|
CHƯƠNG 2 VĂN HÓA THỜI
KỲ ĐẦU XĂ HỘI THƯỢNG CỔ VĂN HÓA KIM LOẠI ĐẾN NHẬT Trong lúc mọi người bị đóng kín trong quần đảo Nhật với một văn hóa đ́nh trệ ở giai đoạn đồ đá, th́ ở đại lục dân tộc Hán đă sớm bước vào thời kỳ văn hóa kim loại và đă lập ra một quốc gia lớn mạnh.Thời nhà Hán, Trung Quốc đă đi vào thời đại đồ sắt. Dân tộc Hán bành trướng bốn phương, gây ảnh hưởng đến Nhật Bản. Kỹ thuật canh nông và văn hóa kim loại đă đến Nhật.
Thông thường,
trong trường hợp văn hoá kim loại phát
triển một cách tự lập, thời đại
văn hóa đồng xanh xuất hiện trước
rồi sau đó tiến đến thời đại
đồ sắt. Nhưng nhờ ảnh hưởng
của văn hóa Hán tộc, trong lúc đó đă
vào thời đại đồ sắt, nên
Nhật đă nhảy vọt được
từ thời đại đồ đá đến
thời đại đồ sắt, mà không qua
thời đại đồng xanh. Nên lúc ban sơ
của thời đại kim loại, ở
Nhật, đồng xanh đă được dùng
song song với đồ sắt. Ở đây ta cũng
có thể thấy văn hóa sử của Nhật
có một đặc điểm khác biệt
với văn hóa sử của những nước
văn minh tiền tiến. QUỐC
GIA VÀ GIAI CẤP ĐƯỢC THÀNH LẬP
Bắt đầu canh tác ruộng nương,
điều đó đă gây một ảnh hưởng
to lớn, làm thay đổi hoàn toàn cấu
tạo của xă hội Nhật. Ở thời
đại đồ đá, mọi người không
thể tập trung nhiều ở một chỗ
để sinh sống v́ trong một thời gian
ngắn lương thực sẽ bị lượm
lặt, hái lấy mất đi. Nhưng khi
bắt đầu canh tác ruộng nương, người
ta cần có một lực lượng lao động
chung to lớn, để khai khẩn đất
đai hoặc làm đường dẫn nước,
nên mọi người bắt đầu tập
trung khắn khít ở những làng xóm. Mọi người
có thể tích lũy những vật thặng
thừa và từ đó sự phân biệt giàu nghèo
do sự lớn nhỏ mạnh yếu về lao
động xuất hiện. Giàu bắt nghèo
lệ thuộc, đôi lúc bắt làm nô lệ và
sự quan hệ bốc lột về giai cấp
được thành h́nh.
Quan hệ giai cấp đặt cơ sở
trên điều kiện vật chất như
thế, và với bối cảnh đó quan hệ
chi phối về chính trị được sinh
ra. Các tập đoàn chính trị nhỏ mọc lên
khắp nơi. ”Hán thư”, một sách địa
lư ,một văn kiện xưa nhất trên
thế giới viết về Nhật, có một bài
viết về quần đảo Nhật vào
khoảng 100 năm trước CN như sau
“Ở giữa biển Lạc Long có người
Oải (倭人)
(wa-jin) (xem chú thích)
có cả trăm nước”. Điều đó
cho ta biết vào lúc đó ở Nhật có cả
trăm nước.
Sau sách địa lư “Hán thư”, chính
sử của Trung Quốc có viết rằng
ở những nước đó có vua. Trong
những kamekan (甕棺)[1]
hoặc shisekibo (支石墓)[2]
ở vùng Kyuushuu (九州), người ta t́m thấy có một
số ngọc quí hoặc gương được
chôn cùng với người chết, có lẽ
những người nầy là những người
lănh đạo chính trị. Nhưng shisekibo
hoặc kamekan có đồ quí cùng chôn với người
chết đi nữa cũng chỉ là những ngôi
mộ đặc biệt trong vùng đất mai táng
cộng đồng. Từ đó ta có thể suy
rằng những người được
gọi là vua trong chính sử của Trung Quốc,
những người lănh đạo chính trị
thời nầy cao lắm cũng chỉ là
những trưởng lăo trong cộng đồng
thôn xóm. Ở điểm nầy, có sự khác
biệt to lớn về chất, đối
với chế độ quân chủ chuyên chế
từ thời đại Kofun (古墳)[3]
sau đó. Không thể nghĩ được
rằng tất cả những vua nầy là cha
truyền con nối. Những vua nầy có lẽ là
những vua đă được bầu ra theo cách
chỉ định bằng bói toán trong buổi
họp nào đó của thôn xóm.
Như đă tŕnh bày, ở thời đại
mà tư duy hợp lư chưa được phát
triển nầy, sức của bùa phép rất
mạnh. Tiến đến xă hội canh nông là
một tiến bộ nhân trí lớn lao. Nhưng
lấy canh nông làm sản nghiệp chính, một
sản nghiệp tùy thuộc vào điều
kiện thiên nhiên như khí hậu, thời
tiết mà con người không thay đổi
được, ngược lại làm cho sự
cần thiết của bùa phép lớn ra. Những
nghi lễ canh nông có tính cách bùa phép nhằm
mục đích bảo đảm thu hoạch sung túc,
công việc canh tác trôi chảy, là những nghi
lễ rất cần cho cộng đồng thôn xóm.
Cho nên không lạ ǵ khi những thầy pháp,
những người làm nghi lễ canh nông,
dần dần giữ một vai tṛ quan trọng
trong cộng đồng thôn xóm.
Một số đồng trạch thời
nầy có h́nh vẽ nguyên thủy được
chú mục, với những đường vẽ
thẳng, về sinh hoạt thực tế của
ngườI Nhật, như những h́nh săn nai
bằng tên, hoặc giă gạo bằng cối, chày.(h́nh
4).
MỘT
QUỐC GIA VỚI CHẾ ĐỘ QUÂN CHỦ THÀNH
H̀NH.
Từ
thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ
thứ 6, nhiều kofun (cổ phần) có lưng
cao, đại diện bằng những ngôi mộ
trước vuông sau tṛn, đă được xây
ra ở toàn quốc, nhiều nhất là vùng Kinai
(畿内).
Những người được táng ở
đây khi c̣n sống chắc đă có một
quyền lực to lớn v́ để xây
những ngôi mộ này, cần phải trưng
dụng nhiều sức lao động, và
những vật cùng chôn trong mộ toàn là
những sản phẩm công nghệ tinh vi như
khúc ngọc (ngọc h́nh
cong dài độ 1 đến 5 phân làm bằng
cẩm thạch v.v… trang trí trên
vương miện), kiếm, gương…
Mặt khác, thời nầy thi hài của
quần chúng vẫn được tiếp
tục mai táng trực tiếp trong đất, không
mồ mả. Điều nầy cho thấy rơ
sự thật là quyền lực chuyên chế
đă mạnh hơn và sự phân hóa giai cấp
đi xa hơn. Kofun tập trung ở vùng Kinai
rồi lần lần lan tràn rộng răi ra đông,
tây, cho ta thấy một sự thật rằng
một v́ vua sinh ra ở tiểu quốc Yamato vùng
Kinai, đă trở thành đại vương
của toàn thể Nhật Bản, thống
trị rộng răi từ những nước
ở miền đông Kinai đến những nước
ở phía tây, vùng Kyuushuu. Từ đây dân
tộc Nhật được thống nhất
về chính trị, trong một quốc gia quân
chủ chuyên chế thời xưa.
Đại vương đă trở thành quân
chủ của Nhật Bản, giữ quyền cai
trị gián tiếp toàn thể Nhật Bản
với h́nh thái liên hợp những nước
nhỏ. Đại vương công nhận sự
thống trị của những v́ vua nhỏ
ở khắp nơi. Nhưng nhờ những tích
lũy về kinh tế và chính trị, sự
thống chế của đại vương
lần lần lớn mạnh ra và một quốc
gia trung ương tập quyền, với chế
độ quan liêu thời xưa đă được
thành h́nh. Một động lực mạnh thúc
đẩy khuynh hướng đó, là sự tích
cực du nhập văn hóa đại lục
của những người lănh đạo.
Ở thế kỷ thứ 4, trong lúc
triều đ́nh Yamato c̣n đang trên đường
thống nhất, Nhật đă tiến đến
bán đảo Triều Tiên, chiếm Biện Thân
(弁辰) (Benshin), không cho dân tộc Triều Tiên
thống nhất về chính trị, đặt
quan ở Nhiệm Na (任那) (Mimana) để cai trị, bắt Tân La
(新羅)
(Shiragi), Bách Tề (百済) (Kudara) phụ thuộc. Những xâm lược
về quân sự của triều đ́nh Yamato, do
sự du nhập văn hóa vật chất cao độ
của đại lục để nâng cao văn
hóa của những người cai trị, đủ
để duy tŕ ưu thế tuyệt đối
đối với những người bị cai
trị.
Những vật cùng chôn trong kofun như gương
đồng của thời lục triều (thời
Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Liêu, Trần
ở giữa hậu Hán và Tấn), hoặc
những gương mô phỏng, vương
miện bằng vàng, những bông tai vàng hoặc
bạc, những ṿng tay bạc, những dây lưng
vàng, những đại đao đầu tṛn
(kantoutachi), là những sản phẩm công nghệ
có tính cách đại lục, những b́nh sueki (須恵器)[7]
được chế bằng kỹ thuật
đồ gốm cao độ du nhập từ
đại lục, nói lên rơ ràng sự thật
đă nói trên. Trong lănh vực văn hóa tinh
thần cũng vậy, qua con cháu của những
người đến từ bán đảo
Triều Tiên, Hán tự được dùng để
ghi chép, và những kiến thức của Trung
Quốc về âm dương, thiên văn cũng
đă được du nhập. Hơn nữa,
đến thế kỷ thứ 6, tượng
Phật, kinh điển của nho học, đă
được nhập khẩu từ Bách Tề
qua. Ưu việt về văn hóa của đại
vương và những hào tộc lớn xung quanh
đại vương, to lớn ra. Những
truyền thuyết thần thoại để
hợp lư hóa quyền uy của đại vương
được thành h́nh, điều nầy cũng
là do ảnh hưởng của tư tưởng
đại lục mà ra. Về chính trị, sự
hấp thụ văn hóa đại lục giữ
một vai tṛ lớn, thể chế “bộ”
để cai trị nhân dân là một chế
độ học được từ chế
độ “bộ” của Bách Tề. Sự xâm
lược về quân sự trên bán đảo
Triều Tiên rơ ràng nhằm mục đích
lấy đường cho sự hấp thụ văn
hóa đại lục, làm đ̣n bẩy tạo
quyền lực cho đại vương.
Từ khi đại vương trở thành
quân chủ thống nhất, những vua nhỏ
trở thành hào tộc phục tùng đại vương,
được đại vương cho tiếp
tục cai trị quần chúng như từ trước
đến nay. Những vua đó và những người
có sức mạnh trong nông dân, được
sở hữu nô lệ, gọi là nô và t́ (nô: đàn ông không có tự do, không có quyền
lợi, làm lao động dưới sự sai
khiển của chủ, t́: địa vị
giống như nô nhưng là đàn bà). Hào
tộc – nông dân – nô t́ là cấu tạo giai
cấp của xă hội thời đó. Tỉ
lệ của nô lệ đối với toàn nhân
khẩu không lớn lắm, vả lại, kẻ
sản xuất chính thời đó là nông dân, nên
quan hệ chi phối giữa hào tộc và nông dân
là cấu tạo căn bản của xă hội
thời đó.
Như đă nói ở phần trước,
do học hỏi từ Bách Tề, Nhật đă
chia nhân dân ra thành từng “be” 部(bộ),
tỉ dụ như người chế đồ
gốm thuộc “Hasi be” (土師部) (thổ sư
bộ), người chế yên ngựa
thuộc “Kura tsukuri be” (鞍部)
(an bộ) v.v… Tuy có
một số người bị bắt buộc
phải sản xuất công nghiệp đặc thù,
hầu hết không ai là kỹ thuật gia chuyên
nghiệp, thường ngày họ đều là
những nông dân canh tác.
Về gia tộc, ”thị” được
dùng cho tập đoàn có cùng huyết thống,
“tính” (họ)
được dùng cho những gia đ́nh có thân
phận cao, giữ địa vị cai trị cha
truyền con nối. Xă hội thời này
được gọi là “xă hội thị tính”,
một xă hội lấy thị và tính làm chính,
để phân biệt với “quốc gia
luật lệnh” thời sau đó.
Sau đây là phần nói về văn hóa
từ thời Yayoi đến thời xă hội
thị tính, được gọi là thời
đại văn hóa kofun. TẾ
LỄ, MỘT H̀NH THỨC TÔN GIÁO DÂN TỘC
Như đă nói ở chương trước,
trong xă hội nguyên thủy, bùa phép chi phối
rộng răi những hoạt động của xă
hội, nhưng v́ không có văn kiện nên không
biết được một cách cụ thể
nội dung của bùa phép thời nầy. Nhưng
từ thời Yayoi về sau, nhờ ở một
số văn kiện, ta có thể biết
được nội dung của bùa phép rơ ràng hơn.
Không phải chỉ có thế đó, tôn giáo có tính
cách bùa phép trong tế lễ canh nông nầy, sau
đó qua nhiều thay đổi về chất,
vẫn tồn tại đến ngày nay. Nhờ
những nghi thức tôn giáo, và những công
việc liên quan c̣n sót lại, người ta có
thể phục hồi cả những khía cạnh
thiếu sót trong văn kiện.
Học phái “phong tục Nhật bản”,
do học giả Yanagida (柳田) khai thác, đă thành công trong việc
phục hồi hết sức rộng răi, với
một nội dung cụ thể, tôn giáo dân
tộc của Nhật bản, nhờ lấy
những truyền bá trong dân gian làm sử
liệu.
Nhưng “phong tục học” không có phương
pháp để xác định thời gian tuyệt
đối của đối tượng sử
kiện v́ sử liệu duy nhất được
dùng đến là những truyền bá trong dân
gian. Một phương pháp an toàn hơn, đặc
biệt trong trường hợp nghĩ đến
tôn giáo dân tộc với thời gian tuyệt
đối được giới hạn trong
thời cổ, là coi những truyền bá dân gian
chỉ là một phương tiện gián
tiếp, lấy những ghi chép đối ứng
trong văn kiện làm sử liệu trung tâm,
để phục hồi một cách cụ
thể h́nh dáng ngày xưa.
Với phương pháp đó, để
biết h́nh dáng xưa nhất của tôn giáo dân
tộc Nhật, đầu tiên cần phải nói
đến một đoạn văn viết
về phong tục của người Nhật trong
truyện ”Oải chí”. Theo
truyện đó, khi có người chết người
Oải (倭人)
(Wajin) sẽ làm tang lễ mười mấy ngày,
trong thời gian đó, không được ăn
thịt , tang chủ khóc lóc ầm ĩ, những
người khác th́ tập hợp lại,
nhảy múa, ca hát, uống rượu. Tang xong
,cả nhà đi tắm trong ḍng nước.
Những người nầy khi vượt
biển đến Trung quốc, thường
bắt một người làm “Jisai” (持衰)
(tŕ suy), ăn ở như người có tang,
đầu không chải chuốt, không bắt chí,
quần áo dơ bẩn, không ăn thịt, không
gần đàn bà con gái. Nếu có tai họa
hoặc bịnh tật xảy ra, người ta
đổ trách nhiệm lên những người
đó và t́m cách giết họ. Theo phong tục
của họ, khi làm chuyện ǵ họ thường
nướng xương để bói, đoán
điềm kiết hung. Đôi khi họ đốt
mu rùa để đoán điềm mộng
mị. Nữ vương Himiko giỏi đạo
quỉ thần, huyền hoặc dân chúng.
Những điều được ghi trong
“Oải chí”, truyền lại một cách
sống động những sinh hoạt tôn giáo
của Nhật Bản vào thế kỷ thứ 3.
Đây là một văn kiện quí báu cho ta
biết được nội dung của tôn giáo
trong thời cổ Nhật Bản.
Những văn kiện của Nhật như
“ Cổ sự kư” ,”Nhật Bản thư
kỷ” ,”Phong thổ kư” được hoàn thành
khoảng đầu thế kỷ thứ 8, cùng
với những “Chúc từ “(những
bài chúc trong lúc tế lễ), ”Thọ
từ” (những bài
viết chúc Thiên hoàng được phồn vinh,
cai trị trường cửu nhân dân) cũng
được thành h́nh vào khoảng đó, như
sẽ nói sau, là những tài liệu có trùng
hợp phức tạp ở nhiều giai đoạn
nên khó xác định được niên đại
tuyệt đối của nó (năm nào, đời nào). Chỉ có một điều
không thể nghi ngờ được là những
tài liệu nầy nói về những trạng thái
của thời đại sau “Oải chí Oải
nhân truyện”. Tong những văn kiện
nầy của Nhật, một mặt có những
h́nh thái tôn giáo được nh́n nhận là
ở trong giai đoạn mới hơn thời
Oải chí, mặt khác cũng có những h́nh thái
phù hợp với những việc viết trong
“Oải chí Oải nhân truyện”. Từ đó,
ta có thể tưởng tượng ra được
h́nh thái tôn giáo dân tộc Nhật Bản ở
giai đoạn tương đối cũ
nầy.
Tỉ dụ như trong “Cổ sự kư”
có chuyện nói rằng khi Ame no Wakahiko[8] (天若日子)
chết, người ta cất nhà ra để làm
đám tang, suốt tám ngày tám đêm ca hát
nhảy múa, điều nầy trùng hợp
với chuyện nói về tang lễ trong
“Oải chí”. Lại nữa, trong truyện
thần thoại, khi thần Izanagi (イザナギ)[9]
từ xứ Yomi (黄泉)[10]
trở về, đă đến bờ sông tắm
rửa tội, chuyện nầy đối ứng
được với chuyện đi tắm nước
trong “Oải chí”. Chuyện thần thoại, khi
“Amaterasu Oomikami“ (天照大神)
(Thiên chiếu đại thần)[11]
trốn ở nhà đá trên trời, đă nướng
xương vai của nai để bói, trùng
hợp với chuyện nướng xương
để bói trong “Oải chí”, chuyện thiên
hoàng Chuuai (仲哀)
(Trung Ai) khi đi chinh phạt Kumaso (熊襲) (một địa phương ở nam Kyuushuu),
quỉ thần đă nhập vào hoàng hậu
Jinguu (神功) (Thần Công) để truyền cách
thức, khiến ta nghĩ đến chuyện
Himiko dùng đạo quỉ thần, huyền
hoặc dân chúng.
Hơn nữa, dù là ca hát vũ múa trong lúc
chịu tang, dù là nướng xương nai để
bói, dù là thần nữ (巫女)
(miko) bị thần nhập đi nữa, những
tập quán có tính cách tôn giáo nầy trong
thực tế vẫn được duy tŕ đến
đời sau, cho ta thấy rơ h́nh dáng ban sơ
của tôn giáo dân tộc của Nhật Bản.
Từ thời trung thế[12],
có chủ trương gọi tôn giáo dân tộc
của Nhật Bản, với danh từ
“Thần đạo”, và coi đó như một
hệ thống tư tưởng đối
chọi với Phật giáo và Nho giáo. Nhưng
ở trong tôn giáo dân tộc nầy, không có
một giáo nghĩa nào, cũng không có một kinh
điển nào tồn tại. Thời Kamakura (鎌倉)[13],
một số thầy đ́nh (巫祝) (fushuku) bắt chước đạo
Phật, viết ra cái gọi là lư luận
mới, từ đó tôn giáo nầy mới
lấy h́nh thái của “đạo” và lần
đầu tiên được gọi là
“Thần đạo”. Ngoài ra, những lư
luận của đạo nầy, mượn
những bài học của đại lục
về Phật giáo và Đạo giáo, bày ra
những lư luận hoang đường, trống
rỗng không có liên hệ ǵ với những tín
ngưỡng thực tại. Ngay hiện nay,
bản chất của tôn giáo dân tộc Nhật
Bản nầy chỉ có một nội dung duy
nhất là những nghi lễ bùa phép.
Những hành vi bùa phép viết trong “Oải
chí Oải nhân truyện”, cho thấy rơ ràng h́nh
ảnh nguyên thủy của tôn giáo dân tộc
Nhật, có lẽ đó là những hành vi kế
thừa những bùa phép ở trong xă hội nguyên
thủy, một thời đại thâu nhặt lương
thực. Từ thời đại Yayoi, tôn giáo dân
tộc có bản chất là những nghi lễ
canh nông, tất cả mọi bùa phép rốt
cuộc được dùng để cầu mong
cho công việc canh nông được trôi
chảy tốt đẹp.
Trong những hành vi bùa phép, tế lễ
giữ vai tṛ quan trọng nhất trong xă hội.
Mùa xuân khi bắt đầu canh tác, có “Toshigoi
no matsuri “ (祈年祭) (Ḱ niên tế) để cầu mong
được tốt mùa và đến mùa thu lúc
gặt hái, để cảm tạ được
mùa, có “Niiname no matsuri” (新嘗祭)
(Tân thường tế) để cầu mong năm
tới cũng được mùa. Tế lễ
ở hai mùa xuân thu đă biểu hiện một
cách minh bạch vai tṛ của tôn giáo dân tộc
với tính cách nghi lễ canh nông.
H́nh thái và nội dung của tế lễ thường
biến đổi theo thời đại, đôi
lúc có những yếu tố được thêm
ở đời sau, đôi khi bị hiểu
lầm như có từ đời xưa. Đa
số những h́nh thái cũ của tế lễ
xưa, khác hẳn với thường thức
của người đời sau.
Trước nhất, tế lễ của
đời sau trên nguyên tắc là tế lễ
ở đ́nh (神社) (jinja), một bày biện kiến trúc
cố định. Nhưng tế lễ thời sơ
khai thường được làm ở những
bày biện lâm thời, tế xong dẹp đi, không
cần phải có bày biện kiến trúc cố
định. Một nơi nào đó được
dùng nhiều lần để tế lễ sẽ
được coi như một nơi đặc
biệt thiêng liêng, rồi ở đó một ngôi
đ́nh sẽ được cất ra .Tỉ
dụ như đ́nh Miwa (三輪) (Tam Luân)[14],
đ́nh nầy chỉ có bái điện để
vái mà không có kiến trúc của bản điện,
bản điện của đ́nh nầy là
ngọn núi Miwa. Đ́nh “Yudonosan” (湯殿山)[15]
(Thang Điện Sơn), bản điện là
một cái hang đá chỗ suối nước nóng
chảy ra. Những nơi giống như tỉ
dụ trên c̣n lại ở khắp nơi,
cộng với tỉ dụ như trong tập
“Manyou” (万葉) (Vạn Diệp) [16]
có chữ viết là đ́nh (神社) (jinja) lại bắt phải đọc là
rừng (mori), cho ta tưởng tượng
được h́nh thái nguyên thủy của đ́nh.
Đ́nh là một bày biện kiến trúc và
ở bản điện có thần trấn
tọa, đó là một thường thức
của người đời nay. Có phải đó
là một thường thức được rút
ra từ chỗ là ở chùa phật, lúc nào cũng
có sẵn tượng phật. Ở tôn giáo dân
tộc, ông thần ngày thường không cần
phải có mặt ở bản điện,
chỉ cần giáng lâm nhập vào cây cối, gương,
kiếm hoặc đồ gốm v.v...khi được
tế lễ.
Điều nầy liên quan sâu với
việc rằng, thần trong tôn giáo dân tộc
Nhật Bản, không nhất thiết phải là
một hóa thân từ người ra (人格神) (jinkakushin). Ông Motoori Norinaga (本居宣長)[17]
đă giải nghĩa chữ thần (神) (kami) thời xưa trong “Cổ sự kư”
như sau. Trong những thần của Nhật, có
thần cao cả, có thần bần tiện, có
thần mạnh, có thần yếu, có thần
tốt, có thần xấu, trên căn bản, khác
với tôn giáo nước ngoài, ở đó
chỉ có thánh nhân, Bồ tác, Phật v.v.. Người
cũng được, chim thú cũng được,
sông núi thảo mộc cũng được,
nếu có cái ǵ khác thường thiêng liêng, có
thể trở thành đối tượng để
tôn ngưỡng th́ tất cả đều là
thần. Điều đó nói rơ đặc
sắc của thần Nhật Bản.Theo Norinaga
bất cứ vật ǵ có quan hệ mật
thiết với sinh hoạt hằng ngày của con
người, tỉ dụ những động
vật như rắn, nai, chó sói, khỉ v. v..
những vật thiên nhiên như cây cối, nham
thạch, đến những vật chế
tạo như gương, kiếm, ngọc,
những vật có liên quan tới bùa phép,
những vật được coi như có
sức làm trung gian cho thần linh, những vật
đó được nghĩ là thần.
Như sẽ nói ở phần sau, sau khi
chuyện thần thoại được xếp
đặt thành hệ thống, phong tục
nối kết những kami (神)
(thần) hoặc mikoto (尊) (cũng là thần, nhưng
thường được nhân cách hóa) trong
chuyện thần thoại với những thần
trong đ́nh để tế lễ lan rộng ra.
Nhưng từ đầu, đ́nh không phảI là
nơi để tế những vị thần
được nhân cách hóa và có tên riêng. Xem
chuyện trong “Nhật Bản thư kỷ”,
thần của đ́nh Miwa (xem
chú thích), nơi được xem là chỗ
để tế “Oomononushi no kami” (大物主人) (Đại vật chủ thần)[18],
là con rắn. Trong “Nhật Bản linh dị” có
chuyện nói rằng, thần của đ́nh Taga (多賀)
(Đa Hạ)[19]
, nơi tế Izanagi no mikoto, là con khỉ
trắng. Những h́nh dáng cũ của các
thần được tế trong đ́nh c̣n
được giữ rơ trong những chuyện trên,
trước khi bị kết hợp với
thần nhân cách hóa có tên riêng. Khi tế lễ là
những hành vi để cầu mong cho canh nông
được thuận lợi, th́ nghi lễ là
điều quan trọng, không cần phải đặt
thần có nhân cách một cách cố định
để tế lễ. Đ́nh chỉ là thánh
địa để thi hành tế lễ, sự
tồn tại của đ́nh để tế
lễ, không phải là tiền đề.
Kế đó, một h́nh thái quan trọng căn
bản của tôn giáo dân tộc Nhật là nghi
lễ có tính cách tập đoàn của một
cộng đồng thôn xóm. Sự điều ḥa
trong canh nông là vấn đề lợi hại
của cộng đồng thôn xóm, cho nên
những nghi thức bùa phép để bảo
đảm vấn đề đó, đương
nhiên phải là công việc chung của thôn xóm.
Sự thật, cho đến gần cận đại,
tế lễ “chinju” (鎮守)
(trấn thủ), lễ tế thần trấn
thủ vào mùa xuân và mùa thu của làng xă, là công
việc chung hằng năm được cả làng
hợp sức lại làm. Nơi đó, những
cầu nguyện có tính cách cá nhân không xen vào
được, vấn đề cứu tế
linh hồn cá nhân, một vấn đề tinh
thần cao độ, hoàn toàn không được
tôn giáo dân tộc động đến.
Đến đời sau, lần lần có
những cầu nguyện ở đ́nh về phúc
đức, bài trừ tai họa có tính cách cá nhân.
Và theo những bài thơ trong tập”Vạn
Diệp” vào khoảng thế kỷ thứ 8
đă có những cầu nguyện có tính cách cá
nhân như cầu cho yêu đương thành
tựu, du lịch an toàn. Điều nầy cho
thấy có sự xuất hiện của một
nội dung tín ngưỡng mới, và chính đây
là hiện tượng nói lên sự thay đổi
về nội dung của tôn giáo dân tộc. Cùng
với sự phát triển của thành thị,
những đ́nh không có liên quan ǵ đến nghi
lễ canh nông được sinh ra, và những
bản bùa cầu lợi như “buôn bán phát
đạt” v.v…được bày ra để
thu thập tiền cúng điếu. Ở đô thành,
cho đến thời cận đại, tế
lễ vẫn được tổ chức theo tính
cách tập đoàn, coi thường ư chí cá nhân,
và những phong tục gây chuyện bằng cách vác
“kiệu thần” (神輿) (mikoshi) phá phách những nhà không đóng
góp tiền cho tế lễ, vẫn c̣n tiếp
tục. Điều nầy không lạ v́ tế
lễ không đặt cơ sở ở tín ngưỡng
cá nhân mà là công việc tập đoàn của
khu vực cộng đồng.
Nói là công việc của tập đoàn, nhưng
công việc nầy có tính cách thôn xóm, không
phải là công việc có tính cách quốc gia.
Đối với quân chủ của quốc gia
thời xưa, quan tâm lớn của họ là thu
hoạch của nông gia có được sung túc
hay không, v́ đó là nguồn thu nhập tài chính
chính yếu của họ. Cho nên tuy nghi lễ canh
nông là công việc của thôn xóm, nhưng đă
được quân chủ thi hành như việc công,
và trong chính phủ, có những thị tộc như
Nakatomi (中臣),
Imube (斎部) chuyên giúp quân chủ thi hành quyền
tế lễ lớn lao trong việc tế tự.
Dẫu sao đi nữa nghi lễ nầy cũng
chỉ là công việc của giai cấp cai
trị, chớ không phải là “quốc giáo”
để cưỡng chế dân thường. Công
việc coi Thần đạo như là “quốc
giáo”, và bắt dân chúng phải đi cúng đ́nh,
là một sáng tác của quan lại trong chế
độ quân chủ thiên hoàng tuyệt đối
từ thời Minh Trị trở đi, không
phải là truyền thống lịch sử trong tôn
giáo dân tộc Nhật Bản.
Khác với dân tộc German (Đức) khi
qui y đạo Thiên Chúa, họ đă bỏ tín
ngưỡng cố hữu của dân tộc
họ, ở Nhật, sau khi đạo Phật
được truyền bá rộng răi, tôn giáo dân
tộc vẫn được bảo tŕ, tín ngưỡng
thần đ́nh và tín ngưỡng Phật giáo
đă mọc rễ song song trong đời
sống của người Nhật. Cần
nhớ rằng ngay như hiện nay, ở thành
thị hoặc ở thôn xóm, tế lễ mùa xuân
và mùa thu vẫn được tiếp tục
cử hành. Tập quán treo Simekazari[20]
(注連飾り) hoặc cúng Kagamimochi (鏡餅)[21]
, Kadomatsu[22] (門松)
ngày Tết, ngoài mặt như không có ǵ liên quan
đến tôn giáo dân tộc, hoặc một
số cúng tế được coi là cúng tế
của Phật giáo, giao cho tăng lữ Phật
giáo tụng niệm như higan (彼岸)[23]
hoặc obon (お盆)[24]
, đều là những việc làm xuất phát
từ tôn giáo dân tộc. Tỉ dụ như lúc
obon, người ta nghĩ rằng hồn của
tổ tiên đă chết sẽ từ mồ
mả trở về nhà. Điều nầy hoàn toàn
không giải thích được theo giáo nghĩa
của Phật giáo, một giáo nghĩa phủ
định sự bất diệt của linh
hồn. Rơ ràng nghi lễ tôn giáo của dân
tộc đă mang mặt đạo Phật.
Một sự thật điển h́nh là
đạo Phật, một tôn giáo ngoại lai
phổ biến trong nhân loại, sau khi vào Nhật
đă song song tồn tại cùng với lễ
thần của Nhật trong một thời gian dài.
Một đặc sắc lớn trong văn hóa
Nhật Bản là tầng lớp văn hoá cũ
có tính cách truyền thống, sẽ không bị
mất dưới sự phát triển của
một tầng lớp văn hóa mới được
sáng tạo trong nước hoặc từ ngoài vào.
Những tầng lớp nầy cùng tồn tại
chồng chất lên nhau. Như đă nói ở
phần trước, quần đảo Nhật
Bản cách xa đại lục nên ảnh hưởng
của văn hóa hải ngoại có một
giới hạn lớn về chiều sâu. Người
Nhật lúc nào cũng hết sức nhiệt tâm
trong việc hấp thụ văn hóa tiên tiến
hải ngoại, họ có một năng lực
cao đồng hóa ḿnh với văn hóa cao độ
từ ngoài đến. Mặc dầu vậy, văn
hóa từ ngoài đến, đă không gây ra
được một ảnh hưởng sâu
rộng đủ để thay đổi từ
căn bản đời sống của ngườI
Nhật. Văn hóa truyền thống, bất
cứ lúc nào, cũng được tiếp
tục duy tŕ sâu sắc trong sinh hoạt của người
Nhật. Biển là một chướng ngại
thiên nhiên làm ngăn cách sự tiếp xúc
rộng răi giữa người Nhật và
những dân tộc khác ở hải ngoại và
đó là yếu tố căn bản duy tŕ
một cách rộng răi truyền thống văn hóa
của Nhật. Người Nhật đă hấp
thụ văn hóa hải ngoại qua một
thiểu số người đi lại trên
biển (khác hẳn với t́nh trạng của
thế kỷ 20, do sự phát đạt về
giao thông, mọi người trên thế giới có
thể giao lưu với nhau dễ dàng hơn).
Một điều nữa là kỹ thuật
sản xuất nông nghiệp, một sản
nghiệp cơ bản, đă không cất cánh
được từ kỹ thuật của
thời Yayoi, nên cách thức sinh hoạt của
cộng đồng nông thôn được duy tŕ,
không thay đổi được từ gốc
rễ.
Ngay ở thời cận đại nầy,
thời đại mà tinh thần hợp lư
được phát triển, những bùa phép
của tôn giáo dân tộc vẫn c̣n sống sót
ở nhiều mặt, không cần phải nói
ở thời cổ, thời đại mà tinh
thần hợp lư chưa được phát
triển, tôn giáo đă chi phối sâu sắc
mọi việc trong sinh hoạt. Có thể nói
rằng ở thời ban sơ, không có một văn
hóa nào không có liên quan tới tôn giáo, từ
nghệ thuật, âm nhạc, ca vũ, đến
chính trị, kinh tế. Với bối cảnh
đó, quyền lực chính trị đă
được xác lập dựa trên khả năng
bùa phép của các fushuku (巫祝)
(ông đồng, bà bóng)
như đă nói ở phần trước.
Thời cổ, “chợ” nơi để trao
đổi những sản phẩm thặng
thừa, đă là nơi có quan hệ không thể
tách rời với tế lễ của đ́nh.
Chợ cũng là nơi mọi người
tập hợp lại ca vũ (歌垣) (utagaki v.v…). Những chúc từ hoặc
thọ từ, đến những truyền
thuyết hoặc ca dao, trong nghĩa rộng đều
là những văn nghệ tôn giáo. Đời sau,
ḥa ca, truyện, tạp nghệ (猿楽能) (sarugaku nou), kịch búp bê (人形浄瑠璃)
(ningyoujoururi), những nghệ thuật độc
đáo cao độ, đều được
sinh ra từ những công việc có quan hệ
đến tôn giáo dân tộc.
Bùa phép “kukadachi” (探湯),
(nhúng tay vào nước
sôi), thường được dùng ở ṭa
án, để chứng minh lời chứng là đứng
đắn không dối trá. Bùa phép ”harae” (祓) (đuổi tà) trong tôn
giáo có nghĩa là loại trừ dơ bẩn,
đồng thời đó cũng là một h́nh
phạt tịch thu tài sản của tội nhân.
Motoori Norinaga (1730-1801) (học
giả thời Edo (江戸))
(xem chú thích) có
giảng rằng “Tsumi” (ツミ) (tội)
ngoài những hành vi ác đức của con người
c̣n bao gồm tất cả những điều mà
người ta gớm ghét như bịnh tật,
tai họa hoặc những điều dơ
bẩn xấu xa. Cùng với những giải thích
ở phần trước về kami (カミ) (thần),
ở đây ông Norinaga cũng đă nêu ra
được một cách chính xác đặc
chất của tư tưởng thời cổ.
Đúng như Norinaga đă chỉ trích, từ
những tội về h́nh pháp đến
những thiên tai, hoặc những dơ bẩn tôn
giáo (như kinh nguyệt, sinh nở.v.v..) tất
cả đều được bao gồm trong khái
niệm về tội (tsumi) và bùa phép “harae” (祓) có cơ
năng rộng lớn v́ phải đối phó
với quan niệm về tội nầy. CHUYỆN
ĐƯỢC TRUYỀN BỞI “CỔ SỰ KƯ”
VÀ “NHẬT BẢN THƯ KỶ”
“Cỗ sự kư” và “Nhật Bản thư
kỷ” cùng với những văn kiện
được hoàn thành vào đầu thế
kỷ thứ 8, là những sử liệu quan
trọng, những di sản văn hóa quí báu,
truyền lại những h́nh dáng tôn giáo dân
tộc tương đối xưa, đó cũng
là những văn kiện xưa nhất do chính người
Nhật viết, ghi chép tư tưởng,
lịch sử, xă hội của Nhật. Nhưng
tính chất của những sách nầy rất
phức tạp, phần lớn bị hiểu
lầm, cho nên cần phải nghĩ đôi chút
về tính chất của nó.
Ông Ono Yasumaro (太安万侶)
hoàn thành “Cổ sự kư” vào năm 712, và thân
vương Toneri (舎人)
hoàn thành “Nhật bản thư kỷ” vào năm
720. Nhưng Yasumaro và Toneri đều không phải
là ngườI đầu tiên viết ra sách
nầy, hai ông đă tu chỉnh lại những văn
kiện gọi là “Taiki” (帝紀) (Đế kỷ) và “Kuji” (旧辞)
(Cựu từ) được truyền lại
từ đời xưa và thêm bút vào để
hoàn thành sách nói trên. Cho nên, chỗ mới
nhất trong sách được thêm bút vào
thế kỷ thứ 8, và những chỗ c̣n
lại đại khái lấy những tài liệu
được viết từ trước làm chính
yếu.
Nội dung của sách phần lớn rút ra
từ những văn kiện, có lẽ được
viết vào thế kỷ thứ 6, trước
thời “Taika no kaishin”[25]
(大化の改新) (Đại hóa
cải tân), cho nên trừ những phần
được tô điểm, thêm bớt, ta có
thể coi đó là sản phẩm của xă
hội “thị tính”. Vả lại, văn
kiện nầy đôi lúc bao gồm những
truyền thuyết cũ trước thế
kỷ thứ 5, lại có những yếu tố
của nhiều giai đoạn trong thời gian dài
hằng mấy trăm năm trùng hợp với
nhau, nên không thể nói một cách đơn
thuần rằng đây là văn kiện của
một thời kỳ nào đó.
“Cổ sự kư “và “Nhật Bản thư
kỷ” lấy h́nh thể của một sách
lịch sử viết theo thứ tự thời
gian về gia phong và những việc đă
xảy ra trong các đời thiên hoàng. Đúng là
trong 2 sách nầy có những phần ghi lại
sự thật lịch sử một cách trung
thật, nhưng đồng thời cũng có
nhiều chỗ có những sáng tác về tư tưởng,
thêm bớt và thay đổi sự thật
của lịch sử, nên không thể coi 2 sách
nầy là sách lịch sử được.
Quyển 3 trong “Nhật bản thư kỷ
“ được công nhận là đă ghi lại
được một cách chính xác sử thật
nói về thiên hoàng Tenmu (天武)
(Thiên Vũ) và thiên hoàng Jitou (持統) (Tŕ Thống). Ngược lại
quyển “Kamiyo” (神代)
(Thần đại) trong 2 sách nói trên hoàn toàn là
sáng tác về tư tưởng. Ở trung gian có
những phần có tính cách ghi lại, cùng
với những phần không phải là ghi
lại, lẫn lộn với nhau. Những yếu
tố không phải là ghi lại, không đồng
nhất, rời rạt với nhau về tính
chất và niên lịch, đôi lúc là những sáng
tác trên bàn giấy của những người biên
chép, đôi lúc là những truyền thuyết
của dân gian hoặc của hào mục. Ở
đây xin trích một vài tỉ dụ được
coi là những truyền thuyết dân gian, có
lẽ đó là những yếu tố di sản văn
hóa xưa nhất.
Trong chuyện lập nước của hai
thần “Izanagi” và “Izanami”[26] có chỗ nói
rằng, con của thiên thần nhận mệnh,
qua cầu vồng xuống địa giới, sau
khi làm xong việc lập nước, kết hôn
với 3 người con gái từ trời
xuống và 3 người con gái từ dưới
đất lên, tạo ra tổ tiên của nhân
loại. Chuyện nầy vừa giống với
chuyện thần thoại truyền ở Boogie và
Makassar (giửa
Kalimantan và Celebes của Indonesia), vừa hợp
với truyền thuyết của Maori (nam
Thái b́nh dương) nói về 2 thần, thiên
và địa đă sinh ra các đảo.
Hai thần Izanagi và Izanami ly phản nhau,
thần Izanami tuyên bố sẽ giết mỗi ngày
một ngàn người, thần Izanagi đáp
lại rằng sẽ cất một ngàn năm trăm
nhà sanh mỗi ngày. Chuyện nầy giống
với chuyện thần thoại của dân Morio
ở Polynesia rằng nữ tổ của con người
là Hine, khi từ giă nam tổ Tane đi xuống
trần gian, bị thần Tane đuổi theo, quay
lại quát thần Tane rằng “Xin từ giă
Tane, ngươi hăy dừng lại đi, cho con cháu
sinh mệnh, v́ ta lúc nào cũng dẫn chúng đến
cơi khác”.
Chuyện “sơn hạnh, hải hạnh (thức
ăn núi, thức ăn biển)” nói về
hai anh em Hikohohodemi, họ trao đổi với nhau
lưỡi câu và tên bắn, nhưng v́ lưỡi
câu bị mất nên hai anh em tranh chấp với
nhau. Chuyện nầy giống những truyền
thuyết ở một vùng rộng răi mà Nam Thái B́nh
Dương là trung tâm. Tỉ dụ như
chuyện Minahassar ở đảo Celebes kể
rằng Kavarsan mượn lưỡi câu của
bạn, nhưng làm mất, nên phải lặn
xuống biển t́m kiếm, ở đó Kavarsan
gặp một thiếu nữ bị mắc lưỡi
câu ở họng khổ sở, bèn gỡ cho,
nhờ đó được ngồi trên lưng
của một con cá lớn trở về đất
liền, gây mưa lớn, đẩy người
bạn đă làm ḿnh khốn khổ vô cảnh
điêu đứng. Những truyền thuyết
nầy có liên quan như thế nào với
những truyền thuyết của dân tộc khác
là chuyện riêng, chỉ có điều không
thể nghi ngờ được rằng những
chuyện nầy đă được những bàn
tay quan lại của chính phủ đưa vào văn
kiện.
Những chuyện không giống với
truyền thuyết của dân tộc khác, không
nhất thiết đă là sản phẩm từ
lập trường chính trị của giai
cấp cai trị, phần nhiều những
chuyện nầy là sản phẩm của tín ngưỡng
hoặc phong tục dân gian. Trong truyền kư nói
về con cháu của Ootoshi no kami (大年神),
phần phụ thuộc của chuyện Ookuninushi
no kami (大国主神)
trong “Cỗ sự kư”, có chổ nói về
thần Nuhatsuhi, thần Asuha, thần Hahigi là
những thần phi nhân cách tượng trưng
cho sức mạnh của bùa phép, được
tế lễ thật sự vào khoảng thế
kỷ thứ 8. Ca dao được biên trong
phần nói về thiên hoàng Shinmu (神武)
(Thần Vũ) có câu
“Uda no takaki ni shigiwana haru, wa ga matsu ya shigi wa sayarazu
isukuwashi kuchira sayaru, unnun” (宇陀の高城に鴫わな張る、わが待つや鴫は障らず、いすくはし クチラ障る、云々)) (Gài bẫy chim mơ nhát trên núi cao Uda,
đợi măi, chim mơ nhát không bị bẫy,
chỉ có ó bị bẫy v.v…), thật ra đây
là bài ca dao nói về đời sống săn
bắn của nông dân trong rừng núi ở Yamato
(大和).
Ngoài cấu tưởng toàn thể của “kư”
và “kỷ”, nhiều phần trong chuyện
chứa đầy hơi thở của sinh
hoạt quần chúng thời nguyên thủy.
Những chuyện kể và ca dao trong “kư” và
“kỷ” có tính chất khác biệt với
những tác phẩm có tính cách quí tộc
thuần túy, được sáng tác trong xă
hội bế tỏa của quí tộc đời
sau, như Genji monogatari (源氏物語)[27].
Nhưng “kư” và “kỷ” nầy vừa
bao gồm những truyền thuyết dân gian xa xưa,
đồng thời cũng bao gồm những sáng
tác của giai tầng khác. Như đă nói ở
phần trước, dẫu chuyện “Kamiyo” (神代)
(Thần đại)
ở quyển đầu trong 2 sách “kư” và
“kỷ”, có bao gồm truyền thuyết trong dân
gian một cách phong phú đi nữa cũng
phải xem rằng cấu tạo toàn thể
của nó là một sáng tác từ một ư đồ
chính trị của giai cấp cai trị, th́
mới hiểu được.
Từ thời Edo[28]
trở đi, có rất nhiều giải thích
về chuyện Kamiyo , trong đó có giải thích
cho rằng chuyện Kamiyo đă lấy h́nh
thức tỉ dụ để kể lại
những sự thật lịch sử. Nhưng ngày
nay, thuyết vững nhất trong học giới
cho rằng đây là sáng tác của quan lại chính
phủ với mục đích chính đáng hóa
địa vị quân chủ của đại vương.
Sáng tác nầy lấy tài liệu từ truyền
thuyết dân gian cộng với trạng thái
hiện thực vào khoảng đầu thế
kỷ thứ 6, lúc đại vương bắt
đầu cai trị toàn quốc Nhật Bản.
Đại khái nội dung của chuyện
nầy chủ yếu nói về quá tŕnh xuất
hiện của “Thiên chiếu đại
thần”, tổ tiên của thiên hoàng. Thiên
chiếu đại thần buột Oo-kuninushi no
kami (大国主神)
(Đại quốc chủ thần), thần có
quyền lực lập quốc khuất phục
con cháu ḿnh. Con cháu của Thiên chiếu đại
thần nhận mệnh của đại
thần, giáng lâm từ Takamagahara (高天原) (Cao thiên nguyên)
xuống Nhật Bản, và trở thành thiên hoàng
làm chủ Nhật Bản, thực hiện ư chí và
quyền uy của Thiên chiếu đại
thần, tức là “thần hoàng tổ”, tổ
tiên của hoàng tộc. Ngoài một số ít
thần lẫn lộn trong chuyện là đối
tượng của tín ngưỡng dân gian,
hầu hết các thần trong chuyện là
thần nhân cách, tổ tiên của hoàng tộc
hoặc của hào tộc. Sau đó những
thần nầy đă thành thần được
tế trong một số đ́nh đặc
biệt, trong thực tế không có liên quan ǵ
tới tín ngưỡng có tính cách tôn giáo, mà
đó chỉ là phản ánh của một thế
lực về chính trị. Cấu tứ Kamiyo tuy là
một cấu tứ mượn lốt tôn giáo,
nhưng nếu nh́n toàn thể, khó nói đây là
chuyện thần thoại, mà đó chỉ là
một biểu hiện tư tưởng mượn
h́nh thức thần thoại.
Tuy có nhiều cách giải thích về
những bài viết về thời sau thiên hoàng
Shinmu, nhưng càng gần phần đầu, càng
có những truyền thuyết có cùng tính chất
với chuyện Kamiyo. Phần sáng tác từ Kamiyo
đến sau thời thiên hoàng Shinmu, đặt
trục chính ở chổ giải thích nguồn
gốc, địa vị của thiên hoàng, đồng
thời, đứng trên cách suy nghĩ rằng
tổ tiên của hào tộc xuất thân từ
gia tộc thiên hoàng, tổ tiên của nhiều
“thị” đă được đặt ở
nhiều nơi trong gia phổ của thiên hoàng.
Rốt cuộc những truyện “kư” hoặc
“kỷ”, có mục đích làm cho địa
vị của giai cấp cai trị có quyền uy,
cho nên trong chuyện hoàn toàn không có mặt thường
dân. Điều nầy cho thấy rơ tính chất
có tính cách giai cấp của nó.
Trước đây “kư” và “kỷ”
được coi như là sách cho thấy ḷng tôn
hoàng của tổ tiên người Nhật, nên
được tôn trọng như là cổ điển
của quốc dân, nhưng tinh thần tôn hoàng
chỉ là tư tưởng riêng của giai
cấp thị tính. Mặc dầu ngoài phần chính
ra, có những yếu tố kể chuyện sinh
hoạt của nhân dân, nhưng từ cấu
tứ toàn thể, những truyện nầy không
nhất thiết là những bài thơ tự
sự (叙事詩) (jo-ji-shi) (thơ
kể lại sự thật) của dân
tộc.
Cần phải biết rằng phần chính
của Cỗ sự kư và Nhật bản thư
kỷ mà chúng ta có ngày hôm nay, hầu như hoàn
toàn theo đúng một cấu tứ xuất
phất từ những yêu cầu của giai
cấp thị tính từ khoảng thế kỷ
thứ 6 trở lại, sau cùng được
trang điểm bằng những tư tưởng
chính trị của quí tộc luật lệnh sau
thời “Taika no kaishin”, nên những sách nầy
có nhiều h́nh ảnh của nhiều thời
đại, giai cấp chồng chất lên nhau.
Những sách fuudoki (風土記)
(Phong thổ kư) thu
thập những truyền thuyết địa phương
như Izumo (出雲) (Xuất vân)
hoặc Harima (播磨) (Bá ma),
hoặc những chúc từ v.v…tuy do tay chính
phủ sưu tập, nhưng Izumo fuudoki (出雲風土記)
(Phong thổ kư vùng
Izumo), có những truyền thuyết khác
biệt, không coi “Thiên chiếu đại
thần”, mà coi Oonamuchi no kami (大己貴神) (Đại
kỷ quí thần), thần tạo nước
Izumo, là “Đại thần tạo ra thiên
hạ” (天下造らしし大神)
(Amenoshita tsukurashishi ookami). Trong những chúc từ
hoặc thọ từ nầy ta có thể thấy
được h́nh dáng của tế lễ ngày xưa
một cách cụ thể.
Những người ở quần đảo
Okinawa (沖縄),
tuy cùng là dân tộc Nhật, nhưng v́ ở
trong t́nh trạng xa cách với 4 đảo chính
trong một thời gian lâu dài, nên đă duy tŕ
được văn hóa địa phương
độc đáo của ḿnh. Tập ca dao tôn giáo
“Omoshiro saushi” được biên tập từ
thế kỷ 16 đến thế kỷ 17, đă
vừa nói lên được h́nh dáng của tín
ngưỡng tôn giáo cũ của Okinawa, lại
vừa có chỗ bao gồm những hấp
dẫn của văn học hải dương
mạnh mẽ to lớn. Đây là một văn
học ít thấy trong văn nghệ của 4
đảo chính, đúng là một di sản văn
hóa quí báu. T̀NH
DỤC VÀ VĂN HÓA THỜI XƯA
Truyện “Nhật bản thư kỷ” và
“Cổ sự kư”, căn bản không khác nhau
nhiều trong cấu tứ, nhưng trong cách tŕnh
bày và trong chi tiết, có tính cách khác nhau.
Nhật bản thư kỷ được
viết bằng Hán văn, cho nên có nhiều
chỗ được trang trí bằng những tư
tưởng của Trung Quốc, có chỗ câu
chuyện tuy ở thời gian trước chế
độ luật lệnh, lại bị biến h́nh
bằng những tư tưởng chính trị
của quí tộc luật lệnh. Ngược
lại trong Cổ sự kư, những hoan hỉ,
khổ năo linh hoạt của con người đă
được tŕnh bày một cách thật thà, không
có những nối liền với ư đồ chính
trị.
Như ông Motoori Norinaga đă chỉ trích, miêu
tả về t́nh cảm khổ năo, oán hận vua
cha của “Yamato Takeru no mikoto”[29],
sau khi chinh phạt Kumaso (熊襲) (một địa
phương ở nam Kyuushuu (九州)), liền bị vua cha ra lệnh chinh
phạt Emishi (蝦夷)
(cách gọi cũ
của vùng Ezo (蝦夷),
vùng phía bắc Honshuu
đến Hokkaidou), là một tả thật
ưu tú về ḷng người không bị ràng
buộc bởi đạo đức trung hiếu
có tính cách Nho giáo của đời sau. Trong
quyển đầu của “Cổ sự kư”,
tự thuật về chuyện giao cấu (mito no
maguhahi) của 2 thần Izanagi và Izanami, cùng
với chuyện “Ame no uzume” đă để
lộ âm hộ ra nhảy múa trước nhà
đá trên trời, cho ta thấy những cảm
giác liên quan đến t́nh dục của người
thời nầy rơ ràng khác với cảm giác
của người đời sau. Người
Nhật thời cổ hết sức phóng túng
về t́nh dục.
Có thể nghĩ rằng điều trên có
được do liên quan giữa t́nh dục và bùa
phép. Như đă nói ở trên, ở xă hội
nguyên thủy, cơ quan sinh dục được
tin như là tượng trưng cho bùa phép, h́nh dáng
của nó đă được diễn tả qua
gậy đá hoặc tượng đất
(doguu) (土偶)[30]
, rồi sau đó được truyền nối
qua nghi lễ canh nông, ở đây cơ quan sinh
dục trở thành đối tượng của
tín ngưỡng, là tượng
trưng cho sức sản xuất của nông
nghiệp. Qua 2 ngàn năm, những di sản phong
tục nầy vẫn được tiếp
tục lâu dài, cho đến ngày nay, cơ quan sinh
dục hoặc những tượng
lộ liễu được gọi là “đạo
tổ thần” (道祖神)
(dousojin) vẫn c̣n tồn tại khắp nơi
trong nước Nhật. Tỉ dụ khác, như
ở đ́nh Mifune (御船), quận Namegata (行方) tỉnh
Ibaragi (茨城),
trong việc cúng
thần Nahabanagashi, sau lúc cấy lúa, người
ta dùng rơm để đan ra dương
vật và âm hộ, treo lên dây để gió
thổi cho hai kết hợp với nhau (h́nh 5). Hoặc
một chuyện có thật ở một vùng trong
tỉnh Akita (秋田), sau khi cấy lúa xong, chủ điền
bắt nam nữ làm thuê giao cấu với nhau.
Những tập quán cầu nguyện trúng mùa
nầy, biểu hiện qua việc giao cấu
của cơ quan sinh dục, có rộng răi trong dân
gian. Những chuyện nầy cùng với những
công việc có tính cách bùa phép đă truyền
lại một bề mặt của tôn giáo dân
tộc Nhật thời cổ.
Những ư thức hết sức phóng túng
về t́nh dục ở thời cổ, có quan
hệ sâu đến hôn nhân thời đó. Trong xă
hội nguyên thủy, như suy luận đă nói
trước, có lẽ sinh hoạt gia đ́nh đă
được đặt trên chế độ
mẫu hệ, lấy quan hệ mẹ con làm
trục. Thời thượng cổ sơ kỳ,
mặc dầu địa vị của người
cai trị về chính trị đă được
truyền nối qua chế độ phụ
hệ, nhưng trên nguyên tắc, hôn nhân vẫn c̣n
có tính cách “thê vấn”, tức là chồng
đi thăm vợ. Điều nầy có nghĩa
là, mẹ và con sống chung với nhau, cha ở
riêng. Nhà cửa từ mẹ truyền đến
con gái, đây có lẽ là một tập quán
gần với truyền nối mẫu hệ.
Vợ ở nhà ḿnh được sinh ra, duy tŕ
được sự độc lập mạnh
mẽ đối với chồng, và hầu như
không có tôn ti giữa vợ chồng. Không
phải chỉ vậy thôi, có lẽ sự phân công
trong xă hội nguyên thủy rằng chồng lo săn
bắn, vợ lo bắt ṣ ốc, lượm
lặt thực vật ăn được,
vẫn c̣n sót lại nên trong thời đại
nầy, so với đời sau, phụ nữ có
vai tṛ lao động sản xuất rất cao như
bắt ṣ, óc, chế muối, canh nông. Từ
việc đó ta có thể nói rằng ở
thời nầy, địa vị xă hội
của phụ nữ rất cao trong mọi
việc. Quan
hệ vợ chồng bắt đầu bằng
việc giao cấu với nhau và chắm dứt
ở chỗ chồng không đi thăm vợ
nữa. Ở đây không có sự phân biệt rơ
rệt giữa kết hôn và luyến ái, cho nên không
thể nghĩ được có giao thiệp
thuần ái không có liên hệ thể xác ở
đây, quan hệ giữa nam nữ lúc nào cũng
là “linh hồn và nhục thể là một”.
Tập tục hôn nhân như thế nầy đúng
là đă làm lỏng lẻo những cấm đoán
có tính cách ngụy thiện về t́nh dục.
Hôn nhân “thê vấn” đă gây ra một
quan hệ đặc biệt trong đạo đức
giữa thân tộc, không thấy trong đời
sau. Giữa vợ chồng không ở chung nhau, không
có phương pháp nào để quản lư trinh
tiết của đối phương. Phản
lại với điều đàn ông có nhiều
vợ, là điều đàn bà lấy nhiều
chồng, tuy không được tha thứ một
cách công nhiên, nhưng có thể đă có ở
một độ nào đó. Chế độ
phụ hệ đă sớm được
củng cố trong giai cấp cai trị, ở
đó sự bất b́nh đẳng giữa trai gái
tương đối xảy ra sớm và nguyên
tắc một chồng nhiều vợ đă
được sinh ra. Nhưng giữa những
vợ không sống chung với nhau, sự xếp
đặt thứ tự của vợ trở thành
vô ích, tất cả đều là vợ và không
có phân biệt thân phận như thê thiếp
đời sau.
Con v́ chỉ sống chung với mẹ, nên
ư thức máu mủ với anh chị em khác
mẹ rất yếu, và v́ khó có ư thức là thân
tộc với những người vợ của
cha, khác với mẹ ḿnh, nên không có những quy
luật đạo đức cấm chỉ hôn nhân
giữa các con khác mẹ, và giữa con với
vợ của cha, khác với mẹ ḿnh.
Từ sau Minh Trị cho đến lúc bại
trận ở thế chiến thứ 2, một
trong những sách giáo khoa quốc dân đă đánh
trống thổi kèn cho rằng chế độ
gia tộc “gia phụ trưởng” (cha
là gia trưởng, có quyền hạn rất
lớn trong gia đ́nh), một chế độ
chỉ có thể có được trên hôn nhân
“làm dâu”, là một thuần phong mỹ tục
có truyền thống để lại từ xưa
của Nhật. Quan niệm gia tộc chính
thống được coi như thuần phong
mỹ tục nầy rơ ràng phản lại sự
thật của lịch sử. ĐỜI
SỐNG HẰNG NGÀY
Khác vớI xă hội nguyên thủy, nơi không
có phân biệt về giai cấp, thời đại
nầy đă có khác biệt về giai cấp
trong đời sống hằng ngày của mọi
người. Lúc chết đă có sự cách
biệt là chôn ở mộ cao (高塚古墳)
(Takatsuka kofun)[31]
hoặc chôn trực tiếp dưới đất,
lúc c̣n sống cũng vậy, khác ở chổ
ở nhà sàn hoặc ở nhà hang thẳng.
Thời đại nầy nhà sàn được
cất ra để làm nhà kho, hoặc nhà ở
cho giai cấp cai trị, sau đó kiến trúc
nầy lần lần lan rộng đến nhà
ở của thường dân, thay thế cho
những nhà hang thẳng.
Những y phục thời nầy bằng
vải thô dễ bị thối nát theo thời
gian nên ngày nay không c̣n. Vả lại không có
những điêu khắc hoặc tranh vẽ nói lên
một cách cụ thể h́nh dáng của y
phục trong xă hội nguyên thủy nên khó
biết được cách ăn mặc thời
đó như thế nào. Đến thời kofun (mộ
cổ), trong những haniwa (埴輪)[32]
dựng chung quanh mộ, có nhiều tượng
nắn người của giai cấp cai trị,
đôi lúc, tuy hiếm, có tượng nắn nam
nữ nông dân, cho nên ít nhất y phục của
giai cấp cai trị đă được
biết rơ ra (h́nh 6).
Theo đó,
cả nam lẫn nữ đều mặc áo trên
thân, nam mặc quần rộng thùng th́nh, nữ
mặc xiêm giống như “skirt”. Truyện
“Oải chí Oải nhân truyện” có chỗ
viết rằng Oải nhân (người
Nhật) mặc “quán đầu y”, cho
thấy rằng y phục của người
Nhật thời nguyên thủy chỉ là một
mảnh vải thẳng phủ lên thân có lỗ
để đưa đầu ra. Những trang
phục như xiêm, quần hoặc áo thấy trên
haniwa là trang phục của giai cấp cai trị,
được du nhập từ đại
lục. Dân chúng cho đến đời sau h́nh
như vẫn c̣n mặc những y phục
giống như “quán đầu y”, một
mảnh vải không tay, chân áo ngắn.
MỸ
THUẬT TẠO H̀NH
Thời kofun, giai cấp cai trị đă
dồn sức để tạo ra những lâu
đài cho ḿnh, đó là những “cổ mộ
ổ cao” (takatsuka kofun). H́nh dáng của kofun lúc
vừa được xây cất, không có cây
cối phủ quanh như ngày nay, toàn thân mộ
được bọc bằng ngói ở mặt
ngoài, haniwa được xếp thành hàng
giữa lưng mộ, nên không thể xem kofun là tác
phẩm mỹ thuật được. Nhưng
những haniwa đặt ở ṿng ngoài kofun, tuy có
một số tượng có h́nh ống đơn
thuần, phần nhiều là những tượng
động vật, nhà cửa, hoặc tượng
nhân vật có liên quan sâu đậm đến
sinh hoạt của người bị táng khi c̣n
sống. Những tượng nầy phát huy
được tính mộc mạc cố hữu
của kỹ thuật điêu khắc Nhật
Bản, sau “doguu”. Tuy mộc mạc do giới
hạn của đồ gốm bằng đất
nung thô, những haniwa nầy đă biểu
hiện một phần nào đó đời
sống thực tế của người Nhật
như đă nói ở phần trước.
Những lỗ mắt hẹp và dài khoét trên
haniwa, cho ta cảm thấy cái đẹp độc
đáo của nó. Có thể coi đây là di
sản văn hóa quan trọng trong điêu khắc
Nhật bản, trước khi những điêu
khắc có tính cách Phật giáo xuất hiện.
Những kiến trúc ở thời đại
nầy chỉ được biết qua những
nét vẽ sau lưng gương đồng
hoặc những haniwa có h́nh nhà cửa như
đă nói ở phần trên, những nhà cửa
thời nầy hoàn toàn không c̣n nữa. Điện
của những đ́nh có lịch sử xa xưa
như “Ise jinguu” (伊勢神宮)[34]
hoặc “Izumo Taisha” (出雲大社)[35]
cũng đă truyền lại được
một cách trung thực dạng thức điêu
luyện của nhà ở kiểu nhà sàn thời xưa.
Có lẽ dạng thức kiến trúc nầy có
được nhờ học hỏi từ kỹ
thuật kiến trúc Phật giáo được
truyền sang Nhật vào thế kỷ thứ 7, nhưng
những kiến trúc ở đây là những
kiến trúc đơn sơ và thực dụng
với vẻ đẹp của gỗ trắng
thẳng băng, không có trang sức và màu
sắc, khác với những già lam trong chùa. Đây
là một cách thức kiến trúc tinh túy của
Nhật bản, một cách thức đă
khiến cho “Bruno Taut”, một kiến trúc gia người
Đức, đứng đầu trong chủ nghĩa
kiến trúc biểu hiện, ngậm ngùi cảm
thán (h́nh 7). [1] Kamekan:
khạp (hũ) quan tài để chôn người
chết. [2] Shisekibo:
mộ có đặt một khối đá to
ở bên trên. Dưới mộ có hầm
đặt nhiều khạp quan tài
và mộ bia. [3] Kofun:
mộ đấp cao ngày xưa. [4] Doutaku:
chuông đồng xanh thời Yayoi, cao từ
20-130cm, trên mặt có nhiều h́nh vẽ nguyên
thủy. [5] Kinai:
vùng đát bao gồm các xứ Yamato,
Yamashiro,Izumi, Kawachi và Settsu, bây giờ là vùng
bao gồm các tỉnh Nara, Oosaka, Hyougo và phủ
Kyouto. [6] Yamato:
tên cũ của Nhật. Yamato là một xứ
ở tỉnh Nara, và cũng là tên của
một địa phương lân cận
thị trấn Tenri (tỉnh Nara) ngày nay. Yamato
đầu tiên được viết bằng
chữ 倭(Oải)
âm Nhật là “wa”, nhưng đến
thời thiên hoàng Genmei, nhà vua muốn viết
tên nước bằng 2 chữ Hán, nên đă
dùng chữ 和(cũng
đọc là “wa”), cộng với chữ
đại (大)
ở phía trước làm thành Đại ḥa(大和)
nhưng đọc là Yamato và có nghĩa là nước
lớn của người wa (倭). [7] Sueki:
b́nh đồ gốm. Do du nhập kỹ
thuật từ đại lục, Nhật
Bản đă chế được những b́nh
đồ gốm nầy bằng cách dùng
những bàn quay làm ra những b́nh đồ
gốm bằng đất sét tốt, nung trong ḷ
lửa. Những b́nh nầy thường có màu
xanh tối, được dùng để làm
khạp, hoặc chén bát, b́nh cúng lễ … [8] Ame
no Wakahiko: người trong chuyện thần
thoại Nhật Bản, con của Thiên tân
quốc bảo thần, khi giáng lâm xuống
xứ Izumo (vùng phía đông tỉnh Shimane ngày
nay) đă không chịu phục mệnh Thiên tôn,
nên bị trách vấn. Ông ta đă giết người
trách vấn và bị thần Takami Musubi no kami dùng
tên bắn chết. [9] Izanagi:
thần Nam trong thần thoại Nhật
Bản, đă cùng với thần Nữ Izanami
tạo ra nước Nhật. Thần Izanagi
tạo sơn hải thảo mộc, thần
Izanami sinh ra lửa. [10] Yomi:
Xứ để cho linh hồn người
chết ở. [11] Amaterasu
Oomikami: (Thái dương thần nữ) thần
tổ của hoàng thất, con gái của
thần Izanagi. Thần nầy được
coi như là thần mặt trời, được
thờ ở đ́nh Ise (ở tỉnh Mie
gần Kyouto). Thần nầy cùng với hoàng
thất là trung tâm tôn kính của ngườI
Nhật. [12] Thời
trung thế (Nhật Bản): từ cuối
thời Heian đến cuối thời Muromachi
(khoảng từ cuối thế kỷ 12 đến
đầu thế kỷ 17).. [13] Thời
Kamakura: thời mạc phủ Kamakura. Tổng
cộng dài khoảng 150 năm, tính từ khi
Minamoto Yoritomo mở mạc phủ ở
Kamakura (một thị trấn ở đông nam
tỉnh Kanagawa ngày nay) vào năm 1185 cho đến
lúc Houjou Takadoki bị diệt vào năm 1333. [14] Đ́nh
Miwa: ngôi đ́nh ở trên núi Miwa, cao 467m ở
thị trấn Sakurai, tỉnh Nara. [15] Đ́nh
Yudonosan: đ́nh ở tỉnh Yamagata, vùng Đông
Bắc Nhật Bản. [16] Manyoushuu
(tập Manyou): tập thơ xưa nhất
ở Nhật c̣n đến ngày nay. Tập
nầy có 20 quyển gồm khoảng 4500 bài thơ
bắt đầu từ những bài thơ
của hoàng hậu thiên hoàng Jintoku, đến
những bài thơ thời thiên hoàng Junjin, kéo
dài khoảng 350 năm. Thơ có đủ
loại từ trường ca, đoản ca, liên
ca v.v… có nhiều bài thơ cảm động,
cá tính phong phú. [17] Motoori
Norinaga (1730-1801): một trong 4 học giả phái
“Quốc học” có tiếng thời trung
kỳ Edo, đă để ra 30 năm để
hoàn thành “Cổ sự kư truyện” (phái
“Quốc học” có 4 học giả nổi
tiếng là Kada no Azumamaro, Kashige Mabuchi, Motoori
Norinaga, Hirata Átutane). [18] Oomononushi
no kami: thần tế của đ́nh Oomiwa,
tỉnh Nara. Thần nầy là con rắn, và
sẽ nhập vào một phụ nữ khi
được tế. [19] Đ́nh
Taga: đ́nh ở xă Taga tỉnh Shiga gần
Kyouto. Thần của đ́nh nầy là thần
trường thọ. [20] Shimekazari:
vật có buộc dây thừng (người
Nhật tin là dây thừng đuổi được
tà) trang trí ở cổng hoặc ở bàn
thờ Thần, Phật trong ngày cúng lễ
hoặc ngày Tết. [21] Kagamimochi:
bánh mochi (bánh ít trần không nhưn) tṛn hơi
dẹp để cúng Thần, Phật ngày
Tết. [22] Kadomatsu:
cây tùng trang trí ở cửa vào ngày Tết. NgườI
Nhật tin rằng thần tuổI trẻ
sẽ nhập vào cây tùng trong ngày Tết. [23] Higan:
nghĩ đen là bên kia bờ sông, ở đây
chỉ thế giới của giác ngộ.
Lội qua biển sinh tử, đến chung
cuộc là thế giới giác ngộ (Niết
Bàn). [24] Obon:
sinh hoạt tôn giáo khoảng từ 13 đến
15 tháng 7 âm lịch (vào khoảng giữ tháng 8
dương lịch). Trong thời gian “Obon”,
mọi người đi quét mộ và đến
chùa cúng tổ tiên. Ngoài linh hồn tổ tiên,
người ta c̣n cúng những người
mới mất, những người chết cô
đơn, cầu nguyện linh hồn họ
được tiêu diêu nơi miền cực
lạc. [25] Taika
no kaishin: mùa hè năm 645 (Taika nguyên niên) Nakamoto
Ooenomiko cùng với Nakatomi Kamatari diệt ḍng
Soga, đưa ra một cảI cách lớn trong
lịch sử chính trị thời cổ mà
sử gia gọi là “Taika no kaishin” . Cải cách
nầy nhằm thực hiện một chế
độ trung ương tập quyền,
một quốc gia luật lệnh theo kiểu
Trung Quốc. [26] Izanami:
trong thần thọai Nhật Bản, thần
nữ Izanami đă cùng với thần nam Izanagi
tạo ra nước Nhật. [27]
Genji monogatari: truyện dài thời Heian trung
kỳ. Đây là truyện cổ điển
tối cao của Nhật Bản (có vị trí
trong văn học như truyện Kiều
ở VN). Truyện có 54 hồi, kể
chuyện thế gian ở cung đ́nh bằng
một ng̣i bút điêu luyện, tuyệt
diệu. [28] Thời
Edo: Edo là tên cũ của Toukyou. Thời Edo là
thời đại bắt đầu lúc Tokugawa
Ieyasu mở mạc phủ ở Edo (1603) và
chấm dứt khi Tokugawa Yoshinobu nhường
quyền cai trị lại cho thiên hoàng Minh
Trị nào năm 1867. [29] Yamato
Takeru no Mikoto: anh hùng trong tuyền thuyết
thời cổ. Ông đă nhận mệnh
của thiên hoàng đi chinh phạt vùng Kumaso
(Kyuushuu ngày nay), vừa xong th́ lại được
lệnh sang chinh phạt vùng Emishi ở phía
Đông, trên đường về bị
bệnh và mất ở Nobono, tỉnh Ise ngày
nay. [30] Doguu:
tượng người hoặc động
vật bằng đất nung vào thời Joumon
ở Nhật. Doguu thường là tượng
phụ nữ có h́nh trái tim hoặc h́nh chim cú,
dùng cho bùa phép. [31] Takatsuka
kofun: cổ mộ có ổ cao, đa dạng
với nhiều kiểu cách khác nhau như trước
vuông sau tṛn, trước vuông sau vuông v.v… [32] Haniwa:
đồ đất nung để xung quanh
hoặc ở trên mộ. Haniwa có 2 loại,
haniwa ống tṛn và haniwa h́nh tượng. Ông
tṛn dùng làm hàng rào cho mộ, h́nh tượng
có tượng người, dụng cụ, nhà
cửa v.v… [33] Kofun
lỗ ngang: Cổ mộ có nhiều lỗ ngang
có thể táng được nhiều người. [34] Ise
jinguu: đ́nh ở thị trấn Ise, tỉnh
Mie. Đ́nh có nội cung và ngoại cung độc
lập. Nội cung thờ Amaterasu Oomikami,
thần của hoàng tộc. Ngoại cung
thờ Toyouke daijin, thần của thực
phẩm, cháu của thần Izanagi. [35] Izumo
Taisha: đ́nh ở xă Taisha quận Hikawa,
tỉnh Shimane, thờ nhiều thần trong
đó có Ookuninushi no mikoto (ĐạI quốc
chủ thần). Đ́nh nầy có kiến trúc
kiểu đ́nh Nhật xưa nhất c̣n
lạI đến ngày nay.
|
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương 3 ]