủ thuê chở binh lính, quân nhu tới nơi
xảy ra xung đột. Lúc ấy công ty vừa dùng
tàu bè của phiên bang Tosa, vừa thuê thêm tàu
thuyền khác và vận hành khéo léo. Năm sau, công
ty được nhà nước bán lại cho tàu
thuyền thanh lư, nhờ có thành tích tốt. Thế
nhưng, sự kiện làm cho Công ty Mitsubishi phát
đạt vượt mức, là trận chiến
tranh Tây Nam năm 1877 do Saigo Takamori khởi hấn.
Để dẹp loạn này, chính phủ đă
phải tập trung quân đội ở khắp nơi
trên toàn quốc về Osaka, rồi từ đó dùng
tàu chở tới Kyushu. Công ty tàu bưu chính
Mitsubishi của Iwasaki đă lănh thầu chuyên
chở và nhờ đó đă có lời lớn. Lúc
đó, binh sĩ của Saigo xuất thân từ hàng
sĩ tộc (samurai) nên rất tinh nhuệ. V́
thế, giới lănh đạo chính phủ Minh
Trị như bọn Okubo Toshimichi đều
thấy cần phải huy động một quân
số và trang bị áp đảo so với
loạn quân. Lại đúng là mùa đông, nên
quan quân phải mua sắm đủ trang bị, nào
quần áo dạ, nào giầy da, nào súng ống
đạn dược. Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử Nhật Bản quân đội
đă đi giầy da đánh trận. Với
Chính phủ Minh Trị lúc đó, đây là
trận quyết định hơn thua, nên không
hề c̣ kè đắt rẻ. Nhờ thế, các
nhà thầu đều đă kiếm được
những mẻ lời lớn. Có không ít người
đă trở thành triệu phú, như họ
Shibukawa nhờ cung cấp dạ, họ Okura
nhờ cung cấp giầy da, v.v.. Riêng Iwasaki th́
lời vô kể. Đây là khởi điểm
của nhóm tài phiệt Mitsubishi vậy. Dùng
tiền lời, Iwasaki đă bỏ ra mua rẻ các
mỏ than và mỏ quặng. Mỏ quặng
thời đó cũng có nhiều vấn đề,
như vấn đề lao động, vấn
đề nước ngầm, v.v., nên rất khó
khai thác. Thế nhưng, nếu không giải
quyết kịp thời th́ sự nghiệp
hiện đại hóa Nhật Bản không
thực hiện được. Do đó, Chính
phủ Minh Trị đă quyết định bán
những hầm mỏ quốc hữu, quốc
doanh cho tư nhân khai thác. Iwasaki mới nhân cơ
hội đó, dùng tiền lời kiếm
được từ nghề vận tải
đường biển, đầu tư vào mua
hầm mỏ do nhà nước bán lại, khéo léo
chỉnh đốn lại kinh doanh nên lại
lời lớn hơn nữa. Cái
suy nghĩ của Iwasaki luôn luôn là "chính ḿnh."
Công ty chỉ là bề ngoài, chỉ là cái vỏ
mượn. Nói cách khác, ông muốn mọi cái
của Mitsubishi đều phải tập trung vào
cá nhân Iwasaki. Ông dát vàng lên quạt giấy,
rồi nói huênh hoang "khi người ta cúi
đầu trước vàng, người ta không
thấy bực bội." Chuyện này đă
được truyền tụng phổ biến. Do
đó, ông không chủ trương góp vốn
của người khác. Trái lại, ông coi là ông
vay tiền của người khác làm tiền riêng
của ḿnh, rồi dùng tiền đó đầu
tư làm hết việc này tới việc khác.
Khác với Shibusawa chủ trương góp vốn
của đông đảo người hằng
sản, Iwasaki chỉ chuyên đi vay mượn. Một
nhà báo kiêm sử gia hoạt động ở
thời Minh Trị và thời Đại Chính (Taisho),
tên Yamaji Aizan, trong khi phân tích các nhà tư bản
Nhật Bản trong sách "Luận về phú hào
ngày nay," đă viết "một thân làm nên
sự giầu có của một họ, th́ chủ
nghĩa của người như vậy gọi là
chủ nghĩa cá nhân chẳng được
sao?" Ông kể những đại phú hào như
vậy là Iwasaki, Mitsui, Sumitomo và Yasuda[7]. Nếu
Iwasaki chủ trương "để tao, để
tao," th́ ngược lại Shibusawa theo chủ
nghĩa "mọi người, mọi người."
Họ đại diện cho hai đường
lối làm ăn điển h́nh của thời
Minh Trị. Đối
chọi trực tiếp với Iwasaki trong ngành
vận tải đường biển Hai
nhân vật đă trực tiếp đối đầu
với nhau trong ngành vận tải đường
biển. Công
ty vận tải đường biển Tàu Bưu
chính Mitsubishi (sau này đổi tên là Công ty Tàu Bưu
chính Nhật Bản: Nihon Yusen) do Iwasaki lập ra, làm
ăn mỗi ngày một lời lớn. Thấy
vậy, trong nước đă xuất hiện ư
kiến là phải phá vỡ sự độc
quyền của Mitsubishi, mới mong làm cho ngành
vận tải đường biển phát
triển hơn nữa. Một người như
Shibusawa, vốn chủ trương h́nh thức công
ty hợp doanh (công ty cổ phần ngày nay), th́ không
thể bỏ qua sự thành công như vậy
của Iwasaki được. Ông bèn góp vốn
của đông đảo nhà đầu tư,
lập ra một công ty hải vận đặt tên
là Vận tải Cộng đồng (Kyodo Un’yu),
và bắt đầu vận chuyển hàng hóa
giữa Tokyo và Osaka. Dĩ
nhiên là giữa hai công ty đă có sự cạnh
tranh khốc liệt. Lúc đó là thời nguyên
thủy của chủ nghĩa tư bản, cho nên
sự cạnh tranh "đấm đá" đă
diễn ra. Chẳng riêng ǵ hai công ty vận
tải này, mà khắp nơi đâu đâu cũng
thấy sự cạnh tranh quá khích. Sự
cạnh tranh quá khích đă lên tới tột
bực ở giữa hai công ty Tàu Bưu chính
Mitsubishi và công ty Vận tải Cộng đồng.
Hai bên đua nhau hạ giá cước. Thậm chí,
cuối cùng giá cước đă thành miễn phí.
Chưa dừng lại ở đó, họ c̣n
quảng cáo: "Nếu đi tàu của chúng tôi
th́ c̣n được chiêu đăi cơm hộp
nữa," hoặc "Biếu thêm một
tấm vải nữa." Nghĩa là, sự
cạnh tranh đă tới điểm xuẩn
động. Bên nào cũng trở nên bướng
bỉnh, khó trị. Kết
quả, công ty Vận tải Cộng đồng
của Shibusawa bị phá sản. Phía Iwasaki,
nhờ trận chiến tranh Tây Nam đă tích lũy
được nhiều vốn, tàu thuyền đă
khấu hao xong, thủy thủ được
huấn luyện tốt hơn, nên đă cạnh
tranh thắng. Thế nhưng, về mặt kinh
doanh, công ty cũng bị liểng xiểng. Đồng
thời, năm 1885 (niên hiệu Minh Trị thứ
18) Iwasaki Yataro qua đời ở tuổi 52. Ngay
vào thời đó, th́ tuổi 52 cũng hăy c̣n là
trẻ. Người ta nói chính v́ vụ cạnh
tranh với Công ty vận tải cộng đồng,
Iwasaki đă bị hao ṃn sức khỏe mới
đến nông nỗi
ấy. Trước
khi hai công ty đua nhau hạ giá cước,
Iwasaki và Shibusawa đă hội đàm với nhau.
Shibusawa đề nghị: "Hăy cùng góp vốn
mở công ty hợp doanh." Đối lại,
Iwasaki chủ trương: "Làm công ty mà như
làm hội thân hữu, làm câu lạc bộ, th́ làm
sao giảm kinh phí được. Nhân viên mỗi
công ty phải xả thân ra, phải phát huy tài năng
mà cạnh tranh, để cho cái tốt sống sót,
th́ hơn." Tóm lại hai bên đă căi nhau mà
chia tay. Nói
riêng về vụ cạnh tranh này, Công ty tàu bưu
chính Mitsubishi của Iwasaki đă thắng, Công ty
vận tải cộng đồng của Shibusawa
phá sản. Nhưng, sự việc này cho thấy
sự h́nh thành hai luồng tư tưởng
của chủ nghĩa tư bản Nhật. "Tài
phiệt" và Nhóm Xí nghiệp Liên hệ khác
nhau thế nào? Một
là h́nh thức tài phiệt đại biểu
bởi nhóm Mitsubishi của họ Iwasaki, theo đó
những người đồng tông đồng
tộc cùng nhau lập ra công ty, rồi lợi
nhuận thu được th́ trả về cho
cổ đông (cá nhân). Lúc
đầu chỉ có gia đ́nh Iwasaki thôi, nhưng
sau đó Công ty Mitsubishi mẹ trở thành cổ
đông, và lợi ích thu được từ công
ty con lại được công ty mẹ đầu
tư vào công ty khác. Ví dụ, tiền lời thu
được qua công ty tàu thuyền, th́
được đầu tư vào để
lập ra Công ty khoáng sản Mitsubishi. Công ty này
khai thác than đá, có lời, th́ tiền lời
lại chia cho Công ty Mitsubishi mẹ để đầu
tư dựng nên Công ty hóa chất Mitsubishi, Công
ty điện cơ Mitsubishi. Nói cách khác, nhóm tài
phiệt áp dụng h́nh thức chủ nghĩa tư
bản vốn có xưa nay để lập ra
rất nhiều công ty. Không
cứ ǵ nhóm tài phiệt Mitsubishi của ḍng
họ Iwasaki, những nhóm tài phiệt khác như
Mitsui, Sumitomo, Yasuda cũng vậy. Nhất là tài
phiệt Mitsui th́ rơ ràng là "Công ty hợp danh
Mitsui," tức là của riêng một họ
Mitsui. Iwasaki
coi công ty là của cổ đông, cho nên, lợi
nhuận phải được phân chia cho cổ
đông. V́ thế, lợi nhuận do Công ty tàu bưu
chính Mitsubishi kiếm được là của cá
nhân Iwasaki Yataro. Ông dùng tiền này làm vốn
lập ra Công ty khoáng sản Mitsubishi, chứ không
để cho Công ty tàu bưu chính Mitsubishi lập
ra công ty con về than đá, rồi công ty con
về than đá lại lập ra công ty cháu
về đóng tàu. Nói
khác đi, ở Nhật Bản cho đến trước
Chiến tranh thế giới thứ hai, sự h́nh
thành tư bản cũng giống như ở
những nước tư bản khác. Nghĩa là,
một công ty thời tiền chiến dù cho
lớn đến cỡ nào đi chăng nữa,
cũng không có tới năm mươi vừa công
ty con vừa công ty cháu. Tuy có quan hệ gia đ́nh
trong cùng nhóm tài phiệt, song tất cả các công
ty đều gắn liền với công ty nắm
cổ phần, chứ không phải là công ty con
của các công ty chuyên ngành hay của ngân hàng
trong nhóm tài phiệt. Trong
nền kinh tế của Nhật Bản, Mitsubishi,
Mitsui, Sumitomo,... đều là những tài phiệt
khổng lồ. Song những công ty thuộc nhóm tài
phiệt chỉ là cùng hội cùng thuyền
với công ty xuất vốn (công ty chủ
chốt của nhóm tài phiệt), chứ về
mặt kinh doanh họ đều độc
lập. Chỉ có một tổ chức duy
nhất, tức là công ty chủ chốt của nhóm
tài phiệt, đứng ra thống suất
tất cả các công ty thành viên. Thế nhưng,
số nhân viên cán bộ được bố trí
tới các công ty thành viên chỉ là khoảng vài
chục người. Các công ty đều độc
lập và h́nh thức làm thuê suốt đời
cũng không có. Ở điểm này, sau chiến
tranh, sự kiện các xí nghiệp đă
được hệ thống hóa lấy sự lưu
thông vốn liếng làm ṇng cốt, th́ khác
hẳn. Sau
chiến tranh, nếu xí nghiệp được
nhiều lợi nhuận, họ chỉ phân phát
cho cổ đông một phần rất nhỏ thôi,
c̣n phần lớn họ bảo lưu lại
trong nội bộ xí nghiệp, rồi tùy theo
sự phán đoán của người kinh doanh,
tiền lời đó sẽ được dùng
đầu tư vào công ty con hay khuếch
đại kinh doanh của công ty mẹ. Do đó,
tầm hoạt động doanh nghiệp và quan
hệ nhân sự lớn rộng ra, khiến sinh ra
nhiều địa vị cho sự "thuyên
chuyển từ trên xuống dưới[8]." Ngày
nay, một công ty lớn vừa vừa thôi cũng
có thể có tới năm trăm công ty con và công
ty cháu. Những công ty khổng lồ như
Hitachi, Mitsubishi mậu dịch, th́ có tới hơn
một ngàn công ty con và công ty cháu. Chính v́ họ
đă lập ra nhiều công ty con và công ty cháu như
vậy, nên họ có đủ chỗ
cho những nhân viên trung niên và cao niên có thể
thuyên chuyển xuống công ty cấp dưới,
và như vậy thực hiện được
chế độ làm thuê suốt đời[9]. Iwasaki
Yataro và những người khác đă lập ra
những nhóm tài phiệt, đều chủ trương
chủ nghĩa cá nhân, tức là coi công ty cổ
phần là sở hữu của cổ đông. Phương
thức này là dập theo một cách trung thực
chủ nghĩa tư bản Anh Mỹ. "Giới
tài phiệt," đoàn thể của những
nhà kinh doanh làm thuê Một
cách suy nghĩ khác trái ngược hẳn,
của Shibusawa EiỴichi, là công ty không nên là
của riêng của một cá nhân nào cả.
Nhiều người chung tiền lập ra công ty,
v́ thế nên coi đó là sản vật của
chủ nghĩa góp vốn. Người có
nhiều vốn có thể góp nơi này một ít,
nơi kia một ít, để có quan hệ
với nhiều công ty. Theo ông, cách làm như
vậy đúng hơn. Nói cách khác, mỗi cổ
đông chỉ góp chút ít vốn thôi, th́ không có
ai chiếm phần vốn áp đảo trong công
ty cả. Người kinh doanh công ty sẽ cũng
chỉ là người làm thuê. Xuất
thân phú nông, tiến thân làm quan cho mạc chúa,
chuyển sang làm quan cho tân Chính phủ Minh
Trị, sau nhờ có kiến thức mới nên
được người ta cầu khẩn xin
chỉ đạo lập công ty, Shibusawa không
muốn mang toàn thân ḿnh ra đánh cá độ. V́
chỉ muốn giữ địa vị
"một người có máu mặt an toàn,"
cho nên ông cũng muốn cho những nhà kinh doanh làm
thuê như ông được quyền thế và
vinh dự vậy. Nhà
kinh doanh làm thuê là những người không
phải đă đóng góp một số vốn
lớn cho công ty, nhưng có hiểu biết, có máu
mặt, nên ở trong công ty đă leo thang danh
vọng lên tới địa vị tổng giám
đốc, chủ tịch. Shibusawa đă nghĩ
tới "giới kinh tài" như là câu
lạc bộ cho những nhà kinh doanh làm thuê như
vậy. Shibusawa
Ei’ichi đă không trở thành đại phú hào
như Iwasaki Yataro. Cũng không thấy xuất
hiện "nhóm tài phiệt Shibusawa." Thế
nhưng, ông có quan hệ ở khắp nơi; nơi
nào cũng thấy có mặt ông; ông đă
lập ra rất nhiều công ty, đă tổ
chức hóa rất nhiều người. Không có
một công ty nào trở thành vật sở
hữu của ông cả. Đồng thời, ông cũng
không lănh trách nhiệm đối với bất
cứ công ty nào. Chẳng hạn, khi công ty
Vận tải Cộng đồng thua cuộc
cạnh tranh và bị phá sản, th́ Shibusawa cũng
không chịu trách nhiệm ǵ cả. Shibusawa
đă lập ra Pḥng Thương mại và công
nghiệp (Pḥng thương công), một tổ
chức kết hợp tất cả những nhà
kinh doanh làm thuê, tức là những người
chỉ xuất vốn ít thôi nhưng lại
nắm trong tay quyền kinh doanh công ty. Rồi ông
lại lập ra những đoàn thể chuyên ngành,
như Hiệp hội Sợi dệt, hoặc
những đoàn thể khác. Ông quan niệm và
thực thi sự ḥa hợp trong giới kinh doanh,
coi đó là cơ sở cho nền kinh doanh
hiện đại. Xem
như trên, giới kinh tế Nhật Bản
thời Minh Trị gồm có hai trào lưu,
một đại biểu bởi
Shibusawa với ư chí hướng tới các đoàn
thể chuyên ngành, và một đại biểu bởi
Iwasaki với chủ trương h́nh thành các nhóm
tài phiệt. Thế nhưng, năm 1885 Iwasaki Yataro
qua đời ở tuổi 52, nhóm tài phiệt
Mitsubishi bị mất vị chủ soái. Người
kế nghiệp Yataro làm tổng giám đốc
đời thứ hai, là em ruột Yataro tên là
Yanosuke. Người này cũng có khả năng,
song không thuộc loại có tài lănh đạo
độc tài, nên dần dần đă ngả
dần sang lối làm việc ḥa hợp. Thế
rồi, sang thời Showa (Chiêu Ḥa), công chức
(quan liêu) các bộ Thương Công, Bộ Kho
Bạc lần lần xía sâu vào nội bộ các
ngành nghề sản xuất. Rồi từ sau khi
Shibusawa mất năm 1931, th́ thể chế ḥa
hợp do quan liêu chỉ đạo kiểu
Nhật Bản đă hoàn thành. Từ
đó, mỗi người đều ḥa hợp
với nhau, toàn thể giới kinh doanh đều
nhịp bước với nhau dưới sự
chỉ đạo của quan liêu. Người kinh
doanh cũng quan liêu hóa, sự thăng tiến
trong các công ty trở thành h́nh thức theo thứ
tự thâm niên. Hơn thế nữa, bản thân
người kinh doanh lại không phải đă góp
phần lớn vốn cho công ty, nên thái độ
kinh doanh của họ trở nên tiêu cực.
Họ nh́n trước trông sau, ngó phải
liếc trái, sao cho không gây sóng gió, sao cho không chơi
trội hơn người khác, sao cho xếp hàng
ngang cùng với mọi người khác. Cách
làm ăn này rất dễ cho quan liêu thống
suất. Kể từ khoảng năm 1935 trở
đi, th́ việc thống suất trở nên
ngặt nghèo, quan liêu bắt đầu thống
suất giới kinh doanh qua các đoàn thể chuyên
ngành, bất chấp luật lệ nữa. Đây là
cái gọi là "thể chế quan dân ḥa
hợp" đặc trưng của Nhật
Bản vậy. Thể
chế trên đă bị băng hoại một
thời kỳ ngắn sau khi Nhật Bản
bại trận. Nhưng chẳng bao lâu, thể
chế đó đă phục sinh. Nói cách khác,
trạng thái lư tưởng do Shibusawa quan niệm,
đă được xác lập tại Nhật
Bản thời hậu chiến vậy. Khuyết
điểm của chủ nghĩa góp vốn Hiện
nay, giới kinh tế Nhật Bản đang
tổ chức theo cái gọi là "Đoàn tàu
hộ tống." "Đoàn
tàu h tống" là nói nhiều tàu chở hàng
hợp lại thành một đoàn tàu xung quanh có
khu trục hạm của hải quân hộ
tống chống lại sự tấn công của
tàu ngầm địch. Ví
dụ, tất cả các ngân hàng đều
họp lại thành một đoàn tàu, rồi
được Bộ Kho bạc hộ vệ xung
quanh cho tiến lên, không để cho một ngân
hàng nào bị tụt hậu cả. Phương
thức này làm cho cả đoàn tàu phải
tiến theo tốc độ của con tàu
chậm nhất. Những tàu có sức tiến
nhanh cũng phải hạ bớt sức máy,
phải chạy ngoằn ngoèo, khiến cho toàn
thể giới doanh nghiệp có năng suất
thấp, kinh phí cao. Điều
này không riêng ǵ giới lưu thông tiền
tệ như ngân hàng hay công ty chứng khoán, mà
từ giới vận tải đường
bộ bằng xe tải, giới y bác sĩ, cho
tới giới nông gia, tất cả những
giới cần có giấy phép hành nghề do nhà nước
cấp, đều họp thành đoàn tàu hộ
tống như vậy cả. Khi
cho phép định giá lệ phí, chính phủ
sẽ dựa theo nơi nào có kinh phí lớn
nhất. Nghĩa là, căn cứ vào đơn
vị làm ăn tệ nhất để tính
lệ phí, sao cho không một đơn vị nào
bị thua lỗ,
không nơi nào bị phá sản cả. Điều này
làm cho phí tiêu dùng lên cao, đồng thời sinh
ra sự chênh lệch giữa giá cả trong nước
với nước ngoài. Ấy
thế mà, hễ
có xí nghiệp nào sắp phá sản, th́ bèn cho
hợp nhất với công ty khác để
cứu sống. V́ thế, công ty mạnh phải
nai lưng ra cơng công ty yếu, khiến cho kinh phí
đă cao càng cao hơn nữa. Chính phủ th́ coi
sóc tỉ mỉ sao cho công ty yếu cũng không
bị phá sản, nên sự can thiệp của
quan liêu vào giới doanh nghiệp ngày càng chặt
chẽ, sự chỉ đạo của họ ngày
càng mạnh mẽ. "Chủ nghĩa góp
vốn" của Shibusawa chính là đă đưa
đến phương thức đoàn tàu hộ
tống này. ít nhất nó cũng đă manh nha sinh
ra phương thức ấy. Trong
phương thức đoàn tàu hộ tống, tàu
có sức chạy nhanh cũng phải chạy
chậm. Những tàu chạy nhanh sẽ có năng
lực thặng dư, nghĩa là những công ty
ưu tú sẽ kinh doanh có lời lớn. Thế
nhưng, cho là có sức kinh doanh tốt, có tài
nguyên kinh doanh phong phú, nhưng v́ thế mà
kiếm lời
quá nhiều, th́ thế gian sẽ phê phán là làm
loạn nhịp bước của đồng
đội. Do
đó, những công ty kinh doanh giỏi, có vốn
kinh doanh dư dả, th́ cơ quan nhà nước
sẽ bắt nhận một số quan liêu thuyên
chuyển từ trên xuống, nghĩa là phải
nuôi báo cô một số người ngồi chơi
xơi nước[10],
sao cho giảm bớt lợi nhuận đi. Ấy
thế mà nếu hăy c̣n lợi nhuận cao, th́
bắt thôn tính hợp nhất với một công
ty thua lỗ,
nghĩa là "nuốt chửng" công ty thua lỗ
này vào công ty ḿnh. Đổi lại sự hi sinh
đó, phần chia (thị phần) của công ty
bị thôn tính sẽ được trao cho công ty
hợp nhất để khuếch đại
phần chia của ḿnh, để mở rộng
địa bàn hoạt động. Để
khuyến khích các công ty làm ăn giỏi tiếp
nhận sự thôn tính hợp nhất như
vậy, người ta cần đánh giá nhà kinh
doanh không phải bằng lợi nhuận mà người
ấy đạt được, mà bằng quy mô
kinh doanh và bằng phần chia địa bàn kinh
doanh. Cho
tới thập niên 1990, nền hành chính ngân hàng
đúng là như kể trên vậy. Kết
quả là tất cả các ngân hàng đều có
kinh phí cao, và một khi bong bóng kinh tế nổ
xẹp, th́ tất cả đều ôm nặng
bụng một mớ giấy nợ không trang
trải được. Ở
Nhật Bản hiện nay, những ngành nghề
ít bị cạnh tranh quốc tế, như xây
dựng, ngân hàng, vận tải, điện
lực, viễn thông, tin học, v.v., đều
được bảo hộ bằng phương
thức đoàn tàu hộ tống. Đối với
họ, kinh phí trở nên rất cao, đến
nỗi phải coi tỷ giá đôla Mỹ là 1
đôla lớn hơn 200 Yen. Nói cách khác, chủ
nghĩa góp vốn do Shibusawa nghĩ ra, ngày nay
mới lộ khuyết điểm ra vậy. Là
người đề xướng rồi thực
hiện chủ nghĩa tư bản Nhật
Bản như kể trên, Shibusawa EiỴichi quả
là người có ảnh hưởng lớn
tới nước Nhật ngày nay. Thang
danh vọng kiểu Nhật Một
ảnh hưởng lớn nữa Shibusawa Ei’ichi
đă để lại, là ư nghĩ về
mục tiêu nhân sinh của nhà kinh doanh. Theo
suy nghĩ của Iwasaki Yataro, mục đích
sống của doanh nhân là khuếch trương
sự nghiệp để làm ra tiền. Doanh nhân
làm ra tiền không phải là để khi
chết cất đi. Trái lại, tiền lời
làm ra, lại được đầu tư vào
sự nghiệp mới để cống hiến
cho xă hội. Như thế, doanh nhân tài ba như
Iwasaki nếu cố gắng lập nên nhiều
sự nghiệp, th́ cách làm ăn khéo léo và
kỹ thuật sẽ được phổ
cập, nhân tài và tài nguyên sẽ được
sử dụng tốt. Như vậy, bản thân
sẽ được lợi mà xă hội cũng
tốt ra, phong phú ra, mỗi người có
chỗ làm việc để phát huy tài năng.
Đây mới là sự đóng góp đúng đắn
của doanh nhân. Iwasaki Yataro hẳn muốn nói lên
như vậy. Suy nghĩ như vậy chính là
chủ nghĩa cá nhân Anglo-Saxon, là chủ nghĩa
tư bản nguyên sơ. Đối
lại, theo đường lối ḥa hợp
của Shibusawa EiỴichi, nếu một xí
nghiệp nào đó có tài làm ra sản phẩm giá
thành thấp, th́ những xí nghiệp khác không làm
được như vậy sẽ khốn đốn.
Cho nên, những doanh nhân có tính ḥa hợp
phải đứng ra lănh đạo điều
chỉnh giới kinh tài. Như vậy, trong
giới doanh nhân, người nào chăm lo
việc của tập thể doanh nhân, biết
điều chỉnh hoạt động, th́ đáng
được tôn vinh, hơn là người nâng
cao lợi nhuận của xí nghiệp và làm
giầu cho bản thân. Ngày
nay cũng vậy, một nhân viên lần lần
leo thang danh vọng qua chủ sự, giám đốc
rồi tới quản trị viên trơn, th́
đều chỉ chăm lo việc nội bộ
công ty. Chứ nếu đă lên tới địa
vị quản trị viên thường trực,
quản trị viên chuyên vụ, phó tổng giám
đốc, tổng giám đốc, người
ấy sẽ coi trọng vấn đề ḥa
hợp với toàn thể giới doanh nghiệp và
sẽ không c̣n làm điều ǵ liều lĩnh
nữa. Nếu là chủ tịch, th́ người
ấy bèn chú trọng tới chăm lo việc
của giới doanh nghiệp hơn là việc
của công ty nhà và bắt đầu nhắm nhía
địa vị hội trưởng Pḥng thương
công, hoặc phó hội trưởng, hội trưởng
Liên hiệp đoàn thể kinh tế (Keidanren). Nghĩa
là từ người kinh doanh trở thành người
"kinh tài." Làm người kinh tài để
dẫn dắt giới kinh doanh và cố vấn cho
chính phủ. Con đường danh vọng
của đông đảo doanh nhân Nhật Bản
là như vậy, nghĩa là họ muốn trở
thành "Shibusawa của thời nay." Trong
thời hậu chiến, người ta c̣n
thấy cả hai loại doanh nhân, kiểu Iwasaki và
kiểu Shibusawa. Người kế thừa tư tưởng
Iwasaki trong việc phát huy tài năng để
khuếch trương kinh doanh, cống hiến cho
xă hội, có lẽ là Matsushita Konosuke. Matsushita
Konosuke đă không trở thành Hội trưởng
Liên hiệp Đoàn thể Kinh tế, cũng không làm
Hội trưởng Pḥng Thương Công. Ông
chỉ chăm lo phát triển công ty Matsushita Denki
Sangyo và các công ty con, sản xuất ra những
sản phẩm tiện và rẻ để cung
cấp cho người tiêu dùng, trả lương
cao cho nhân viên, phân phối lợi nhuận cho
cổ đông. Những việc như vậy, ông
thường nói, là báo đáp lại cho xă
hội. Nói khác đi, ông coi trách nhiệm của
nhà kinh doanh là cống hiến cho xă hội qua
sản phẩm của công ty Matsushita và các công ty
con trong cùng nhóm. Kết quả là chính ông đă
trở thành cổ đông lớn của công ty và
trở nên giầu có. Những
người khác cùng có chung quan niệm triết
học như Matsushita Konosuke, tức là những người
đă đóng góp lớn cho nền kinh tế
Nhật Bản đồng thời nâng cao mức
sống của người Nhật, là Honda
So’ichiro, Ibuka Masaru, Ishibashi Nobuo, những người
đă sáng lập ra những công ty Honda, Sony và
Daiwa House. Mặt
khác, cũng có nhiều người xuất thân
đi làm thuê, lần lần leo thang danh vọng
trong công ty, rồi lên tới địa vị
hội trưởng Pḥng Thương Công, hội
trưởng Keidanren, tức là trở thành
những nhà kinh tài kiệt xuất. Những người
như vậy rơ ràng là những nhà kinh tế tài
ba, nhưng về mặt kinh doanh công ty, khó có
thể phán xét được họ là doanh gia
giỏi hay dở. Ví
dụ, so sánh với công ty Matsushita (Denki Sangyo), công
ty Toshiba có thành tích kém hơn về mặt
lợi nhuận. Từ trước Chiến tranh
thế giới lần thứ hai, Toshiba đă là xí
nghiệp khổng lồ nhưng từ sau
chiến tranh, th́ Toshiba thụt xuống đứng
sau Matsushita. Nếu chỉ xét mặt này thôi, th́
phải coi Matsushita Konosuke là một nhà kinh doanh
tuyệt vời, c̣n Toshiba th́ không có ai sánh
được như vậy. Thế nhưng,
từ Toshiba, người ta đă thấy có đến
hai nhân vật làm hội trưởng Keidanren: Đó
là Ishizaka Tanzan và Doko Toshio.
Không những thế, cả hai người này
đều là hội trưởng vĩ đại,
đều là những nhân vật đáng nể
trọng. Với thước đo kiểu
Shibusawa, cả Ishizaka lẫn Doko đều là
những nhà kinh tài tuyệt vời, đều là
những hiện thân của chủ nghĩa góp
vốn cả. Đă
đến lúc thoát xác khỏi mẫu ngưới
Shibusawa Quả
thật chính Shibusawa Ei’ichi đă đẻ ra,
đă thực hiện và đă để lại
khuôn mẫu cho sự thành đạt từ
một nhà kinh doanh tới nhà kinh tài đặc trưng
của Nhật Bản. Thế nhưng, liệu
Shibusawa có tiên liệu được phần nào
của thực trạng giới kinh tài trong
thời hậu chiến chăng, đă tiên đoán
được lề lối làm ăn triệt
để kiểu đoàn tàu h tống chăng? Sở
dĩ đặt câu hỏi như vậy là như
sau. Thời trước chiến tranh, nhân vật
đứng ra lèo lái giới kinh tài chỉ
cần có tài năng như vậy là được,
chứ kích thước lớn nhỏ của công
ty người ấy xuất thân không thành
vấn đề. Nhưng sau chiến tranh, người
như vậy, ngoài sự kiện phải là người
có nhân cách có kiến thức, c̣n phải có thêm
điều kiện nữa, là quy mô của xí
nghiệp mà người ấy kinh doanh. Ở
thời Shibusawa Ei’ichi, chính ông không kinh doanh
một công ty lớn nào cả, mà chỉ chuyên tâm
vào công tác môi giới. Ông đă gây dựng ra và
có quan hệ với khoảng 500 công ty, nên không
thể trực tiếp điều hành quản lư
tất cả được. Bởi v́, dù cho
mỗi ngày chỉ quản lư một công ty thôi,
th́ một năm cũng không luân phiên quản lư
được tất cả. Việc làm của
Shibusawa là một loại tư vấn kinh doanh kiêm
chỉ đạo khởi nghiệp, và hơn
tất cả, ông chỉ đóng vai tṛ của người
tổ chức, người vận động
xuất vốn, lập ra công ty rồi chọn người
đích đáng trao quyền kinh doanh. Shibusawa là người
đại diện cho sự khai hóa văn minh
thời Minh Trị nhưng đă sống và
tiếp tục thi thố ảnh hưởng cho
tới tận thời Chiêu Ḥa (Showa). Sau khi
Shibusawa nghỉ hưu rồi th́ một loại người
đáng gọi là chuyên gia môi giới đă
xuất hiện. Xí nghiệp người này kinh
doanh tuy không lớn, nhưng là xí nghiệp lâu
đời. Người ấy không cần
phải miệt mài vào công tác kinh doanh, mà xí
nghiệp vẫn đứng vững vàng. Nghĩa
là, người đứng ra cầm trịch
giới kinh tài không cần phải là người
có tài kinh doanh lớn, nhưng phải là người
có nhân cách, có kiến thức phong phú, được
mỗi người kỳ vọng. Để
dẫn chứng, trước huyền quan Trụ
sở Pḥng Thương Công Osaka, người ta
thấy có ba tượng đồng. Tượng
thứ nhất là Godai Tomoatsu. Người này
được coi như là "Shibusawa của vùng
Kansai." Ông đă đẻ ra nhiều công ty
cho miền Tây Nhật Bản và đă sáng
lập ra Pḥng thương công Osaka. Người
thứ hai là Inabata Shotaro. Công ty Inaba Sangyo là công
ty có truyền thống từ đời Minh
Trị, và người kinh doanh công ty, Inaba Shotaro,
một người có nhân cách và kiến thức
được coi như mẫu mực cho thương
gia Osaka. Người như vậy xứng đáng
đại diện cho giới kinh tài Osaka, cho nên
đă nhiệm chức Hội trưởng Pḥng
thương công Osaka và để lại nhiều
thành tích vẻ vang. Người thứ ba là Sugi
Michisuke. Ông này là một doanh nhân thời hậu
chiến, giữ chức Tổng giám đốc Công
ty mậu dịch Yagi Shoten. Đây là một công ty
mậu dịch có từ ba đời trước,
một trong số 8 công ty vừa vừa của
"5 công ty lớn 8 công ty vừa" của
giới mậu dịch Kansai. Thế nhưng, Sugi
Michisuke được ngưỡng mộ bởi
nhân cách thanh cao, kiến thức phong phú, tính khí
ôn hậu, đáng đứng địa vị thâu
tóm toàn bộ giới kinh tài Osaka. V́ thế, ông
đă giữ chức hội trưởng Pḥng thương
công Osaka nhiều năm. Tuy
nhiên, những điều kiện trên chỉ phù
hợp cho tới khoảng năm 1960 (niên hiệu
Showa thứ 35) thôi. Sau đó, trong ư thức
của giới kinh tài, người ta cũng
bắt đầu cho "to là tốt," và bước
vào thời đại chú trọng tới quy mô
kinh doanh của xí nghiệp. Nói khác đi, người
ta bắt đầu quan niệm nếu không là
doanh gia của một công ty khổng lồ, th́ không
xứng đáng ngồi ở địa vị chóp
bu của giới kinh tài nữa. Cho
nên, đến địa vị hội trưởng
Keidanren hay hội trưởng Pḥng thương công,
th́ phải tự ḿnh chuẩn bị đoàn thư
kư, phải chi một số tiền đáng
kể cho giao tế phí. V́ thế các doanh nhân xí
nghiệp vừa và nhỏ không thể kham nổi
nữa. Và đương nhiên, hội trưởng
Keidanren đều là những doanh gia xuất thân
từ những xí nghiệp khổng lồ không lo
bị phá sản, như Điện lực Tokyo,
Shin-Nittetsu, Toshiba, v.v.. Những
cơ chế không thấy có ở các nước
ngoài, như thể chế quan dân đề
huề, thể chế phe phen của giới chuyên
ngành đă h́nh thành, chính là xuất phát từ
chủ nghĩa góp vốn của Shibusawa. Chủ
nghĩa này đă cống hiến lớn lao cho
sự hiện đại hóa ở thời Minh
Trị, sự phục hưng kinh tế ở
thời hậu chiến Chiêu Ḥa. Nhưng từ
nay về sau có nên duy tŕ cơ chế này nữa
hay không, là vấn đề khác hẳn. Thời
nay lại là thời loạn, không khác ǵ thời
Duy tân Minh Trị hay thời phục hưng
hậu chiến. Nhưng khác với thời Minh
Trị, ngày nay không phải là lúc kiến
thức hay kỹ thuật có thể đổ
ập vào như thời xưa. Do đó, không
phải kiểu người như Shibusawa, mà
phải chăng mẫu người kinh doanh như
Iwasaki Yataro thời Minh Trị, Matsushita Konosuke hay
Honda So’ichiro thời hậu chiến mới đáng
cần có? Tuy
nhiên, động hướng duy tŕ thể
chế quan dân đề huề kiểu Shibusawa
của giới quan liêu và giới xí nghiệp
đă có, hẳn sẽ tiếp diễn không
ngừng. Những phiêu ngữ như Cải cách Hành
chính, Nới lỏng Quy chế, Xây dựng Xă
hội Cạnh tranh Tự do, đều là
nhằm thoát xác khỏi mô h́nh Shibusawa. Sự
kiện người ta đă phải nhiệt
liệt hô to những phiêu ngữ đó, đủ
cho thấy cái ảnh hưởng sâu đậm
như thế nào của Shibusawa Ei’ichi. Giới
hạn của sáng kiến xuất phát từ
"Luận ngữ" Quyển
Luận ngữ[11]
mà Shibusawa Ei-ichi say mê đọc lúc sinh thời,
đă được giới thiệu trong một
chương tŕnh TV của hệ thống
truyền h́nh NHK. Đó là một quyển Luận
ngữ của giới Chu Tử học, có vẻ
đă được đọc đi đọc
lại, bị ṃn rách tả tơi. Ảnh
hưởng Chu Tử học đối với
chủ nghĩa tư bản và sự hiện
đại hóa Nhật Bản đă được
đánh giá hoàn toàn khác nhau từ thập niên
1960 tới thập niên 1990. Trước
kia, người ta đă đặt câu hỏi
tại sao châu Á không phát triển như châu Âu
sau thời kỳ Phục hưng (Renaissance) và sau
cuộc cách mạng công nghiệp, là v́ ảnh hưởng
xấu của Luận Ngữ. Theo Luận Ngữ,
th́ xă hội có những trật tự cố
hữu có sức nặng bất biến, như
quan hệ cha con, quan hệ vua tôi, quan hệ già
trẻ, quan hệ nam nữ. Nghĩa là, cơ
chế "hạ khắc thượng"
lật đổ trật tự của thế gian
là không tốt. "Hạ khắc thượng"
thật ra có phần gần với chủ nghĩa
dân chủ. Chẳng hạn ở thời Minh
Trị h́nh như đă có tự điển
dịch từ "Democracy" thành "Hạ
khắc thượng." Sự dạy bảo
của Nho giáo lấy Luận ngữ làm trung tâm,
không ưa sự lật ngược trật
tự vốn có, cho nên đă cản trở
sự phát triển và tiến bộ. Đó là
sự đánh giá âm đối với Luận
ngữ. Thế
nhưng, từ khoảng những năm 1980
trở đi, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hong Kong
đều phát triển nhanh chóng. Tiếp theo là các
nước Đông nam Á, rồi từ năm 1990
trở đi th́ Trung Quốc cũng bắt đầu
phát triển mạnh về kinh tế. Kết
quả là, người ta đă thấy xuất
hiện những từ vựng như "vùng văn
hóa Nho giáo," "vùng kinh tế Nho giáo," nghĩa
là người ta t́m cách trích ra từ Nho giáo
những giá trị tinh thần như sự làm
ăn cần cù. Nhất là "chủ tri chủ
nghĩa" (sư coi trọng hiểu biết)
của Chu tử học, chẳng phải đă
gắn với chế độ gia đ́nh tạo
ra tinh thần hiếu học, tinh thần lao động
nhiệt tâm đó sao? Nghĩa là người ta
đă bắt đầu có sự đánh giá tích
cực đối với Luận Ngữ. Với
ư nghĩa như trên, tư tưởng của
Shibusawa Ei-ichi cũng phản ánh tư tưởng
của Luận Ngữ (Nho giáo). Đó là, một
mặt th́ gây dựng nhiều ngành nghề tiên
tiến, đồng thời coi trọng trật
tự và sự ḥa hợp. Không như Iwasaki Yataro
chủ trương "Dù là mấy trăm
vạn, ta cũng gánh," mà đằng này th́
mỗi người bỏ ra một ít vốn,
rồi lợi nhuận th́ chia nhau đồng
đều. Tuy
vậy, đối tượng của sự phân
chia đồng đều này chỉ hạn
chế ở giới thượng lưu của xă
hội, tức là những người có khả
năng xuất vốn. Chẳng hạn, huy động
vốn từ những nhà hằng sản ở
địa phương để lập ra ngân hàng
quốc gia, góp vốn của các hào thương
ở Tokyo và Osaka để lập ra công ty
Vận tải Cộng đồng, nghĩa là
thực hiện chủ nghĩa ḥa hợp giai
cấp thượng lưu dựa trên trật
tự vốn có của giai cấp này. Điều này
phải chăng cũng là tư tưởng
kiểu Luận Ngữ? Luận
Ngữ một mặt thuyết: "Bất
hoạn bần nhi hoạn bất quân, bất
hoạn quả nhi hoạn bất an[12];"
song mặt khác lại dạy phải duy tŕ
trật tự vua là vua, tôi là tôi, "con vua th́
lại làm vua, con người thày chùa vẫn quét
lá đa." Ở
thời Tokugawa, lúc ảnh hưởng của Chu
tử học c̣n mạnh, cả mạc chúa, phiên
chúa lẫn nông dân, có người c̣n nghèo rành rành,
thế mà lại nói "không lo nghèo túng mà
chỉ lo không được đồng đều,"
th́ rơ ràng là thời đó, bậc minh quân đă
chỉ đi t́m "cái b́nh đẳng chiều
dọc," chứ không phải "cái b́nh đẳng
chiều ngang." Trong
các loại b́nh đẳng, có "b́nh đẳng
về cơ hội" và "b́nh đẳng
về kết quả." Ví dụ, ai ai cũng
dự thi tuyển sinh được, ai ai cũng
có thể ra ứng cử nghị viên được,
ai ai cũng có thể buôn bán tự do được.
Đây là sự "b́nh đẳng về cơ
hội." Thế
nhưng, nếu duy tŕ sự "b́nh đẳng
về cơ hội" th́ thế nào cũng có
người đậu kẻ rớt, thế nào cũng
có người đắc cử và người
thất cử, thế nào cũng có công ty làm
ăn phát đạt và công ty phá sản. Nghĩa
là, kết quả ắt phải là bất b́nh
đẳng. Cái "b́nh đẳng" được
tôn dương trong phiêu ngữ cách mạng Pháp
hay trong bản tuyên ngôn độc lập của
Mỹ, Tự do - B́nh đẳng - Bác ái, là cái b́nh
đẳng như vậy. Đối
lại với cái b́nh đẳng trên, Luận
Ngữ thuyết giảng cái "b́nh đẳng
về kết quả." Trong cái "b́nh đẳng
về kết quả," lại có "b́nh đẳng
chiều dọc" và "b́nh đẳng
chiều ngang." Thời
mạc phủ Tokugawa th́ không có "b́nh đẳng
chiều ngang." Mạc chúa và nông dân, cha và
con, nam và nữ, tất cả đều không b́nh
đẳng, và cũng không thấy có tư tưởng
cách mạng nào đ̣i thay đổi t́nh
trạng ấy. Vậy sao lại nói "không lo
nghèo túng mà lo không đồng đều?"
Đây là ư muốn thực hiện sự "b́nh
đẳng chiều dọc." Cụ
thể hơn là ví dụ sau. Ở
một thời điểm nào đó, thu nhập và
tài sản của mỗi người dân đều
không c̣n sai lệch lớn lao nữa, th́ lúc đó
có thể nói là sự "b́nh đẳng
chiều ngang" đă thực hiện được.
Nhưng, đối lại, 30 năm trước
một người lính trơn bây giờ vẫn
là lính trơn, 20 năm trước một nhóm
tốt nghiệp đại học cùng vào làm cho
công ty, nếu nay tất cả đều đă
trở thành chủ nhiệm bộ môn th́ sự
"b́nh đẳng chiều dọc" đă
được thực hiện trong nhóm đó. Một
người trong đám phiên chúa 30 năm trước
nay đă trở thành lính trơn. Ngược
lại, một người trong đám lính trơn
30 năm trước nay đă trở thành phiên chúa.
Dù cho mỗi trường hợp như vậy
đều có lư do chính đáng xui khiến ra, nhưng
đây là sự "bất b́nh đẳng
chiều dọc." Cái
mà Luận Ngữ đi sâu vào, chính là
"chủ nghĩa b́nh đẳng chiều
dọc." Nhật Bản ngày nay cũng đang
có "chủ nghĩa b́nh đẳng chiều
dọc" rất mạnh. Chẳng
hạn, nhà nông trồng lúa th́ được
bảo hộ, được chăm sóc, sao cho
suốt đời có thể chuyên tâm vào
trồng lúa. Không chừng người này bỏ
nghề trồng lúa, quay sang xây chung cư lại
có thể trở nên giầu hơn. Thế nhưng,
mỗi người thấy an tâm hơn nếu
mỗi người cứ giữ nghề trước.
Nghĩa là người ta sẽ xin được
bảo hộ để có thể tiếp tục
làm nghề trồng lúa. Ở
công sở hay ở xí nghiệp tư, cơ
chế thứ tự thâm niên chính là để
duy tŕ sự "b́nh đẳng chiều
dọc." Những người cùng thế hệ
gia nhập công ty, th́ đều được
đồng loạt thăng lên làm trưởng pḥng,
chẳng hạn. Đây chính là hai mặt phải và
trái của chủ nghĩa ḥa hợp kiểu
Shibusawa. Cái đó đă phát triển thành
"chủ nghĩa quan dân đề huề"
ngày nay vậy. Chủ
nghĩa "b́nh đẳng chiều dọc"
không làm cho xă hội phát triển. Duy tŕ cơ
chế này là nền "chính trị đố
kỵ." Xét điểm này, ta thấy Luận
Ngữ cũng có hạn chế, và như vậy,
chủ nghĩa ḥa hợp kiểu Shibusawa cũng có
hạn chế. Nhật
Bản trong thời đại Heisei (B́nh Thành, niên
hiệu hiện nay của Nhật Bản) có
thể vượt lên trên "Shibusawa"
được không? Có thể vứt bỏ
hẳn "Shibusawa" được không? Đây là
vấn đề lớn, quan trọng, có tính cách
quyết định sự thành bại của
sự cải cách hành chính. [1]
"Tài đoàn" là từ Nhật bản,
đọc âm Việt, dùng để dịch
từ Foundation của Anh ngữ, hay Fondation
của Pháp ngữ. Đây là một loại h́nh
pháp nhân tài chính được thành lập dưới
sự giám sát của chính phủ để
hoạt động cho một mục đích
nhất định, như từ thiện,
học thuật, nghệ thuật,... Một
tổ chức như vậy được
lập ra để quản lư một tài
sản lớn, thường là của một cá
nhân đă cúng cho mục đích đó. Ford
Foundation là một trường hợp điển
h́nh ở Mỹ. Tài đoàn Ford này đă tài
trợ nhiều chương tŕnh văn hóa xă
hội tại Việt Nam. Ở Việt Nam chưa
thấy có những tổ chức nào tương
tự. Ở Trung Quốc cũng chưa
thấy có những tổ chức như
vậy. Ở Rossia (Nga) có Gorbachev Foundation. Tuy
nhiên, tiếng Hoa đă du nhập từ "tài
đoàn" của tiếng Nhật. Quyển Hán
Việt Từ Điển Hiện Đại, Nhà
Xuất Bản Thế Giới, trang 84, có sưu
tập từ này, tuy nhiên đă giải thích
sai lầm với nghĩa xấu là "tập
đoàn tư sản cỡ bự, trùm tư
bản." Ở VN, Foundation có được
dịch là Quỹ, tức là lẫn lộn
với Fund. [2] "Phe phen" là dịch ư từ "Dangô (Đàm hợp)" của Nhật Bản. "Đàm hợp" có nghĩa là "thỏa hiệp ngầm," "sắp xếp ngầm" giữa các nhà thầu trước khi tham gia đấu thầu, vừa để chia nhau những gói thầu, đồng thời để tự ḿnh định mức giá thầu. [3] Ở ngay chính trung tâm Tokyo, trước nhà ga Shinjuku, người ta cũng thấy có ngân hàng mang bảng hiệu Ngân Hàng 101.
[4] Viết tắt
của Keizai Dantai Rengokai, tức là Hội liên
hiệp doanh nghiệp, tức là hội đoàn
của tất cả các xí nghiệp kinh doanh
của miền Đông Nhật Bản.
[5] Viết tắt
của Kansai Keizai Dantai Rengokai, tức là tổ
chức tương tự như Keidanren (xem
lời chú ngay trên) ở miền Tây Nhật
Bản.
[6] H́nh thức samurai ở thôn quê, chứ không phải samurai ở thành thị. Sống bằng nghề nông nhưng được hưởng một số đặc quyền của giai cấp samurai. [7] Tên bốn ḍng họ chủ của bốn nhóm tài phiệt Nhật Bản, tức là Mitsubishi, Mitsui, Yasuda và Sumitomo. Những nhóm tài phiệt này đều là những tập thể doanh nghiệp bao trùm hàng mấy trăm xí nghiệp lớn, từ ngân hàng tới các công ty sản xuất công nghiệp nặng nhẹ, công ty xây dựng, công ty vận chuyển đường thủy đường bộ, v.v.. Sau khi Nhật Bản thua trận Chiến tranh thế giới lần thứ hai rồi, tất cả các nhóm tài phiệt đă bị giải thể. Thế nhưng trên thực chất, những xí nghiệp trong cùng một nhóm tài phiệt xưa, ngày nay vẫn c̣n có quan hệ khá mật thiết với nhau trên phương diện kinh doanh. [8] "Thuyên chuyển từ trên xuống dưới" là dịch nghĩa từ "amakudari (từ trên trời xuống)," một h́nh thức xử lư nhân sự theo đó một nhân viên của một cơ quan chính quyền thuyên chuyển xuống làm cho một công ty trực thuộc cơ quan chính quyền đó hoặc một công ty tư nhân có liên hệ với cơ quan chính quyền đó, hay một nhân viên của công ty mẹ thuyên chuyển xuống làm cho một công ty con hoặc công ty cháu. [9] Chế độ làm thuê ở Nhật Bản cơ bản làm suốt đời, nghĩa là cho tới khi người làm thuê về hưu. Tuy nhiên, cấu tạo nhân sự của mỗi công ty, mỗi cơ quan đều theo h́nh chóp (h́nh kim thự tháp, h́nh pyramid), nghĩa là càng lên cao th́ số địa vị càng ít đi. V́ thế, một số nhân viên trung niên và cao niên trong công ty mẹ, sẽ không có cơ hội tiến thân. Để giải quyết t́nh trạng này, người ta đă lập ra những công ty con và công ty cháu, tức là tăng thêm cơ hội cho những nhân viên trung niên và cao niên đó thuyên chuyển xuống giữ địa vị cao hơn địa vị đáng lẽ của họ ở công ty mẹ. [10] Như đă nói ở Chú thích ngay trên, chế độ nhân sự gọi là "thuyên chuyển từ trên xuống" một phần là để giải quyết những vấn đề nhân sự khúc mắc của cơ quan chủ quản. Những cơ quan này ôm đồm nhiều công chức trung niên và cao niên nhưng không có cơ hội thăng tiến nữa. Những người như vậy ăn lương cao nhưng không làm công việc tương xứng với đồng lương. Những gánh nặng như vậy, cơ quan chủ quản sẽ t́m cách bán khoán cho những công ty có quan hệ. Ở công ty họ được thuyên chuyển xuống, họ cũng sẽ không có việc làm tương xứng mà sẽ chỉ "ngồi chơi sơi nước." Tiếng Nhật gọi họ là "bọn ngồi bên song cửa," nguyên văn là Mado Giwa Zoku. [11] Luận Ngữ là một sách trong Tứ Thư (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử) của Nho giáo.
[12] Nghĩa là: "Không
lo nghèo túng mà lo không đồng đều, không
lo vắng người mà lo không yên
ổn." Câu này trích trong Thiên 16, Quí
Thị, là lời đức Khổng tử nói
với một học tṛ tên là Nhiễm
Hữu.
®
"Khi phát hành lại thông tin
từ trang này cần phải có sự đồng
ư của dịch giả .......... |