|
CHƯƠNG 1 VĂN HÓA CỦA XĂ HỘI NGUYÊN THỦY.
KHỞI ĐIỂM CỦA LỊCH
SỬ
Trước đây người ta thường
coi lịch sử bắt đầu từ khi
quốc gia được thành h́nh. Ở thời
đại mà dân chúng phải qú phục trước
quyền lực của quốc gia th́ thời
đại chưa có quốc gia bị coi là
thời đại của những con vật chưa
được gọi là con người. Nếu
dạy cho người ta biết rằng, trong
thực tế, đă có thời đại không có
quốc gia, th́ chẳng khác nào như dạy
rằng quốc gia không nhất thiết cần
cho đời sống của nhân loại, và
từ đó có thể đưa đến
một tư tưởng nguy hiểm, hy vọng
trong tương lai thời đại không có
quốc gia sẽ tái sinh.Thời tiền chiến
ở Nhật, lịch sử của xă hội nguyên
thủy hoàn toàn không được đề
cập đến trong các sách giáo khoa ở
cấp tiểu học hoặc cấp trung học,
một cớ trực tiếp v́ lịch sử
Nhật được viết từ những
huyền thoại thần thánh, cho nên xă hội
nguyên thủy đă không có chỗ đứng
trong lịch sử. Nhưng trong thực tế, căn
bản là do ở những ư đồ sâu sắc
như đă nói ở trên.
Song song với việc đó c̣n có thói quen
coi lịch sử bắt đầu từ lúc có văn
hiến, gọi thời đại chưa có văn
hiến là thời tiền sử. Nói một cách
cụ thể, trong nhiều trường hợp,
thời đại không có quốc gia bị xem là
thời đại tiền sử như đă nói
ở trên, và xă hội nguyên thủy được
xếp vào thời tiền sử.
Ngày nay, cách nghĩ không phải chỉ có văn
kiện mới là sử liệu, đă trở thành
thường thức. Quốc gia cũng vậy,
đó chỉ là một trạng thái xă hội
được sinh ra ở một giai đoạn
trong lịch sử loài người. V́ vậy
trong tương lai ở một ngày nào đó,
quốc gia, một sản phẩm của lịch
sử, có thể biến mất đi. Và lịch
sử dài dặc về đời sống của
con người trước khi có quốc gia,
được coi trọng ra.
Ngày nay, thông lệ của học giới là
coi lịch sử nhân loại bắt đầu
từ lúc loài người biết chế biến
những dụng cụ sản xuất để làm
lao động xă hội. Thông thường ngày
nay, lịch sử được viết từ
việc xuất hiện của đồ đá,
một dụng cụ sản xuất, một văn
hóa xưa nhất của con người. Sau
chiến tranh những sách giáo khoa ở Nhật
đă bỏ việc viết sử từ
những truyền thuyết thần thánh, và
từ đó tập quán viết sử từ
thời đại đồ đá đă
được xác lập. Trong cấu tạo xă
hội, thời đại đồ đá là giai
đoạn được gọi là xă hội
nguyên thủy. THỜI
ĐẠI XĂ HỘI NGUYÊN THỦY LÀ MỘT
THỜI ĐẠI NHƯ THẾ NÀO
Măi đến tận những năm sau
thế chiến 2, người ta vẫn c̣n nghĩ
rằng thời đại dùng đồ gốm
Joumon (縄文)1
là thời đại đồ đá duy nhất
ở Nhật. Nhưng vào năm 1949 người
ta đă t́m ra được những đồ
đá không có đồ gốm đính kèm, ở
Iwajuku (岩宿), tỉnh
Gunma (群馬).
Điều đó cho ta thấy rơ đă có
một văn hóa đi trước văn hóa
đồ gốm Joumon, và những đồ đá
của thời đại trước thời văn
hóa đồ gốm Joumon lần lượt
được đào ra ở khắp nơi trong
nước Nhật. Một phần xương người
trong thời đại nầy cũng đă
được đào ra. Nhưng thời đại
trước thời đại đồ gốm
Joumon nầy, đến nay cũng chưa
được biết rơ lắm.
Dẫu sao đi nữa, trong thời đại
đồ đá, chưa có canh tác nông nghiệp,
mọi người đă đi săn nai, heo
ở rừng núi, đi bắt cá, ṣ ở
biển, đi nhặt trái cây để sinh
sống. V́ vậy không có những tập thể
sinh hoạt lớn đáng kể được
lập ra, do đó tài sản do sự tích lũy
vật chất thặng thừa, không thành h́nh.
Quyền lực chính trị đặt cơ
sở trên sức mạnh của giàu có, không sinh
ra được. Xă hội nguyên thủy là
một xă hội không có quyền lực quốc
gia, cũng không có đối lập giai cấp,
một đặc chất căn bản khác
biệt với những giai đoạn khác
của xă hội. ĐỒ
GỐM JOUMON
Không biết rơ xă hội nguyên thủy
của Nhật đă kéo dài bao lâu. Với
khả năng của khoa học hiện nay, không
có phương pháp nào có thể tính toán chính xác
tuyệt đối được năm tháng
của thời đại không có văn kiện
nầy. Nhưng có điều không thể nghi
ngờ được là ít nhất thời đại
đồ gốm nầy đă kéo dài trên dưới
10 ngàn năm, một thời gian hết sức là
dài.
Tổ tiên
người Nhật khi di chuyển đến vùng
đất nầy, có lẽ đất Nhật c̣n
dính liền với đại lục châu Á.
Những người trong thời đại đồ
đá, những người ở quần đảo
nầy tuy không tiếp nhận được
ảnh hưởng của đại lục,
đă tự ḿnh từ từ nâng cao tŕnh độ
văn hóa đồ đá của ḿnh lên. Với
sức sản xuất thấp kém, mọi sinh
hoạt tùy thuộc vào việc lượm
lặt tài nguyên thiên nhiên, người Nhật
thời đồ đá đă không thể
nhảy vọt giai đoạn được. Nhưng
trong giai đoạn nầy họ đă thành công
trong việc nâng cao tới mức tối đa
kỹ thuật chế biến đồ đá và
đồ gốm. Đồ
gốm Joumon với nhiều h́nh dạng và
kiểu cách đă chứng minh điều đó
(h́nh 1).
Tỉ dụ, tùy theo dạng thức khác nhau
của từng giai đoạn, đại khái ta có
thể chia đồ gốm Joumon ra thành 6 thời
kỳ là thảo sáng kỳ, tảo kỳ,
tiền kỳ, trung kỳ, hậu kỳ, và văn
kỳ, hoặc tỉ mỉ hơn th́ có thể
chia ra thành hàng chục kỳ. Trong suốt một
thời kỳ dài, đồ gốm Joumon đă
biến đổi đạng thức theo thời
gian. Thời tảo kỳ, h́nh dạng của
những lằn chỉ quấn, lăn trên mặt
đồ gốm hết sức đơn
thuần, rồi những dạng dây thừng
(joumon) hiện rơ ra, lần lần đến
thời tiền kỳ th́ h́nh dạng bên ngoài
trở thành phức tạp hơn. Thời trung
kỳ, có nhiều trang sức lập thể
với những chạm trổ hoặc những
điêu khắc vách mỏng để thông ánh sáng.
Thời hậu kỳ và văn kỳ có những
chậu sâu, chậu cạn, chậu có đài,
đĩa, b́nh, ḷ hương v.v…từ h́nh
dạng tới trang sức, thiên biến vạn hóa,
hết sức hoa lệ, sự đa dạng đa
thái đó thật đáng kinh ngạc. Đồ
gốm Joumon đă bành trướng phong phú
về kiểu cách. Sự phát đạt kỹ
thuật xoay lỗ trong đá cứng cộng
với sự thành thục trong kỹ năng công
nghệ, một đặc sắc của lịch
sử văn hóa Nhật ,đă bắt đầu
hiện ra từ lúc đó. SỨC
SẢN XUẤT BỊ Đ̀NH TRỆ.
Nhưng sự phát triển của kỹ
thuật gia công về đồ đá và đồ
gốm không có nghĩa là kỹ thuật sản
xuất của người đồ đá có
tiến bộ. Ở Âu châu trong thời đồ
đá cũ, người ta đập vỡ đá
núi để lấy đồ đá ra dùng,
thời nầy không có chế biến đồ
gốm, cũng không có canh nông. Nhưng đến
thời đại đồ đá mới, đồ
đá được mài để sử
dụng, đồ gốm được chế
biến ra, có canh nông và mục súc. Đối
lại, ở Nhật trong thời đại đồ
gốm Joumon, có đồ đá được mài,
có đồ gốm, những đặc trưng
của thời đồ đá mới có đầy
đủ, nhưng về mặt sinh sản, canh nông
và mục súc chưa được biết, đó
là điểm khác biệt lớn.
Ở Mesopotamia (một vùng của I-rắc ngày nay) văn hóa kim
loại đă bắt đầu từ 4 ngàn năm
trước CN. Ở Trung Quốc, lân bang của
Nhật, đồng xanh đă được
chế ra vào 1600 năm trước CN và đồ
sắt đă được dùng vào khoảng 400
năm trước CN. So sánh với việc
nầy, ta thấy rơ có sự đ́nh trệ trong
việc phát triển năng lực sản
xuất ở Nhật, một trễ nải trong
niên đại tuyệt đối. Tuy đă vào
được thời đại đồ đá
mới, Nhật vẫn chưa ra khỏi nền
kinh tế dựa vào săn bắn và lượm
lặt. Điều nầy xảy ra v́ Nhật là
quần đảo ở lệch trên biển đông
của đại lục Á châu, đây cũng là
đặc chất của văn hóa Nhật trong
suốt lịch sử. Sự đ́nh trệ trong
năng lực sản xuất như thế
nầy nói lên rằng mặc dù người
Nhật ở thời đồ đá mới có tài
năng về công nghệ, phát huy trong cách gia công
đồ đá và đồ gốm, nhưng
nội dung tinh thần vẫn bị đóng đinh
ở giai đoạn thấp kém. Về cách dùng
nguyên liệu vật chất để chế
biến, người Nhật có một năng
lực cao, nhưng là người cấu thành xă
hội, họ có một tự giác thấp, điều
nầy đă tạo ra sự bất quân b́nh
kỳ diệu trong văn hóa xă hội nguyên
thủy ở Nhật. SỰ
CHI PHỐI CỦA BÙA PHÉP (CHÚ THUẬT)
Cho đến
ngày nay, nội dung đời sống tinh thần
của những người thời đồ
đá cũng chưa được biết rơ.
Từ những di vật như những gậy
đá to lớn không thực dụng giống h́nh
dương vật, đến những tượng
đồ gốm của đàn bà có vú rơ
rệt, đó là những vật dùng trong bùa phép,
khiến ta có thể tưởng tượng
rằng ở thời đó, bùa phép đă chi
phối mọi sinh hoạt của con người.
Trong bối cảnh bùa phép, thật sự đă
có những gia công trên thân thể con người
qua những bằng chứng là ở hàm răng
trong đầu lâu của người đồ
đá có dấu mài hoặc nhổ răng theo h́nh
răng cưa. Tín ngưỡng bùa phép bất
hợp lư có một sức mạnh rất lớn
trong đời sống con người thời
nầy. “Khuất táng”, một cách táng bằng
cách bẻ bốn chân tay của người
chết, hoặc một cách táng khác để thi
hài ôm đá trong khi chôn, cho ta thấy cách suy nghĩ
thời nguyên thủy là sợ người
chết sẽ sống về. Gần đây, ngày
nay thậm chí có học thuyết cho rằng
những ổ ṣ, nơi bỏ vỏ ṣ, hoặc
xương động vật mà họ lấy làm
thực phẩm, không phải chỉ là nơi
bỏ rác, mà là nơi cúng tế để
đưa linh hồn của những thực
phẩm nầy lên thiên đàng, và cầu mong
những thực phẩm đó trở lại
trần thế, làm cho đời sống ăn
uống của họ được phong phú hơn. Những
quan hệ liên tục giữa văn hóa Joumon
với văn hóa Yayoi (弥生)2
sau đó trở về sau, c̣n rất nhiều
điều chưa biết được. Sự
quan hệ giữa tín ngưỡng bùa phép và tín
ngưỡng dân tộc đời sau cũng chưa
biết được. Trước khi xây cất
một viện nghiên cứu nguyên tử lực,
người Nhật hiện đại vẫn c̣n
làm lễ trấn thổ địa. Điều
nầy cho ta thấy ngay ở những kiến
thiết văn hóa khoa học cận đại
nầy những nghi thức bùa phép vẫn c̣n
quấn quít. Chúng ta không thể không kinh ngạc
trước sức sống mạnh mẽ của
những tư tưởng nguyên thủy trong
suốt lịch sử Nhật.
Thêm nữa, những chi tiết về tổ
chức xă hội đời nầy cũng chưa
biết được. Nhưng trong xă hội nguyên
thủy nơi mà bùa phép chi phối rộng răi
đời sống của mọi người,
điều chắc chắn là những trưởng
lăo biết nhiều về bùa phép đă giữ
vai tṛ thống chế tập đoàn. C̣n một
điều nữa là những tượng người
đồ gốm đời nầy đều là
tượng của phụ nữ, điều
nầy cho ta nghĩ được rằng phụ
nữ đă có địa vị cao trong xă
hội (h́nh 2). Những năm sau đó cho đến
lúc cuối thời thượng cổ, phụ
nữ Nhật đă không bị rớt xuống
địa vị lệ thuộc hoàn toàn vào nam
giới, là nhờ một số phong tục,
chế độ của xă hội nguyên thủy c̣n
được duy tŕ, cho nên ta phải nghĩ
rằng ở xă hội nguyên thủy địa
vị của phụ nữ cao. Suy luận rằng
cấu tạo gia đ́nh thời nầy đặt
trên chế độ mẫu hệ, lấy liên
hệ mẹ con, một liên hệ trực
tiếp về máu mủ làm căn bản cho gia
đ́nh, không phải là một suy luận vô lư v́
ở thời nguyên thủy nầy, giàu nghèo không
cách xa lớn lao, nên không thể trở thành cơ
sở vật chất để phân biệt nam
nữ. Đó cũng là lư do sinh ra học
thuyết xem chế độ “hôn nhân thăm
vợ” lan hành rộng răi trong thời thượng
cổ, ở đó vợ chồng sống riêng
với nhau, là những tàn tích phong tục của
chế độ mẫu hệ.
Những di tích cư trú thời Joumon, cho
thấy thời đó người ta sống trong
những căn nhà được gọi là tateana
juukyo (竪穴住居)
(nhà lỗ thẳng),
đó là những gian nhà đất h́nh vuông
hoặc bầu dục gần như vuông,
được đào hơi thấp xuống
đất, rồi cắm trụ cây lên, lợp mái
nhà. Đôi khi có trấn đá ở gian nhà đất,
nhưng hiếm. Những nhà lỗ thẳng không
sàn nầy, đến mấy trăm năm sau
thời thượng cổ vẫn c̣n là nhà
cửa của thường dân thời đó,
điều đó cho ta thấy văn hóa của xă
hội nguyên thủy ở Nhật tồn tại
rất lâu dài.
Với cảm giác hiện đại, đặc
chất vô chánh phủ, vô giai cấp trong văn hóa
của xă hội nguyên thủy được ca
tụng, nhưng ta cần phải nhớ rằng
thời đại nầy có văn hóa với
nội dung thấp kém, mọi rợ, đặc
trên sức sinh sản thấp. Nhưng trong
một thời gian dài sau đó, nền văn hóa
nầy vẫn c̣n tồn tại trong hậu
thế, nên ư nghĩa lịch sử của nó
cần được tôn trọng.
Xă hội nguyên thủy của Nhật, phát
triển một cách khác biệt qua mấy ngàn năm,
đă bắt đầu biến đổi
một cách căn bản do việc du nhập
kỹ thuật sản xuất mới từ đại
lục vào, khoảng 200 năm trước CN. Văn
hóa Joumon chấm dứt và một nền văn hóa
mới ra đời, được đặc
sắc hóa bằng đồ gốm Yayoi trong đó
người ta bắt đầu dùng đồ kim
loại và canh tác ruộng nương. Một xă
hội vô giai cấp, vô chánh phủ kéo dài
mấy ngàn năm biến mất, thay vào đó
một xă hội chính trị đặt trên
sự chi phối giai cấp kéo dài đến ngày
nay, thành h́nh. 1
Thời
đại đồ gốm Joumon: thời đại
đồ đá từ 10 ngàn năm đến
4-5 trăm năm trước CN. Đồ
gốm thời nầy trên mặt dấu dây
xiết hoặc dây lăn. 2
(Thời
đại Yayoi) , đồ gốm Yayoi: Đồ
gốm được t́m thấy ở phố
Hongo Yayoi, Toukyou vào năm 1884 (Minh Trị năm
thứ 17). Đồ gốm được nung
ở thời đại Yayoi có màu đỏ nâu,
được dùng để nấu nướng,
tích trữ vật liệu, hoặc dùng làm chén
bát. |
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương 2 ]