|
Akutagawa
dựa vào đâu để viết (Lạc bước vào rừng hoa văn hóa) Đinh văn Phước < Bài đă đăng trên Chim Việt Cành Nam. Chia sẻ lại trên ERCT với sự đồng ư của anh Đinh Văn Phước> Sau đây là những ghi chép từ tài liệu đă t́m đọc được, do tính ṭ ṃ muốn biết Akutagawa Ryunosuke đă lấy chất liệu từ đâu để viết tác phẩm Sợi tơ nhện (bản dịch đăng trong số 13 của Chim Việt Cành Nam ). Xin giới thiệu cùng quư bạn.Akutagawa (1892-1927) xuất hiện trên văn đàn Nhật Bản như một hiện tượng hiếm có. Ông bắt đầu nổi tiếng trong làng văn với tài năng khai thác, triển khai các đề tài đă xuất hiện trong các tác phẩm cổ điển (1) của Nhật Bản và của cả các nước khác. Điều này gây ngộ nhận cho một số người là ông chỉ làm việc vay mượn. Ông vay mượn nhưng ông cũng sáng tạo. Sự vay mượn không chỉ dừng lại ở các câu chuyện cổ mà ông c̣n dùng ngay cả những sáng tác đương thời. Ông không chỉ vay mượn một chuyện để viết một chuyện, mà trong lắm trường hợp tham khảo nhiều chuyện để viết một chuyện (2). Ông đă tài t́nh gạn lọc nội dung cho đến chỗ tinh khiết nhất, thay đổi cấu trúc, bố cục của các câu chuyện cũ và với bút pháp thật độc đáo ông đă gây cho độc giả những ấn tượng mới, tạo dựng những giá trị vượt thời gian, không gian. Nếu lấy năm 1916 làm gốc, năm ông viết tác phẩm Cái Mũi (Hana) được đại văn hào Natsume Soseki khen ngợi, th́ cuộc đời sáng tác của ông chỉ vỏn vẹn có 10 năm. Thế mà ông đă để lại cho hậu thế một gia tài khá đồ sộ với khoảng 300 tác phẩm, trong đó phân nửa là truyện ngắn vô cùng phong phú về đề tài, về nội dung, và rất đa dạng về cách viết (3). Đó cũng là cơ sở để người ta tôn ông lên bậc thầy của truyện ngắn. Akutagawa viết Sợi tơ nhện cho số khai trương của tạp chí Akai Tori (Con Chim Đỏ), tháng 7 năm 1918, thể theo lời yêu cầu của nhà văn bậc đàn anh Suzuki Miekichi. Suzuki Miekichi, người chủ trương tạp chí, kêu gọi các cây bút đương thời sáng tác, cung cấp món ăn tinh thần cho thanh thiếu niên, v́ lúc bấy giờ ở Nhật bản, các truyện dành cho tuổi trẻ phần lớn là truyện thần tiên, truyện cổ tích. Phong trào duy tân của Nhật Bản bắt đầu từ năm 1867, năm Vua Minh Trị lên ngôi, nhắm tới việc thực hiện phương châm "Phú quốc Cường binh" để bảo vệ đất nước của họ khỏi hiểm họa xâm lăng của các nước Tây phương đang chạy đua săn thuộc địa. Phong trào duy tân, xuyên qua cao trào "Thoát Á Nhập Âu", không chỉ dừng lại ở việc du nhập kỹ thuật để công nghiệp hóa, mà c̣n đ̣i hỏi người Nhật Bản phải thay đổi tận gốc rễ -- thay đổi toàn diện, từ cách suy nghĩ đến cách sống. Người Nhật đă tích cực mô phỏng và đă thành công trong sự nghiệp mô phỏng mọi khía cạnh của văn minh tây phương, từ tổ chức chính trị, quân đội, giáo dục, nghệ thuật... cho đến cách ăn, cách mặc, cách ăn chơi v.v... triết học và văn học tây phương cũng được tích cực dịch ra tiếng Nhật. Chỉ trong ṿng 25 năm, nước Nhật đă trở nên hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự, sánh vai đựợc với liệt cường. Qua chiến tranh Nhật-Trung (1894-1895) Nhật Bản xâu xé Trung Quốc, thôn tính Đài Loan, mười năm sau đánh đắm hạm đội Baltic của Nga trong chiến tranh Nhật-Nga (1904-1905) ở eo biển Tsushima giữa Kyushu và bán đảo Triều tiên và tiếp theo đó thôn tính cả Triều Tiên (1910) (4). Xă hội Nhật Bản vào thời của Akutagawa không c̣n là buổi giao thời khi cái cũ tŕ trệ cái mới, nhưng đă nghiêng hẵn về phía thắng thế của văn minh tây phương. Những giá trị đạo đức đông phương dựa trên sự hài ḥa giữa cá nhân và cộng đồng không c̣n là trọng tâm của sinh hoạt hàng ngày, ngược lại lợi ích cá nhân được đề cao. Và một khi toàn xă hội chuyển ḿnh nghiêng về hướng khuyến khích, cổ vơ, tạo điều kiện thuận tiện cho cá nhân phát triển tài năng riêng, đề cao mục đích sống là đạt cho được giàu sang, danh vọng, địa vị cá nhân, th́ yếu tố ích kỷ trong đời sống mới càng ngày càng đậm màu. Là một nhà văn, đồng thời là một thành phần trí thức ưu tú của Nhật bản (tốt nghiệp Đông Kinh Đế quốc Đại học (nay là Đại Học Đông Kinh), đại học tiêu biểu cho đỉnh cao tột bực của học vấn thời bấy giờ), Akutagawa không khỏi không cảm nhận những mâu thuẫn tinh thần, đạo đức trong xă hội, do đó khi viết câu chuyện ngắn này cho thanh thiếu niên, chắc chắn ông đă cố ư gói ghém một lời răn. Sợi tơ nhện tuy viết cho thanh thiếu niên, nhưng cũng là một tác phẩm được mọi lứa tuổi yêu chuộng, t́m đọc. Giá trị văn chương và nội dung triết lư của nó đă thăng hoa, trở thành một tuyệt tác không những của Akutagawa, của văn học Nhật bản, mà là của cả kho tàng văn học thế giới. Xuất xứ của Sợi tơ nhệnNội dung câu chuyện Sợi tơ nhện tuy chỉ gói ghém một lời răn rất đơn giản về tính ích kỷ, nhưng cấu kết câu chuyện được xây dựng trên cơ sở triết lư Nhân Quả của Phật giáo, những ǵ đang diễn ra trước mắt vừa là quả của nghiệp chướng trước đó, vừa là nhân của những ǵ sẽ xảy ra trong tương lai, hay cực đoan hơn, sắp xảy ra ngay sau đó. Thiện dẫn ta đến thiện, ác chuốc lấy ác. Một việc thiện dù nhỏ, tự nó là mầm mống, là hạt nhân dẫn đến cứu độ, dẫn đến siêu thoát. Nghiệp ác đưa con người đến khổ ải, đọa đày, huỷ diệt. Rơ ràng đây là một câu chuyện Phật giáo, thế mà không một nhà nghiên cứu hay b́nh luận văn học nào có thể t́m ra điển tích tương tự trong kho tàng sách vở của Nhật bản. Người ta cũng không t́m ra nó trong thư tịch của Trung Hoa hay Ấn độ. Người ta quay sang lùng kiếm kho tàng văn học tây phương. Và chính ở đây người ta t́m ra được hai tác phẩm có thể trở thành lời giải cho xuất xứ của Sợi tơ nhện. Giả thuyết thứ nhất là câu chuyện Cây hành tây, một câu chuyện được truyền tụng trong dân gian của nước Nga có bố cục và nội dung rất giống Sợi tơ nhện. Ông Yoshida Seiichi (5) trong bài b́nh giảng phụ chú cuối tập truyện Sợi tơ nhện, đă dẫn chứng câu chuyện Cây hành tây này từ tác phẩm Anh em Nhà Karamazov (1881) của Dostoevski (1821-1881) qua bản dịch tiếng Nhật của Yonekawa Masao như sau: "Ngày xửa ngày xưa, có một bà già xấu bụng. Hồi c̣n sống bà không làm một điều tốt nào cả. Khi chết, bà ta rớt xuống địa ngục, bị Sa tăng túm, liệng ngay vào ao lửa. Lúc ấy thiên thần phù hộ cho bà, lặng lẽ cố t́m kiểm xem trong suốt cuộc đời, bà có làm điều ǵ tốt không, để bạch cùng Thượng Đế. Một lúc sau thiên thần mới nhớ ra được một chuyện, bèn ngước lên bạch ngay với Thượng Đế rằng, ngày xưa có lần bà ta đă nhổ một cây hành tây, thí cho một người đàn bà ăn mày nghèo đói. Thượng đế phán, hăy đi nhổ một cây hành tây, tḥng xuống dưới ao, đưa cho bà ta nắm lấy mà cứu bà ta lên, nếu đầu đuôi thông suốt, kéo bà ta ra khỏi được ao lửa th́ cho bà ta lên Thiên đàng, nếu cây hành tây nửa chừng bị đứt, th́ phải bỏ bà ta ở đấy. Thiên thần liền chạy đến chỗ bà lăo, ch́a cây hành tây cho bà và bảo bà hăy nắm chặt lấy nó, xong cẩn thận kéo cây hành tây lên từ từ. Và, đúng vào lúc thiên thần gần như kéo bà lăo lên khỏi mặt ao th́ những cô hồn khác dưới ao cũng vừa nhận ra là bà lăo đang được kéo lên, bèn hùa nhau chụp lấy cây hành tây, mong được kéo lên theo. Bà già vốn là một người xấu bụng, liền co cằng đạp mọi người xung quanh vừa la ó, chỉ có ḿnh tao mới được lên thôi, chứ bọn bây đâu được. Ngay lúc bà ta vừa nói xong th́ cây hành tây bỗng bị gẫy ngang. Và bà già rớt xuống ao lửa trở lại, măi tới bây giờ vẫn c̣n bị lửa thiêu, thiên thần đành gạt nước mắt, bỏ đi." Quả thật câu chuyện này có bố cục và chi tiết giống hệt câu chuyện Sợi tơ nhện, một đối một. Cây hành tây có nhân vật chính là bà già xấu bụng th́ Sợi tơ nhện có tên cướp độc ác. Cây hành tây có ao lửa th́ Sợi tơ nhện có ao máu, Cây hành tây có Thượng đế, Sợi tơ nhện có Phật Thích Ca. Thiên thần ch́a Cây hành tây cho bà già, Đức Phật tḥng sợi tơ nhện xuống cho Kandata. Cô hồn trong Cây hành tây hùa nhau níu cây hành tây th́ cô hồn trong Sợi tơ nhện đeo theo sợi tơ nhện. Cả hai phương tiện cứu độ ấy đều đứt phựt viø hành động ích kỷ muốn chiếm đoạt sự cứu độ cho riêng ḿnh, ruồng rẫy những người cùng cảnh ngộ. Một sự trùng hợp ghê rợn là cả hai có kết thúc hoàn toàn giống nhau: bà già xấu bụng và tên cường đạo cùng rớt trở lại địa ngục, v́ hành động bất nhân xuất phát từ tâm địa ích kỷ của miønh. Một lư do khác khiến người ta nghĩ Akutagawa đă vay mượn câu chuyện Cây hành tây để viết Sợi tơ nhện có lẽ là v́ ông giỏi tiếng Anh, rất sành sỏi văn học tây phương (ở đại học, ông theo học ban Văn chương Anh và sau khi tốt nghiệp làm giáo sư dạy Anh văn). Người ta suy diễn là tất nhiên ông đă đọc tác phẩm Anh em Nhà Karamazov. Nhưng chỉ với chứng ấy nội dung mà kết luận rằng Cây hành tây là xuất xứ của Sợi tơ nhện th́ chưa đủ tính thuyết phục. Yoshida Seiichi (5) Miyoshi Yukio (6) Donald Keene (7) cùng đề cập đến một giải đáp thứ hai. Riêng ông Yoshida đă cho biết ông Yamaguchi Seiichi mới là người đă trưng bằng cớ xác định được xuất xứ thực thụ của Sợi tơ nhện. Yamaguchi đă dẫn chứng tác phẩm Karma (Nghiệp chướng) (8 & 9) do Paul Carus viết vào năm 1894 và được đăng thành nhiều kỳ trên Tạp chí The Open Court phát hành ở Chicago, tạp chí này do chính Paul Carus làm chủ nhiệm. Karma là tập hợp 8 câu chuyện chung quanh chuyến đi của một người phú thương buôn bán vàng ngọc. Trọng tâm tác phẩm là chuyện thứ 5, The Spider Web. Nhà xuất bản The Open Court đă đặt cho nhà sách Hasegawa ở Tokyo in nguyên bản tiếng Anh cộng thêm một số tranh màu, đóng thành sách, vỏn vẹn chỉ có 24 trang vào tháng 12 năm 1895. Cuốn sách này bán chạy đến nổi nó được tái bản đến ba lần. Và ba năm sau, vào tháng 9 năm 1898 th́ cũng nhà sách ấy in thêm bản tiếng Nhật do ông Suzuki Daisetsu (1870-1966) dịch. Ông Suzuki trước đó một năm đă được một tổ chức Phật giáo ở Nhật biệt phái sang Mỹ giúp việc cho Paul Carus (10). Ông Suzuki Daisetsu đă dịch thoát cái tựa Karma (Nghiệp Chướng) ra tiếng Nhật thành Inga no oguruma (Bánh xe Nhân Quả) và dịch thoát cả cái tựa của The Spider Web (Mạng nhện) thành Kumo no ito hay Sợi tơ nhện (11). Câu chuyện The Spider Web (Mạng nhện) bắt đầu với cảnh tên tướng cướp Mahâduta đang hấp hối trong ṿng tay của nhà Sư, hắn lo sợ sẽ rớt xuống âm ty, vĩnh viễn không được cứu độ. Nghe lời than của tên cướp, nhà Sư từ tốn kể câu chuyện của Kandata dưới âm phủ, và qua câu chuyện đó đă cải huấn được tên cướp trước lúc hắn nhắm mắt. Như thế rơ ràng là Akutagawa không những đă lấy nguyên văn cái tựa Sợi tơ nhện của bản dịch mà c̣n dùng nguyên cả tên của tên cướp Kandata trong nguyên tác. Ngay cái tên Kandata, khi viết dưới dạng chữ Hán, Akutagawa dùng nguyên văn chữ Hán trong bản dịch của ông Suzuki Daisetsu. Ba chữ Hán này khi đọc ra âm Việt Nam sẽ là Kiền Đà Đa. Xem như thế, ở đây chỉ c̣n lại một nghi vấn là, vậy th́ Akutagawa đă lấy Sợi tơ nhện qua việc đọc thẳng nguyên tác tiếng Anh của Paul Carus hay qua việc đọc bản dịch tiếng Nhật của Suzuki Daisetsu? Không ai có thể thay thế Akutagawa để trả lời nghi vấn này một cách dứt khoát, nhưng dựa trên tên tác phẩm là Sợi tơ nhện (tựa do Suzuki đă dịch thoát) và tên nhân vật chính Kandata (viết bằng chữ Hán là Kiền Đà Đa), đúng y tên chữ Hán do Suzuki sử dụng trong bản dịch, chúng ta có thể đi đến kết luận mà không sợ sai lầm là Akutagawa đă lấy câu chuyện này từ bản dịch của ông Suzuki. Và thêm vào đấy rất có thể Akutagawa đă đọc câu chuyện Cây hành tây trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov và tham khảo nó để xây dựng cấu trúc tác phẩm Sợi tơ nhện của ḿnh. Tính sáng tạo của Akutagawa xuyên qua việc vay mượnMặc dù Akutagawa đă vay mượn hầu như toàn bộ nội dung bàn dịch của ông Suzuki Daisetsu, cả cái tựa lẫn cái tên của nhân vật chính, nhưng Akutagawa đă lồng vào đó những sáng tạo của riêng ông. Như đă tŕnh bày ở trên, The Spider Web chỉ là một phần của tác phẩm Karma, là câu chuyện thứ 5 trong 8 câu chuyện xoay xung quanh chuyến đi của một người phú thương buôn bán vàng ngọc. Trong đó tên cướp Mahâduta thật ra ban đầu chỉ là tên hộ vệ lực lưỡng, sẵn sàng thi hành tất cả những ǵ người chủ ra lệnh. Thế mà cuối cùng hắn bị người chủ nghi oan là đă ăn cắp túi tiền, bị chủ giao cho lính, và bị đánh đập tra tấn. Hắn trốn vô núi đi theo một đám cướp, và trở thành thủ lănh. Về sau hắn chận đánh chuyến đi giao hàng của người phú thương rồi cướp hết vàng ngọc của người chủ cũ, nhưng hắn lại không chia cho bọn em út mà đem đi giấu. Viø thế hắn bị bọn em út làm phản, một lần nữa lại bị đánh đập tàn nhẫn... may được nhà Sư phát giác và săn sóc. Để cải huấn hắn, nhà Sư kể câu chuyện của Kandata, một tên đạo tặc suốt đời chỉ chuyên đi ăn cướp, giết người không gớm tay, duy nhờ làm được một điều thiện là không nỡ giậm chết con nhện ḅ bên vệ đường, nên được Đức Phật phát hiện, nhủ ḷng từ bi sai con nhện trên Niết bàn xuống cứu, và chính Đức Phật dặn Kandata rằng hắn chỉ có thể thật sự được cứu độ nếu bỏ được cái bản ngă ích kỷ... Nhưng khi Kandata nắm sợi tơ nhện leo lên, ra khỏi được âm ty th́ hắn lại chiếm đoạt sợi tơ cho riêng hắn, ruồng rẫy không cho những tội nhân cùng cảnh ngộ, cũng muốn thoát khỏi âm ty, hàng hàng lớp lớp đang cố đeo lấy sợi tơ, leo lên theo với hắn. Và ngay khi hắn mở miệng xua đuổi, ruồng rẫy kẻ khác, sợi tơ đứt phựt và hắn lộn đầu trở xuống âm ty. Xem như thế, câu chuyện The Spider Web là một câu chuyện nhuốm đầy màu sắc tôn giáo, trong đó có đoạn tả cảnh hào quang Đức Phật rọi xuống âm ty, cảnh Đức Phật trực tiếp răn Kandata phải thật ḷng diệt dục mới có thể thực sự được cứu độ. Có cả lời giải thích về sợi tơ nhện tuy mong manh, nhưng là sợi dây cứu độ chúng sinh, càng nhiều người bám vào, nó càng chắc ra. Rơ ràng đây là một câu chuyện tôn giáo mang chủ đích muốn chứng minh luận thuyết của tôn giáo ấy. Đọc tác phẩm The Spider Web, người đọc không khỏi không mang ấn tượng là đang đọc một bài thuyết pháp, hay nhẹ hơn, một câu chuyện ngụ ngôn của tôn giáo. Trong khi đó độc giả đọc Sợi tơ nhện mang cảm tưởng đang thưởng thức một sáng tác văn chương và tự ḿnh khám phá ra bài học ẩn dụ trong áng văn. Akutagawa đă táo bạo nhưng cũng rất tài t́nh dám lấy thẳng mắt Phật để kể chuyện. Và cái độc đáo của ông là ông đă kể một câu chuyện đọa đày dưới Âm ty trong cảnh tinh khiết của Niết Bàn. Ta hăy nghe ông bắt đầu: "Đây là câu chuyện xảy ra trên Cực Lạc. Một bữa nọ, Đức Phật lững thững đi dạo bên hồ sen. Những đóa sen trong hồ nở trắng toát, đẹp như ngọc. Từ giữa nhụy vàng một hương thơm ngào ngạt khó tả, ngan ngát tỏa ra khắp miền. Xin thưa trên Cực Lạc lúc đó đúng vào buổi sáng". Và ta nghe ông chấm dứt câu chuyện: "Thế nhưng, trên Cực Lạc sen trong hồ vẫn nở như không có chuyện ǵ xảy ra. Những đóa sen trắng như ngọc đài hoa lay nhẹ bên chân Phật. Từ giữa nhụy vàng ngào ngạt một hương thơm khó tả, ngan ngát tỏa ra khắp miền. Xin thưa, lúc đó trên Cực Lạc đă gần đến đúng ngọ". Câu chuyện bắt đầu trên Cực Lạc và chấm dứt cũng trên Cực Lạc. Ông đă dựng hai cảnh có thứ nguyên hoàn toàn đối nghịch nhau, hai thái cực Cực Lạc và Âm ty ngay trong cùng một màn, diễn ra ngay trước mắt người đọc. Ông dàn cảnh Đức Phật xuất hiện lững thững đi dạo bên hồ sen trong hương thơm ngan ngát trên Cực Lạc và xác định "dưới hồ sen là đáy địa ngục" để hợp lư hóa tất cả những diễn biến sau đó dưới âm ty qua mắt Phật. Nhưng ông đă dừng lại ở vai người kể truyện, không thêm thắt các chi tiết mầu nhiệm, hoang đường tôn giáo như ta thấy trong tác phẩm Karma. Chỉ vào đoạn chót ông mới cho một lời giải về cái buồn của Đức Phật: "V́ cái tâm không có một chút từ bi, chỉ muốn một ḿnh thoát khỏi địa ngục mà Kandata đă bị quả báo rớt trở lại địa ngục, dưới mắt Phật, là cả một điều bi đát thảm thương". Toàn bộ áng văn tuy ngắn ngủn, nhưng nó đă làm cho người đọc rộn ràng với nhiều đoạn tả cảnh vô cùng linh động. Ông đă dồn dập vẽ những chi tiết đối nghịch nhau, những cái xáo động dưới âm ty diễn ra trong bối cảnh thanh tĩnh của Niết Bàn. Cực Lạc trong sáng, tươi mát, thanh tịnh, tinh khiết. Âm phủ u tối, đọa đày, huyên náo, ghê rợn. Akutagawa đă sắp xếp những diễn biến một cách rất tinh tế, tạo căng thẳng cho người đọc trong suốt câu chuyện. Câu chuyện kết thúc với cảnh Kandata lộn đầu rơi như một con vụ, trở lại âm ty, và người ta chỉ thấy c̣n lại một sợi tơ cụt ngủn óng ánh. Nhưng lúc đó cũng lại là lúc Niết Bàn đang ở trong vùng ánh sáng giữa trưa, sen trong hồ vẫn nở, hương sen vẫn ngào ngạt. Niết Bàn không dao động. Tác giả đă lược bỏ các chi tiết thuyết pháp tôn giáo của nguyên tác, không lồng vào tác phẩm của ḿnh một ư kiến, một lời răn nào, nhường quyền phán xét cho độc giả, dù đó là thanh thiếu niên. Điều này càng làm tăng giá trị cho áng văn. Lạc bước vào rừng hoa văn hóaKhi đọc phần b́nh giảng của ông Yoshida Seiichi viết về xuất xứ của tác phẩm, tôi ṭ ṃ muốn kiểm chứng chi tiết về tác phẩm Karma của hơn một thế kỷ trước, và tôi lạc bước vào rừng hoa văn hóa. Sau đây là những chi tiết chung quanh tác phẩm Karma và hai nhân vật Paul Carus, Suzuki Daisetsu. Paul Carus (1852-1919), là một triết gia người Đức sinh sống ở Chicago. Ông là người đi tiền phong trong việc giới thiệu triết học Phật giáo vào nước Mỹ. Suốt từ năm 1887 cho đến lúc tạ thế, ông làm chủ biên hai tạp chí The Open Court và The Monist, cả hai đều do nhà xuất bản The Open Court phát hành. Ngay sau khi tác phẩm Karma được đăng lần đầu tiên trên tạp chí The Open Court, nhà xuất bản đă nhận được thư của một số dịch giả từ nhiều quốc gia, Nhật, Đức, Pháp và Nga gửi đến xin phép dịch. Trong đó bản tiếng Nga là do đại văn hào (Bá tước) Lev N. Tolstoi (1828-1910) dịch. Cũng như nguyên tác ở Mỹ, các bản dịch ở các nước khác cũng chỉ được đăng trên tạp chí chia thành nhiều kỳ. Duy chỉ có bản tiếng Anh in ở Nhật, và bản dịch ra tiếng Nhật của ông Suzuki, do nhà sách Hasegawa ấn hành ở Nhật là 2 bản được in thành sách trước nhất. Sau đó ở Pháp có người dịch bản tiếng Nga của Tolstoi ra tiếng Pháp. Bản dịch này do nhà xuất bản Société d? éditions littéraires et artistiques phát hành và tự tiện ghi Tolstoi là tác giả. Bản tiếng Pháp này lại được dịch sang tiếng Đức. Từ đó Âu châu chỉ biết đó như là một tác phẩm do chính Tolstoi sáng tác. Trớ trêu thay, tác phẩm này được dịch trở lại tiếng Anh, và được đăng trong The International Magazine cũng ở Chicago. Một ngẩu nhiên rất lư thú, trụ sở của Tạp chí này lại nằm ngay trong cùng một khu phố với nhà xuất bản The Open Court. Chính v́ lư do địa lư này, nhà xuất bản The Open Court khám phá ra dữ kiện mạo nhận kia. Paul Carus viết thư khiếu nại Tolstoi và sau đó Tolstoi phải viết thư thanh minh, nay được sử dụng làm Lời tựa cho quyển sách Karma/Nirvana do nhà xuất bản The Open Court phát hành. Xin trích dịch một phần của lời tựa này (9) như sau: *Một chân lư mà ngày nay đă bị lu mờ là mỗi chúng ta chỉ tránh được điều ác và làm được điều thiện là do nỗ lực riêng của từng cá nhân, ngoài ra không có cách nào khác, tác phẩm này đă nói lên dược điều đó một cách vô cùng rơ rệt. Lời dẫn giải trong tác phẩm thật ư nhị v́ nó chứng minh rằng cá nhân chỉ thực sự có hạnh phúc khi những người chung quanh cũng được hạnh phúc. Ngay khi tên cường đạo trốn khỏi được địa ngục, chỉ nghĩ đến hạnh phúc vị kỷ, lập tức hạnh phúc của hắn chấm dứt ở đó và hắn đă rơi trở lại bể trầm luân như cũ... Tôi đă đọc câu chuyện này cho trẻ em nghe và chúng nó rất thích. Và trong hàng người lớn, câu chuyện này sẽ giúp ta trực diện với những vấn đề quan trọng nhất trong cuộc sống. Và theo tôi đây là một câu chuyện tuyệt diệu mà tôi muốn giới thiệu với mọi người... Chỉ đến khi nhận được thư (của Paul Carus) tôi mới biết tác phẩm Karma đang lưu hành mang tên tôi là tác giả, và tôi rất lấy làm tiếc -- không phải chỉ ở chỗ một chuyện sai lầm như thế mà cứ để tràn lan không có ai lên tiếng cải chính, nhưng c̣n ở chỗ tại sao lại có thể có một chuyện sai trái như thế, v́ tôi sẽ vô cùng hân hạnh nếu được diễm phúc là tác giả của sáng tác này. Đây là tinh hoa trí tuệ của cả một quốc gia và cần được truyền bá cho toàn thể nhân loại như các tác phẩm Odyssey, Cuộc đời của Joseph, và Thích Ca Mâu Ni.
Lev N. Tolstoi
Hơn một trăm năm trước Paul Carus đă sưu tầm từ đâu đó trong kho tàng văn hóa Ấn độ để viết tác phẩm Karma. Lev N. Tolstoi đă đánh giá nó như là tinh hoa, là kết tinh trí tuệ của cả một dân tộc, đặt nó đứng ngang hàng với tác phẩm Odyssey v.v... Chúng ta thử đọc lại lời nhận xét của Tolstoi: "... cá nhân chỉ thực sự có hạnh phúc khi những người chung quanh cũng được hạnh phúc... " Chúng ta thử đổi chữ "cá nhân" thành chữ "quốc gia" chữ "người" thành chữ "nước" rồi thử đọc lại nó một lần nữa: "... quốc gia chỉ thực sự có hạnh phúc khi những nước chung quanh cũng được hạnh phúc... " chúng ta càng thấy thấm thía lời nhận xét của Tolstoi về tính bất biến của bài học ẩn dụ trong tác phẩm Sợi tơ nhện, một bài học vượt biên giới cá nhân, thời gian và không gian, nghiệm đúng cả cho liên hệ giữa các dân tộc. Ngoài ra, c̣n có bản dịch Kiện Đạt Đa ích kỷ của Diệu Hạnh Giao Trinh. Đây là một bản dịch từ tiếng Trung Hoa ra tiếng Việt, nhưng không thấy bản dịch chua xuất xứ và năm tháng của sáng tác. Nội dung và diễn tiến câu chuyện hoàn toàn giống tác phẩm Sợi tơ nhện của Akutagawa. Đáng tiếc là công việc t́m nguồn chưa đến đích của nó. Paul Carus lấy câu chuyện này từ đâu? không thấy ông nói đến. Tôi sẽ tiếp tục đi tiøm câu trả lời cho câu hỏi này và rất mong bạn đọc tham gia việc t́m kiếm này để làm giàu cho trí tuệ của người Việt nói riêng và của thế giới nói chung. Cuối cùng tôi xin cảm ơn các Anh Đinh văn Thạnh, Trần đ́nh Tưởng và Nguyễn Nam Trân đă cung cấp tài liệu tham khảo, và nhất là các Anh Việt Châu, Tôn thất Phương, Nguyễn Nam Trân đă góp nhiều ư kiến giúp hoàn thiện bài viết này.
Tài liệu tham khảo 1. B́nh giảng về Akutagawa Ryunosuke, Inoue Yasushi 2. Akutagawa Ryunosuke từ A đến R, Nguyễn Nam Trân, e-Văn. 3. History of Japanese Literature, Kato Shuichi, Vol.3. 4. Lịch sử Nhật bản, Vĩnh Sính 5. B́nh giảng về Akutagawa Ryunosuke, Yoshida Seichi 6. B́nh giảng về Akutagawa Ryunosuke, Miyoshi Yukio 7. A History of Japanese Literature, Donald Keene, Vol.3 8. Karma, The Story of Buddhist Ethics, Paul Carus 9. Karma/Nirvana, Two Buddhist Tales, Paul Carus. 10. Watakushi no rirekisho, Suzuki Daisetsu 11. Suzuki Daisetsu Toàn Tập, Vol. 26.
® "Khi
phát hành lại thông tin từ trang này cần
phải có sự đồng ư của tác
giả |