|
CHƯƠNG
3 VĂN
HÓA THỜI XĂ HỘI LUẬT LỆNH CƠ
CẤU LUẬT LỆNH ĐƯỢC THÀNH
LẬP Chế
độ quân chủ thời cổ, lấy hành
vi quân sự xâm chiếm bán đảo Triều
Tiên làm đ̣n bẩy, tuy lỏng lẻo nhưng
hoàn thành được công việc thống
nhất quốc gia, với h́nh thức bắt các
nước nhỏ đang phân ly, quy thuộc
triều đ́nh Yamato (大和). Sau đó với sự tiến triển
của thời đại, quyền lực của
đại vương lần lần lớn
mạnh, lănh thổ của đại vương,
những Miyake (屯倉)[1], do đại vương trực tiếp cai trị, tăng
lên. Hào mục chung quanh đại vương
vừa là hào mục, lại vừa là quan lại
của chính phủ. Vào thế kỷ thứ 6,
đă có những thí nghiệm cho dân vô “Tabe“ (田部)
(điền bộ)
để canh tác và lập hộ tịch cho dân
trong một số lănh thổ do đại vương
trực tiếp cai trị. Tiền đề
lịch sử cho việc áp dụng chế độ
phạn điền đă lần lần trở nên
chín muồi. Mặt
khác, trên quốc tế, Nhật Bản đă
trở nên yếu thế trước thế
lực của nước Shiragi (新羅) (Tân La),
một nước Hàn (Triều
Tiên) có tự giác mạnh mẽ về dân
tộc và vào năm 562, gịng vua ở Mimana (任那) (Nhiệm Na, vùng
ở Nam Triều Tiên bị Nhật cai trị
từ thế kỷ thứ 4 đến thế
kỷ thứ 6) diệt vong. Cuối thế
kỷ thứ 6, ở Trung Quốc nhà Tùy thống
nhất Nam Bắc, mở ra một vương
triều hùng mạnh, và đầu thế kỷ
thứ 7, nhà Đường thế Tùy, mở
mang bờ cơi, xây dựng một đế
quốc to lớn thế giới. Từ thất
bại ở bán đảo Triều Tiên và từ
việc Trung Quốc hoàn thành thống nhất, chính
quyền Yamato (大和) cảm thấy một cách sâu đậm
việc cần phải chỉnh bị thể
chế quốc nội, mượn dư thế
mạnh mẽ của quyền lực trung
ương, hướng đến việc
thực hiện chế độ trung ương
tập quyền. Vào
đầu thế kỷ thứ 7, Shoutoku Taishi (聖徳太子)[2] (Thánh Đức Thái tử)
cùng với Soga no Umako (蘇我馬子)[3] coi việc quốc chính. Truyền thuyết về
Shoutoku Taishi đă được tô điểm
một cách thần thoại, nên đâu là sử
thật, đâu là sự nghiệp do sáng ư
của Thái tử, đâu là sự nghiệp
của Umako rất khó phân biệt được.
Thái tử đă cho lập ra 12 bậc quan, ban cho
cá nhân tùy theo huân công, coi việc được
lên chức là vinh dự, nhằm lập ra một
chế độ quan lại, đi đến
việc thực hiện một phần cơ
cấu của chế độ luật lệnh
sau nầy. Bản
hiến pháp do Thái tử làm ra, có thuyết cho là
giả, nhưng chắc chắn điều
thứ 17 của bản hiến pháp nầy là do
Thái tử làm ra, đă nhấn mạnh nhiệm
vụ của chư hào là phục tùng một cách
trung thực mệnh lệnh của quân chủ,
coi quân chủ là một quyền uy tối cao duy
nhất trong nước. Vào lúc nầy, hoặc
ở một thời gian ngắn sau đó, đại
vương xướng hiệu là Thiên Hoàng, danh
từ lấy từ kinh điển của đạo
giáo Trung Quốc, và cũng vào lúc nầy,
Nhật Bản đă được dùng cho tên
của quốc gia. Triều
đ́nh Yamato vững mạnh được
nhờ hấp thụ văn hóa đại
lục. Việc chuyển biến đến trung
ương tập quyền cũng có cùng t́nh
cảnh như vậy. Nhất là ở thời
kỳ nầy, một vương triều
thống nhất xuất hiện ở Trung
Quốc đă trực tiếp kích thích ư muốn
học hỏi văn hóa Trung Quốc một cách tích
cực và rộng răi. Năm 607 Ono no Imoko (小野妹子) được phái làm sứ sang Tùy, năm
sau có thêm du học sinh, tăng lữ được
gởi đi, với mục đích t́m cách
hấp thụ văn hóa Trung Quốc một cách có
kế hoạch. Từ trước đến nay,
Nhật đă triều cống Trung Quốc
với h́nh thức là cống hiến kỹ
thuật gia hoặc những vật lấy từ
các nước ở Triều Tiên và nhận
lại những tặng phẩm từ Trung
Quốc. Điều nầy có tính tiêu cực v́
chỉ có thái độ thừa nhận văn hóa
mang từ đại lục đến. Nhưng bây
giờ từ phía Nhật, Nhật đă tích
cực trong việc hấp thụ văn hóa đại
lục. Sau
đó, mặc dầu Kudara, cứ điểm duy
nhất của Nhật ở bán đảo
Triều Tiên, đă bị nhà Đường và
Shiragi tiêu diệt vào năm 660, những đ̣i
hỏi hấp thụ văn hóa Trung Quốc ở
Nhật đă khiến giao thông giữa Nhật
với Shiragi và với nhà Đường không
đoạn tuyệt được. Việc phái
sứ sang Đường vẫn được
tiếp tục cho đến cuối thế
kỷ thứ 9 lúc nhà Đường sắp
bị diệt vong. Song song với điều đó
giao thông với Shiragi không dứt. Từ năm
727 đến đầu thế kỷ thứ 10,
Nhật mở bang giao với Bột Hải (渤海), một nước mới được
thành lập ở Măn Châu. Giao lưu văn hóa
với đại lục trở nên thường
xuyên hơn. Trong
t́nh thế quốc tế đó, năm 645 (Đại
Hóa nguyên niên) Naka no Ooenomiko (中大兄皇子) (lúc bấy
giờ là hoàng tử và sau đó đă trở thành
thiên hoàng Thiên Trí) đă cùng với Nakatomi no
Kamatari (中臣鎌足)[4] và một số người khác đă ban hành chính sách
“đổi mới” gọi là Taika no kaishin (大化の改新) (Đại Hóa cải
tân), bắt đầu tổ chức cơ
cấu luật lệnh, theo kiểu cơ cấu
luật lệnh của Trung Quốc. Qua loạn Nhâm
Th́n (672) (壬申の乱)[5] (Jinshin no ran), thiên hoàng Tenmu (Thiên
Vũ) tức vị, quyền lực của chính
phủ mạnh ra. Chính phủ đă lần lược
biên tập và ban hành các luật Kiyomihara (浄御原),
Taihou (大宝), Yourou (養老). Tổ chức luật lệnh của
quốc gia được chỉnh bị trên
cả danh và thật. Ở
xă hội thị tính, quyền uy quốc gia
được chia ra cho các hào mục để
cai trị nhân dân. Đặc quyền nầy cha
truyền con nối. Cơ cấu luật lệnh,
nói ngắn lại là nhằm tập trung quyền
lực được thi hành một cách phân tán
nầy đến trung ương chính phủ
để cai trị thống nhất nhân dân.
Mặc dầu địa vị của quan lại
trong quốc gia luật lệnh đă được
sắp đặt lại, nhưng cơ cấu
đặc quyền cha truyền con nối vẫn
được duy tŕ trong khuôn khổ của
chế độ luật lệnh, không nhất
thiết là chế độ luật lệnh đă
thay đổi một cách căn bản cấu
tạo giai cấp của chế độ thị
tính. Ngược lại có thể nói rằng
việc tập trung quyền lực ở trung
ương đă làm cho việc cai trị nhân dân
tăng lên mạnh mẽ. Luật
cấp, thu phạn điền được ban
ra, nhân dân được cấp một số
ruộng nhất định, ngược lại
phải chịu những thuế như tô (đóng
bằng lúa), dung (làm
công), điều (thuế
đóng bằng tơ,vải), tạp dao (làm
đường xá,cầu cống), quân
dịch, xuất cường (chính
phủ cho dân chúng vay tiền để làm mùa,
sau mùa trả lại bằng lúa gạo). Có
thuế trưng thu từ những thu hoạch nông
nghiệp như tô hoặc xuất cường, có
thuế bắt lao động như tạp dao,
trực tiếp sử dụng thân thể,
nặng nề hơn. Thường dân, dẩu có
thân phận là công dân (một cách gọi khác là
lương dân (ryoumin)[6] )đi nữa, vẫn có tính chất là nô lệ. Dưới
lương dân có tiện dân. Trong tiện dân, có
nô t́, của riêng của hào tộc, bị coi như
tài sản, bị mua bán như gia súc. Nhưng
kể cả từ thời đại xă hội
thị tính, ở Nhật tỉ số những người
nầy rất thấp đối với toàn dân
số. V́ vậy, chỉ v́ lư do có nô t́, xem xă
hội luật lệnh là xă hội nô lệ, là
điều không thích đáng. Ngược
lại, cùng với sự tồn tại của nô
t́, sức sản xuất chủ yếu trong xă
hội luật lệnh là những công dân bị
sai khiến bằng quyền lực quốc gia.
Từ điểm đó ta có thể coi xă hội
nầy là một loại xă hội nô lệ, nhưng
chế độ nô lệ nầy khác với
chế độ nô lệ cổ điển
ở La mă hay Hy lạp. Như sẽ nói ở
phần sau, văn hóa sinh nở bằng sức
mạnh của quốc gia luật lệnh đă
đạt được một tiêu chuẩn
rất cao. Những tài sản văn hóa rực
rỡ ở thời nầy có được
nhờ ở sức mạnh của đồng
tiền và quyền lực to lớn của
chế độ luật lệnh, chế độ
nầy đă đặt quần chúng trong cảnh
ngộ gần như nô lệ, trong khi tập trung
một số lượng vật chất lớn
lao cùng sức lao động vào tay chính phủ
trung ương. Quên tiền đề nầy ta không
thể hiểu được ư nghĩa lịch
sử của văn hóa thời nầy. Độ
cao của nền văn hóa nầy có được
nhờ ở sử dụng một cách tập
trung quyền lực và đồng tiền.
Đương nhiên độ cao đó không
thể duy tŕ được khi sức tập
trung bị suy nhược. Do đó nền văn
hóa của xă hội luật lệnh không thể
đi trên hướng phát triển vững
chắc được, và ở thời kỳ sau
đó đă phải đổi sang hướng có
tính chất hoàn toàn khác biệt. Không phải
chỉ văn hóa của xă hội luật
lệnh, mà tất cả văn hóa thời xưa,
những văn hóa không được đại
chúng ủng hộ một cách rộng răi, đều
có vận mệnh đó. Thời
thiên hoàng Tenmu (天武) và Jitou (持統), uy thế của chính phủ luật
lệnh cao hơn cả. Nhưng đến
thế kỷ thứ 8, phản kháng của nhân dân
lên cao v́ không chịu đựng nỗi những
khổ nhọc nặng nề, đă làm cho giai
cấp cai trị phải đương đầu
với những lo lắng bất an sâu xa. Nhưng
v́ không có một thế lực mới nào
được h́nh thành để có thể đe
dọa giai cấp cai trị, nên cơ cấu
của chế độ luật lệnh không có lư
do gặp nguy cơ. Đế đô được
kiến thiết bắt chước theo kiểu
đô thành của nhà Đường. Thiên hoàng
Jitou cho xây kinh đô Fujiwarakyou[7] (藤原京), sau đó đến năm
710 (Ḥa đồng năm thứ 3) thiên hoàng Genmei
(元明)
(Nguyên Minh)
chuyển đô sang Heijoukyou (平城京)[8]. Sự xây cất những cung điện lớn lao
nầy, cùng với những sự nghiệp công
chánh to lớn như xây Kokubunji (国分寺)[9] , Touđaiji (東大寺)[10] đời thiên hoàng Shoumu (聖武)
(Thánh Vũ), đều
là những sự nghiệp hết sức khó khăn,
nhưng làm được là nhờ ở chỗ
quốc gia luật lệnh có đầy đủ
sức lực. Để
hiểu tính cách văn hóa của thời đại
nầy, phần sau sẽ kiểm thảo văn hóa
Phật giáo ở bán tiền kỳ của
thời đại luật lệnh từ lúc
Shoutoku Taishi bắt đầu kế hoạch
lập quốc gia luật lệnh, đến
giửa thế kỷ thứ 8 đời thiên hoàng
Shoumu. DU NHẬP VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA ĐẠI LỤC Từ khi văn hóa Yayoi sang Nhật cho đến thời thị tính, văn hóa đại lục đă không ngừng đổ vào Nhật Bản, nhưng sự du nhập văn hóa nầy chỉ xảy ra ở những lănh vực văn hóa vật chất như dụng cụ sản xuất, vũ khí, hoặc những thủ công nghệ xa xỉ. Thời nầy Nhật chưa có văn tự, nhưng nhờ con cháu của những người đến từ bán đảo Triều Tiên, Hán tự đă bắt đầu được dùng ở Nhật. Ở Nhật Bản, di tích văn tự được viết xưa nhất c̣n lại ngày nay có lẽ là những chữ khắc (minh văn) thời kofun, tỉ dụ như gương đời đời truyền lại ở đ́nh Suda Hachiman (隅田八幡) (đ́nh ở xă Suda, thị trấn Hashimoto, tỉnh Wakayama) ở bán đảo Kii (紀伊) vào những năm 443 và 503, hoặc những chử khắc trên thái đao được đào ra từ cổ mộ Eda Funayama (江田船山) vùng Higo (肥後) (nay thuộc tỉnh Kumamoto, vùng Kyuushuu), hoặc những minh văn (chữ khắc) trên kiếm sắt được đào ra từ cổ mộ Inari Yama (稲荷山) (xem chú thích) vùng Musashi (武蔵) (vùng phía đông Nhật Bản, bao gồm Toukyou và Saitama ngày nay), có viết tên Waka Takeru và niên kỷ tương đương với năm 471(h́nh 8). Việc viết văn chương, hoặc lập niên kỷ theo “thập can nhị thập chỉ” du nhập từ Trung Quốc, đă là một cách mạng trong văn hóa sử Nhật Bản. Nhưng chỉ những người từ hải ngoại đến, những người thuộc “Fuhitobe” (史部) (Sử bộ), giữ vai tṛ kư lục trong chính phủ trung ương, mới dùng văn tự. Ở giai đoạn nầy, thường dân và cả đến những người trong giai cấp cai trị vẫn chưa biết đến tôn giáo và học vấn của đại lục.
Vào
thế kỷ thứ 6, cuối thời xă hội
thị tính, một số học giả, gọi là
Gokyou hakase (五経博士) (Ngũ kinh bác
sĩ), những người có thể đọc
và hiểu được sách cổ điển
của Trung Quốc, đă được
đưa từ Kudara (Nam Triều Tiên) sang
Nhật. Đồng thời tượng Phật cũng
đă được cống nạp. Lănh vực
tinh thần cao độ nhất trong văn hóa
đại lục đă có điều kiện
truyền bá sang Nhật Bản. Cho đến
thế kỷ thứ 6, việc truyền bá văn
hóa nầy vẫn chưa có được
những thành quả cụ thể, nhưng vào
thế kỷ thứ 7, thành quả của
những hiểu biết có tính cách tổ
chức về tư tưởng của đại
lục, bắt đầu hiện ra. Như
đă nói ở phần trước, 12 cấp quan
(đại đức, tiểu đức, đại
nhân, tiểu nhân, đại
lể, tiểu lể, đại tín, tiểu tín,
đại nghĩa, tiểu nghĩa, đại trí,
tiểu trí), được ban hành. Mũ của
mỗi cấp quan được thêu màu khác nhau.
Tên quan lấy từ những đức mục
trong Nho giáo, mũ quan thêu màu theo tư tưởng
ngũ hành (kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ). Những ư tưởng
nầy không thể có được nếu không
hiểu được tư tưởng triết
học của Trung Quốc. Giống như
vậy, thành ngữ cổ điển của Nho
gia, Pháp gia hoặc Đạo gia của Trung
Quốc đă được trích dụng rất
nhiều trong 17 điều hiến pháp nói ở
phần trên. Dẫu đó là trích dụng từ
sách cháu chắt đi nữa, những tác giả
của sách đó đă có những hiểu
biết rộng răi và sâu sắc về học
vấn của Trung Quốc. Shoutoku
Taishi tín ngưỡng Phật giáo, vừa có
kế hoạch cất chùa chiền, vừa
tận tụy trong việc nghiên cứu giáo nghĩa
Phật giáo. Phật giáo được truyền
rộng ở Nhật v́ được coi như
có những bùa phép tiêu trừ tai họa,
đưa đến hạnh phúc, chớ không
phải v́ Phật giáo đă dạy bảo
về triết lư giải thoát. Trường
hợp của Thái tử th́ khác, ít nhất trong
thời văn niên, Thái tử đă hiểu một
cách chính xác giáo nghĩa nguyên lai của Phật
giáo. Trong minh văn Tenjukoku shuuchou (天寿国繍帳)[11], Thái tử đă nói với vợ ḿnh rằng
”thế gian là hư ảo,chỉ có Phật
mới biết ai là ai”. Câu ”thế gian là hư
ảo” có tinh thần phủ định thế
giới hiện tại, một điều hoàn toàn
thiếu sót trong ư thức cố hữu của
Nhật Bản. Lư luận của Phật giáo,
từ việc phủ định thế giới
hiện tại để t́m một sinh mệnh
cao cả, là điều được đề
ra cho người Nhật lần đầu tiên. Như
lời truyền, Thái tử đă chú thích tam kinh
“Thắng man kinh”, ”Duy ma kinh”, và ”Pháp hoa
kinh”. Hiện nay vẫn c̣n sách “Tam kinh nghĩa
sơ” do chính tay Thái tử viết. Có thuyết
cho đó là sách giả mới viết gần
đây, nhưng dẫu đó là sách giả đi
nữa, di ngôn được kư lục trên minh văn
Tenjukoku shuuchou cũng đủ để chứng
minh rằng Thái tử có đủ tư cách là
một nhà cải cách tư tưởng trong sinh
hoạt tinh thần của người Nhật.
Triết học Hy Lạp bắt đầu ở
Thales xứ Miletos, triết học Trung Quốc
bắt đầu ở Khổng Tử, giống
như vậy, có thể nói rằng những suy tư
mạch lạc có tính cách triết học ở
Nhật bắt đầu ở Shoutoku Taishi. Giống
như tư tưởng gia độc sáng (có
sáng tác độc đáo) Ando Shoueki (安藤昌益) (xem chương 7) thời Edo (江戸)
đă cô lập trong xu thế lịch sử, Thái
tử đă là một triết nhân cô lập
thời nầy. Thái tử đă hiểu biết
sâu đậm giáo nghĩa Phật giáo nguyên lai,
giáo nghĩa nầy phải đợi măi đến
nhiều đời sau mới được người
Nhật hiểu biết chín chắn. Lúc
Phật giáo được truyền qua Nhật
từ xứ Kudara (nam Triều Tiên), người
Nhật coi Phật là thần của nước
khác. Giống như những điều mà đa
số người Nhật tự xưng là tín
đồ Phật giáo ngày hôm nay, người
Nhật vào thế kỷ thứ 6, thứ 7 đă
thâu nhận Phật giáo với tính cách bùa phép.
Từ lúc được du nhập vào, không có
một dấu vết cho thấy Phật giáo đă
gây ra xung đột về tín ngưởng
với tôn giáo dân tộc, ngược lại,
những kỷ lục của thế kỷ
thứ 7, thứ 8, cho thấy những cầu
nguyện về tiêu trừ thiên tai địa
biến, b́nh phục bịnh hoạn đă
được cử hành song song ở đ́nh và
chùa. Một sự thật đă được xác
nhận là tín ngưỡng thần và Phật
đi song song không có một trở ngại nào
cả. Những mong muốn lấy sức mạnh
của bùa phép để đối phó với
họa phúc hiện thế, là một chủ
thể chung, đi đ́nh hoặc đi chùa để
cầu nguyện chỉ là một cách biểu
hiện. Nói chung, Phật giáo đă được
tiếp nhận với tính cách nghi lễ bùa phép,
bản chất không khác ǵ với tôn giáo dân
tộc. Lúc
đầu Phật giáo chỉ là một tín ngưỡng
có tính cách riêng tư của các hào tộc như
ḍng Soga (蘇我) v.v…nhưng từ
“Taika no kaishin” (大化の改新), Phật giáo được
triều đ́nh công nhận là một tín ngưỡng
công cộng, thiên hoàng Jomei (Trữ Minh) đă cùng
với hoàng hậu cất chùa “Kudara no daiji” (百済大寺)
(Bách tề đại tự). Thiên hoàng Tenmu
dời Kudara no daiji để lập ra Taikan no daiji
(大官大寺) (Đại quan đại tự), lại
cất Yakushiji (薬師寺) (Dược sư tự), và truyền
lệnh đến các xứ trong nước đọc
kinh “Kim quang minh”, coi đó là công việc công
cộng. Chính phủ đă đem toàn lực
chấn hưng Phật giáo. Chính
sách chấn hưng Phật giáo đạt đến
tuyệt đỉnh ở thờI thiên hoàng Shoumu
(聖武) (Thánh vũ). Vào năm 741, thiên hoàng ra
lệnh bắt cất Kokubunji (国分寺) (Quốc phân tự)
tức Konkoumyou Saishouou Gokoku no tera (金光明最勝王護国之寺) (Kim quang minh tối thắng vương hộ quốc
chi tự) ở mỗi xứ, kế đến
cho xây Đại phật Rusana (Lữ
sa na) ở Heijoukyou cao 5 trượng 3 thước,
lại cho xây Toudaiji (東大寺)(Đông đại tự) to lớn làm chùa
cho ḿnh. Chính thiên hoàng đă quỳ trước
Đại phật, xưng ḿnh là Hotoke no yakko (三宝の奴) (bộ hạ
của Phật). Tín ngưỡng Phật giáo
đă đến chổ cuồng nhiệt. Tín
ngưỡng Phật giáo của triều đ́nh
có tính cách tích cực như thế nầy, v́
triều đ́nh mong muốn bùa phép của đạo
Phật, bảo đảm quốc gia luật
lệnh được an ninh. Kinh Konkoumyou (金光明) (Kim quang minh) giảng
về công đức hộ quốc được
tôn trọng bật nhất cho ta thấy rơ điều
trên. Nhiệt t́nh chấn hưng Phật giáo có tính
cách quá độ của triều đ́nh, là
kết quả từ ḷng mong muốn Phật giáo
“trấn hộ quốc gia”. Những cầu
nguyện cá nhân như được lành
bịnh v.v…có tính cách phụ trợ trong
Phật giáo, không phải không có, nhưng sứ
mệnh nguyên lai của Phật giáo là chỉ cho
con đường chính giác (mở
đường giác ngộ chính đáng) hoàn
toàn không được để ư đến.
Trong một thời gian dài, những giáo đoàn
thời sau đă có một thái độ hèn
hạ cuối ḷn trước quyền lực
quốc gia, cho rằng “trấn hộ quốc
gia” là một đặc sắc đáng hănh
diện của Phật giáo Nhật Bản. Nhưng
cần phải biết rằng “trấn thủ
quốc gia” không có ǵ khác hơn là một danh
từ được dùng theo ư của quyền
lực, hoàn toàn không có ǵ liên quan đến giáo
nghĩa của Phật giáo, dạy cá nhân tu
tỉnh chính đạo để được
thành Phật. Hơn nữa, “quốc gia”
cần phải trấn hộ ở đây,
được bắt đọc theo vần
huấn là Mikado (帝) (ở
Nhật, hán tự được đọc
bằng 2 vần, vần “âm” là cách đọc
nhái theo Trung quốc, vần “huấn” là cách
đọc thuần túy của Nhật) (Mikado=thiên
hoàng), cho ta thấy quốc gia ở đây
chỉ chính phủ, hoặc quân chủ, người
nắm quyền lực chính trị. Nói một cách
cụ thể, trấn hộ quốc gia ở
đây có nghĩa là hộ tŕ một cách bùa phép
cơ cấu cai trị luật lệnh, với
nội dung của chế độ nô lệ.
Đây là một đáp hiệu (slogan) hoàn toàn
phản bội đạo Phật, không thể bào
chữa được, lập trường nguyên
lai của đạo Phật, xuất phát từ ḷng
tin tưởng ai cũng có thể thành Phật
được, không kể thân phận, giai
cấp. Cho nên,
tăng lữ trong xă hội luật lệnh không
phải là những nhà tôn giáo có sứ mệnh
truyền đạo một cách tự do. Trong cơ
cấu cai trị của chế độ luật
lệnh, tăng lữ có chỗ đứng sau
quan lại. Người thống lănh toàn thể
giới Phật giáo được gọi là
Sougou (僧綱) (Tăng cương) là quan sứ
được chính phủ bổ nhiệm.
Muốn xuất gia phải có phép của chính
phủ, “tự độ” có nghĩa là tự
ư ḿnh xuất gia, bị cấm chặt chẽ. Tăng
lữ được miễn làm công không và
những gánh vác tô thuế khác, một mặt hành
động bị câu thúc bởi pháp luật
một cách nghiêm trọng. Trong
luật Taihou (大宝) (Đại bảo) và
Yourou (養老) (Dưởng lảo) có một chương
tên là Lệnh Tăng ni, đứng cùng với
Lệnh Thần chỉ. Lệnh Thần chỉ qui
định cách thức tế lễ đ́nh
thần, Lệnh Tăng ni toàn chương
kiềm chế hành động của tăng
lữ, giữa 2 lệnh có sự trái ngược
đáng để ư. Chỗ đáng để ư
nhất là cấm lập đạo trường
ngoài những chùa được công nhận,
cấm tập trung quần chúng để
thuyết giáo. Điều mà chính phủ luật
lệnh hy vọng ở Phật giáo được
giới hạn trong việc trấn hộ cơ
cấu luật lệnh. Tuyên truyền tín ngưỡng
Phật giáo trong nhân dân, ngược lại
gợi lên tự giác chính trị của nhân dân
có nguy hiểm đưa đến những hành
động chống thể chế. Năm 717 (Dưỡng
lảo nguyên niên), nhà sư Gyouki (行基) (Hành cơ) bị chính
phủ đàn áp với lư do đă vô cớ
đi thuyết giáo trong dân gian. (Gyouki: danh tăng thời Nara, giáo hóa dân chúng vùng
Kinai (畿内) lập đê điều,
cầu cống, được gọi là Hành cơ
bồ tác, bị bắt với tội phạm
lệnh tăng ni, sau đó được tha và
được cử xây tượng Đại
phật, và sau cùng được phong làm “Đại
tăng chính vị”). Điều nầy cho ta thấy rơ cách thức
của Phật giáo trong quốc gia luật
lệnh. Phật
giáo Nhật Bản ở thời đại
luật lệnh đă được bảo
hộ, nuôi dưỡng với điều
kiện là phải giữ một vai tṛ trong xă
hội như đă nói ở phần trên. Với
Phật giáo nầy, đương nhiên không có
một tư tưởng nào đáng để ư,
được nẩy nở ra. Nhờ giao thông
với đại lục, hầu hết toàn
bộ kinh “Nhất thiết” đời
Đường đă được chở
bằng tàu đến Nhật. Thời đó,
trong những kinh điển được chép
hoặc được chở bằng tàu sang
Nhật, có nhiều sách mà ngày nay không thấy
được. Tăng ni thời nầy đọc
đi đọc lại một số lớn
về kinh, luận hoặc luật như là bùa phép
và hành vi đọc hoặc sao chép những sách
nầy được xem là công đức trong
đạo. Những nghiên cứu về nội
dung phần nhiều chỉ nhằm mục đích
làm ra những tài liệu giảng thuyết
về những hành vi có tính cách nghi thức (bùa
phép) trong lễ cúng Phật được
triều đ́nh tổ chức. Thời
đó, có 6 học phái đến từ đại
lục là “Tam Luận”, ”Pháp Tướng”,
”Câu Xá”, ”Thành Thực”, ”Luật”, ”Hoa
Nghiêm”, cùng với giáo học (môn
học nghiên cứu về tôn giáo) “Niết bàn
tôn” và một số giáo học khác đă
được nghiên cứu trong những chùa
lớn, nhưng những giáo học đó chỉ
là những học vấn trong pḥng sách của
một số tăng lữ hiếu học, và
việc học nầy chỉ tập trung vào
những kiến thức trên văn tự không có
liên quan ǵ đến những tín ngưỡng
hiện thực. Cho đến thế kỷ
thứ 8, chữ “tôn” đă được dùng
như tên của pḥng học, để phân
biệt nội dung nghiên cứu khác nhau trong
học vấn, khác với chữ “tôn” trong
“Thiên Đài tôn”, ”Chân Ngôn tôn” đời
sau, đây là những tập đoàn tôn giáo khác
biệt về tín ngưỡng. Tự viện
đời sau là chùa của một “tôn” nào
đó, là của riêng của tôn phái đó, khác
lại, tự viện đời nầy không
thuộc vào một tôn phái nào cả, trong một
tự viện có nhiều tôn phái ở chung nhau,
trong trạng thái “bát tôn kiêm học”. NGHỆ
THUẬT PHẬT GIÁO THỜI ASUKA, HAKUHOU, TENPYOU. Có
thể nói là khó t́m ra được những tư
tưởng tôn giáo có nội dung quan trọng
về chất ở Phật giáo đă được
bảo hộ và nuôi dưỡng một cách tích
cực bởi quốc gia luật lệnh, có tính
cách như đă nói ở trên. Ngược
lại, chính v́ được nuôi dưỡng
trong một bối cảnh quyền lực
luật lệnh lớn lao, Phật giáo thời
nầy đă sinh ra được những tài
sản văn hóa hào hoa. Ở điểm nầy,
Phật giáo trong thời kỳ luật lệnh có
một ư nghĩa lớn lao nhất trong lịch
sử văn hóa Nhật Bản. Như
đă nói ở trên, Phật giáo thời nầy là
một loại bùa phép, nhưng khác với bùa phép
của tôn giáo dân tộc, phát nguyên từ
những nghi lễ canh nông trong cộng đồng
thôn xóm ở nông thôn, không cần phải có
nhiều kiến trúc. Ngược lại,
từ đầu, giai cấp cai trị đă
hấp thụ Phật giáo với tính cách văn
hóa đại lục, cho nên họ đă đem
nhiều sức lao động, nhiều tiền
của ra để tạo lập những đồ
dùng Phật giáo, những tượng Phật tinh
xảo, những già lam (chùa
phật) tráng lệ kiểu đại lục,
và họ xem đây là những hành vi biểu
hiện ḷng tín ngưỡng của họ. Thi hành
chính sách chấn hưng Phật giáo đă
đưa ra kết quả làm tiến hành sự
nuôi dưỡng, di thực văn hóa Phật giáo
một cách đại qui mô. Chùa
chiền ngày nay, v́ đă mất vai tṛ phải làm
trong xă hội ngoài những việc làm tang lễ
tụng niệm dân gian, nên thường bị xem
là nơi âm khí, nơi để làm đám táng.
Khác lại, chùa chiền thời luật lệnh
đă là một trung tâm văn hóa ngoại lai
mới mà giai cấp cai trị đă đổ
nhiều tài sản phong phú vào đó. Một
nhà văn đă nói ”tôi đă tưởng tượng
ḷng kinh hoàng sâu xa của tổ tiên ta khi đứng
trước chùa Phật rộng lớn mà từ
trước đến giờ chưa thấy, ngay
cả trong giấc mơ, những người
nầy từ xưa nay chỉ quen nh́n đồng
núi với những gian nhà nhỏ lụp xụp.
Chùa Phật không phải chỉ rộng lớn không
thôi, mà c̣n có tháp cao chỉ trời xanh, giống
như ngọn lửa vĩnh cửu”. ”Trên mái
nhà, những lằn ngói chồng chất lên nhau,
thoai thoải chảy giữa trời xanh và đại
địa, có một sức mạnh điều ḥa
vừa thanh nhă trang trọng vừa nhẹ nhàng phóng
khoáng. Một đối chiếu thanh nhă giữa
trắng và đỏ, quấn quít với sự
điều ḥa của sức mạnh trên, dưới
màu nằng nặng của mái nhà”. ”Hơn
nữa, lại có bản điện giống như
một bảo tàng của chân lư, áp đảo
đại địa”. ”Vào trong bản điện,
ta sẽ thấy những cột trụ to lớn
nặng nề như để chống đỡ
bầu trời”. ”Rồi đôi mắt của
tổ tiên ta sẽ bị tượng Phật ngay
trước mắt thâu hút”. ”Hăy nh́n đây,
vẻ đẹp của đôi vai tṛn trịa, trơn
tru, vẻ thần thánh của bộ ngực phúc
đức thanh sơ, cánh tay tṛn và dài thanh nhă.
Áo tḥng thẳng yên lặng bao lấy thân
thể, gương mặt đầy tràn từ
bi vô hạn”, ” ở đó trưng bày sinh
mệnh vĩnh cửu, của Phật”. ”Sự
tinh luyện có tính cách nghệ thuật nầy
“ đă “gây ra một quyến rũ về
vẻ đẹp đến tâm thần tổ tiên
ta. Điều đă thúc đẩy họ
chấn hưng Phật giáo chắc chắn đó
là sự quyến rũ về nghệ thuật”.
Đây là một ”loại suy”, ”nhưng
thiếu loại suy nầy sẽ không hiểu
được văn hóa và nghệ thuật
thời xưa”. Đoạn văn nầy tuy
chỉ là một tưởng tượng có tính
cách thi nhân thiếu hiểu biết về cơ
sở của xă hội sinh nở nghệ
thuật, nhưng đă diễn tả chính xác ư
nghĩa của chùa chiền ở thế kỷ
thứ 7, thứ 8, trong văn hóa sử, đó là
một danh ngôn đáng để tai nghe. Chùa
chiền đă là nơi tập trung, tổng
hợp nhiều mặt nghệ thuật, những
kiến trúc nhiều tầng kiểu đại
lục với những xà ngang phức tạp,
cột sơn châu, mái nhà ngói, những điêu
khắc tượng Phật bằng đồng
mạ vàng với sơn mài tinh xảo, những
bức tranh phật với màu sắc rơ rệt,
đẹp đẽ, những phẩm vật
thủ công mỹ lệ, trang nghiêm, cùng với
những kiến trúc bày biện cố định
nầy, âm nhạc Phật giáo với những
kịch mặt nạ dị quốc trữ t́nh,
được diễn ra ở chùa chiền trong
những ngày cúng tế. Mặc dầu đây là
văn hóa có tính cách độc quyền, chỉ
có giai cấp cai trị mới được hưởng
thụ nhưng nó là động cơ khiến người
Nhật, những người chỉ có tranh
họa màu sắc vụng về ấu trĩ trên
tường ở cổ mộ, hoặc với
những haniwa mộc mạc thời đồ
gốm Yayoi, bắt đầu học cách thức
căn bản của kỹ thuật về điêu
khắc, hội họa phát đạt qua nhiều
năm tháng ở đại lục. Nhưng khi nghĩ
rằng những người Nhật nầy đều
là những tín đồ Phật giáo trong giai
cấp cai trị, ta sẽ thấy cần phải
nh́n nhận sự cống hiến của Phật
giáo đương thời đối với
lịch sử nghệ thuật của Nhật
Bản. Kể
đến những chùa tập hợp tinh tuư
của nghệ thuật Phật giáo, trước
nhất phải nói đến Asukadera (飛鳥寺) (chùa Pháp Hưng) do ḍng Soga dựng lên. Chùa
nầy có già lam do tay thợ ngói, tay thợ chùa
đưa từ Kudara (Nam
Triều Tiên) đến xây, an bày tượng
Phật Thích ca bằng đồng mạ vàng do
thợ tượng Phật gọi là “Kuratsukuri
no tori” (鞍作鳥),
con cháu của những người đến
từ hải ngoại, làm ra, được hoàn
thành vào đầu thế kỷ thứ 7. Có
thể nói đây là ngôi chùa đầu tiên
ở Nhật Bản. Tượng Thích ca tuy
bị tổn thương nhiều nhưng
hiện nay vẫn c̣n ở Asuka, và cuộc đào
đất điều tra vùng lân cận thời
hậu chiến, đă cho biết rơ rằng chùa
nầy là một già lam có 3 bản đường
cất quanh tháp Bà (tháp
thờ Phật Xá lợi). Asukadera,
được biết rơ ràng về năm tháng sáng
lập, có tư cách đại biểu cho văn
hóa Phật giáo thời nửa đầu thế
kỷ thứ 7, và thời đại nầy
được gọi là thời đại Asuka[12] trong lịch sử mỹ thuật . Nhưng bây giờ
chỉ c̣n lại tượng Thích ca qua nhiều
lần tu bổ những chỗ bị hỏng. Ngày nay, di sản đại biểu cho kiến trúc theo dạng thức thời Asuka, là Houryuuji (法隆寺) (Pháp Long tự) (ở xă Ikaruga (斑鳩) huyện Ikoma (生駒) tỉnh Nara (奈良)). Houryuuji (h́nh 9) có bản đường, tháp 5 tầng, cửa giữa, hành lang trang trí những h́nh dạng không thấy trong những kiến trúc từ thời Hakuhou (白鳳)[13] trở về sau, như xà ngang h́nh đám mây, lan can đầu cong h́nh chữ vạn, cột ph́nh ở giửa (entasis). Những kiến trúc nầy được coi là di sản của thời Asuka, nhưng được xây cất từ lúc nào, từ xưa đă có nhiều học thuyết có chủ trương khác nhau. Tượng
“Thích ca tam tôn” (Thích
ca ở giữa và 2 hậu vệ ở 2 bên)
bằng đồng mạ vàng được
đúc ra để truy điệu Shoutoku Taishi,
đặt ở mặt tiền của chùa.
Với tướng mạo nghiêm túc nhưng
vụng về, với nụ cười gượng
gạo cổ điển Hy Lạp (archaic smile),
với những vạt áo có lằn xếp theo hóa
h́nh (h́nh dạng
biểu hiện dạng thức, tư tưởng).
Dạng thức thiếu tính tả thực
nầy là đặc sắc của những điêu
khắc thời Asuka, thừa kế những
dạng thức thời Bắc Ngụy, Trung
Quốc (h́nh 10). Tượng đứng của
quan âm trong Yumedono (夢殿) (pḥng chính của viện phía đông chùa Houryuuji, do
tăng “Gyousin” (行信) (Hành Tín) cất vào năm
739, ở đây Shoutoku Taishi đă nằm
mộng, thấy Phật hiện ra giáo thị.
Trong Yumedono có tượng Quan âm cứu thế,
đại biểu điêu khắc thời Asuka ),
và Kudara Kannon (百済観音) (Bách tề Quan âm)
ở kim điện, cùng có những đặc
sắc nói trên.
Tượng Thích ca tam tôn và tượng Phật thời Bắc Ngụy Tướng
mạo nhu ḥa trầm tư, với cà sa phủ
nửa cơ thể của Phật Bồ tác di
lặc chùa Chuuguuji (中宮寺) (Trung Cung tự) (chùa
nữ ở phía đông của Yumedono (夢殿)) và chùa Kouryuji (広隆寺) (Quảng Long tự) (ở
Kyouto (京都)) làm giảm đi
phần nào độ nghiêm khắc của
những cách thức có tính cách cổ điển
thờI Asuka. Đây là cách thức của
thời quá độ trước một thời
đại khác sau Asuka. Tranh
Phật của thời nầy ngày nay chỉ c̣n
lại những tranh dùng dụng cụ giống như
sơn dầu, vẽ Mitsuda sou (密陀僧) (tăng Mật đà) trên tủ đựng tượng
Phật Bồ tác màu kim lục ở Houryuuji, có
chủ đề về Jaakata (gồm
khoảng 550 chuyện nói về những thiện
đức của Phật Bồ tác, tiền thân
của Phật Thích ca), cùng với những
tranh lụa thêu chuyện văng sinh huyền ảo
ở xứ cực lạc của vợ Shoutoku
Taishi, bà Tachibana no Iratsume (橘郎女) sau khi Shoutoku Taishi mất. Trong
lịch sử mỹ thuật, sau thời Asuka là
thời Hakuhou (Bạch phượng). Thật ra không
có niên hiệu Hakuhou, nhưng có một tập quán
rộng răi gọi những dạng thức
được hoàn thành trước sau thời
thiên hoàng Tenmu (天武),
thiên hoàng Jitou (持統) đến đầu
thế kỷ thứ 8, là dạng thức Hakuhou. Đại
biểu của dạng thức Hakuhou là tượng
Phật và tháp 3 tầng của chùa Yakushi (Dược
sư tự), bây giờ vẫn c̣n tồn tại
ở vùng đất cũ của kinh đô Heijou
(B́nh thành kinh). Chùa Yakushi là chùa được
cất ra ở Asuka, nhưng sau đó đă
được cất lại tại địa
điểm hiện tại sau cuộc chuyển
đô đến Heijou và c̣n lại đến
ngày
nay. Cũng giống như trường hợp chùa
Houryuu, chùa Yakushi chính vẫn c̣n lại ở Asuka trong một thời gian dài. Có 2
học thuyết khác nhau về thời gian lập
ra tháp Bà và tượng phật ở chùa Yakushi
ngày nay, 1 cho là lúc sáng lập, 2 cho là lúc
chuyển đô. Dẫu sao đi nữa, chùa đă
mang những đặc sắc của thời
kỳ quá độ giữa 2 dạng thức Asuka
và Tenpyou (天平). Hakuhou đă rời khỏi dạng
thức thời Nam Bắc triều của Trung
Quốc, và đă đi đến chỗ học
lấy dạng thức đầu thời
Đường. Tháp Bà có 3 tầng, mỗi
tầng có “mokoshi” (mái
nhà ở dưới mái nhà chính). Hiên và
Mokoshi ở mỗi tầng, dài ngắn giao hổ
với nhau tạo ra một vẻ đẹp
luật động (động đi động
lại đúng luật) cho ta thưởng thức
vẻ đẹp đúng như một lời nào
đó cho rằng kiến trúc nầy là một âm
nhạc đông lạnh (frozen music) (h́nh 11). Tượng phật Dược sư tam tôn (Dược sư, Nhật quang, Nguyệt quang) (h́nh12) to lớn ở kim đường và tượng Phật Quan âm ở tự viện phía đông, đều là những tượng đồng mạ vàng. Vạt áo của Phật phủ trên bệ, Phât ngồi theo dạng thức thời Asuka, nhưng tướng mạo mang tính tả thực, thân thể Phật tṛn trịa, nổi rơ qua y phục sát ḿnh. Đây đúng là kỹ thuật điêu khắc tượng Phật ở Ấn độ thời vua Gupta, kỹ thuật nầy đă được truyền sang Nhật qua dạng thức trung gian hiện c̣n ở chùa Bảo Khánh, Trung Quốc, một chùa được lập ra vào thời Đường.
Tháp 3 tầng Tượng Phạt Dược Sư Bản Tôn Cùng giống như vậy, bích họa (tranh vẽ trên tường) trong kim đường của chùa Houryuu (Pháp long) là một kiệt tác lớn lao trong lịch sử hội họa Nhật bản, với những lằn vẽ mạnh mẽ như uống cong dây sắt, với màu sắc vẽ bóng vành mắt. Đây là kỹ thuật có nguồn gốc từ những tranh vẽ trên tường vùng Ajanta, Ấn Độ (h́nh 13) (vùng động đá có tranh phật vẽ trên tường từ CN đến thế kỷ thứ 7 rất nổi tiếng). Tranh vẽ trên tường nầy, từ dạng thức của nó, được xem là tranh thời Hakuhou (Bạch phượng), nhưng tiếc thay hầu hết những tranh nầy đă bị cháy mất trong cơn hỏa hoạn vào năm 1949. Bích họa ở Houryuuji (trên)
Bích họa ở cổ mộ Takamatsuzuka Tượng Ashuura ở chùa Koufuke Mỹ
thuật thời Tenpyou, trọng tâm là thời
đại thiên hoàng Shoumu, những tác phẩm
hạng nhất thời nầy, kể cả tháp
kỷ niệm to lớn như điện Phật
của chùa Toudai, hoặc tượng Daibutsu (大仏) (Phật lớn), hiện nay không c̣n, nên
rất khó đánh giá chính xác giá trị của
nó. Nhưng về mặt kiến trúc, hiện nay
c̣n pháp hoa đường của chùa Toudai, kim
đường của chùa Toushoudai (唐招提) (Đường Chiêu Đề), (ở
thành phố Nara) nơi ḥa thượng “Giám
Chân” thời Đường qua Nhật trụ
tŕ để truyền luật, với những hàng
cột cao có khoảng trống trên không (吹き貫き) (fukinuki) giống như điện thần Hy Lạp.
Mặt khác về điêu khắc, có nhiều tác phẩm có tính cách tả thực, thừa
kế những cách thức thời thịnh
Đường
như
tượng 10 đại đệ tử (đệ
tử của Phật Thích ca), tượng bát
bộ chúng (8 loài
vật bảo hộ Phật pháp) (h́nh 15)
của chùa Koufuku (Hưng
Phúc) (ở thành
phố Nara), tượng 12 thần tướng
ở chùa Shin-yakushi (新薬師)
(Tân Dược sư) (ở thành phố Nara) (12
đại tướng dạ thoa có danh hiệu Như
lai Dược dư bảo hộ chúng sinh), tượng
4 thiên vương ở viện “Kaidan” (戒壇) (Giới Đàn) chùa Toudai (Đông
Đại), tượng Nhật quang, Nguyệt
quang bồ tác, tượng Phật Kim cương
ở pháp hoa đường chùa Toudai. Tuy
gọi là tả thực, điêu khắc thời
Tenpyou khác vớI thời Kamakura (鎌倉) sau đó, điêu khắc thời nầy
coi trọng tính cách thần thánh trong tả
thực và đă thành công trong việc thống
nhất tả thực với lư tưởng. Nhưng
điêu khắc thời nầy không có vẻ hùng
dũng lớn lao, khoẻ mạnh như điêu
khắc thời Hakuhou, đôi khi diễn tả sâu
xa t́nh cảm tế nhị đến độ
khổ năo, có lẽ đây là phản ánh của
sự tiến hành mâu thuẫn trong cơ cấu
cai trị luật lệnh. Hơn
nữa, mỹ thuật của thời Tenpyou
được chú ư v́ hiện c̣n giảng
đường của chùa “Toushoudai”, một
kiến trúc được di chuyển từ
Daidairi (大内裏) (quan đ́nh
lấy hoàng cung làm trung tâm) đến kinh
đô Heijou, và cũng c̣n có nhiều “Gomotsu” (御物) (đồ dùng
của vua) vẫn c̣n được bảo
tồn trong shousouin (正倉院) (kho chính) của chùa Toudai, những xa xí phẩm
được thiên hoàng Shoumu ái dụng mỗi
ngày, cùng với nhiều đồ vật liên
quan đến nghệ thuật thế tục
thời đó. Nghệ
thuật Phật giáo ở thế kỷ thứ 7,
8 như đă nói sơ lược ở phần
trên, có đặc sắc là mang bối cảnh có
tính cách lịch sử thế giới rộng
lớn. Những tác phẩm thời nầy ở
mọi lănh vực, không những đă biểu
hiện được cách thức riêng biệt
của mỗi thời đại, mà c̣n quán
triệt đến độ tinh tế. Tỉ
dụ như mô típ h́nh dây leo hoa “nhẫn đông”
(忍冬) (suikazura) có khắp nơi
trên công nghệ phẩm thời Asuka, không
phải chỉ thấy được ở trong
nghệ thuật Vân Cương (một
làng nhỏ ở tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc,
ở đây có khoảng 50 động đá
lớn nhỏ, trên tường có khắc tượng
Phật trong thời gian gần 70 năm từ năm
460) thời Nam Bắc triều, mà đó là mô
típ “Honey sacred” có gốc ở Đông La Mă, qua
Saracen, Sasan Persia, Gandhara, đến trung ương
Á châu Turkistan sang Trung Quốc.Thực ra mô típ
nầy phát khởi từ Assyria, Egypt, trở thành
huy hoàng ở Hy Lạp, rồi lan rộng ra ở
khu vực to lớn giữa 2 đại dương,
sau cùng đến cực đông, Nhật Bản.
Đây là một tỉ dụ nói lên thực
thể về sự truyền bá văn hóa trên
thế giới.
Không hầu
ở Nhà
Đường, quốc gia mà Nhật coi như
thầy về mặt văn hóa, không những có
một bản đồ to lớn, mà c̣n là
một quốc gia so với các vương
triều khác trong lịch sử đă hăng hái
hấp thụ văn hóa của nước khác. Văn
hóa nhà Đường tràn đầy những
yếu tố dị quốc (exotic). Nhật
đă đưa sứ đoàn sang Đường
và hết sức nhiệt tâm học hỏi, nên
không có ǵ lạ lùng rằng những yếu
tố có tính cách quốc tế trong văn hóa
Đường, đă được đem vào
Nhật một cách gián tiếp. Và, trong triều
đ́nh Nhật Bản, không những chỉ có người
Đường, người Shiragi (Triều
Tiên) mà c̣n có những người phương
tây như tăng Ấn Độ tên Bà-la-môn
Bồ Đề, người Persia tên Lư Mật
Ế ra vào. Giai cấp cai trị thời nầy,
có thể cùng sánh với những người
ở thời mậu dịch với phương
nam (Namban boueki) hoặc những người sau
thời Minh Trị, đă thở một bầu không
khí có tính cách quốc tế. Văn
hóa đại lục mà Phật giáo ở thế
kỷ thứ 7, thứ 8 là trung tâm, đă đạt
được một tiêu chuẩn đủ làm
hoan hỉ những ngườI yêu nghệ
thuật ngày hôm nay, một điều là văn hóa
nầy đă được nâng đỡ
bằng những ư chí hấp thụ những văn
hóa tiền tiến mà không biết chán chường.
Mặc dầu vậy, ngày nay tuy dưới
cặp mắt của những nhà trí thức,
nghệ thuật Phật giáo không phải
đơn thuần là nghệ thuật, về
mặt tư tưởng cũng không thể nói có
một nội dung cao, nhưng điều đó nên
bỏ qua một bên, v́ đây là những tác
phẩm được sinh ra từ nhiệt t́nh tôn
giáo. Nếu
nói rằng có quyền lực và giàu sang th́
nhất định sẽ có nghệ thuật cao
siêu sinh ra, th́ tại sao thời chúa (bakufu) (幕府)
Tokugawa (徳川)[14] chỉ có thể xây dựng được một
Nikkou Toushouguu (日光東照宮)[15] thấp hèn. Tuy Phật giáo chỉ được dùng
để trấn hộ quốc gia, một
lợi ích hiện thế, nhưng những
nhiệt t́nh tín ngưỡng sinh ra từ
những phản tỉnh tôn giáo, tự giác
về sự bất lực của sức mạnh
hiện thế trước uy lực của Tam
Bảo (thiên hoàng là
“thần hiện thế” tự xưng là “nô
t́ của tam bảo”, tam bảo ở đây là
Phật, Pháp và Tăng), đă là căn nguyên
của độ cao về chất của nghệ
thuật Phật giáo thời Asuka, Hakuhou, và Tenpyou. Những
quí tộc trong chế độ luật lệnh,
những người có đời sống xa cách
hoạt động sản xuất của quần
chúng, đă dùng những người không thể
gọi là nghệ thuật gia mà chỉ là
những công nhân, qua cách phân chia công việc
một cách máy móc, với những điều
kiện lịch sử như thế nào, để
có thể sản xuất ra được
những mỹ thuật mà đời sau không
thể theo đuổi được. Giải
đáp đó hoàn toàn thuộc vào bí mật
lịch sử. Hiểu biết về mặt trong
như trên có thể là một ch́a khóa để
giải đáp bí mật đó. PHÁT
TRIỂN MỚI CỦA NGHỆ THUẬT TRUYỀN
THỐNG Văn
hóa đại lục đă làm tâm thần
của giai cấp cai trị say đắm, không
những chỉ ở mặt nghệ thuật
của Phật giáo, mà c̣n ở trong cơ cấu
cai trị mới, đưa đến việc mô
phỏng thể chế quốc gia to lớn
mạnh mẽ của Tùy và Đường.
Từ trước đến giờ chỉ có
luật tập quán, lần đầu tiên,
Nhật đă có một hệ thống luật thành
văn to lớn có đến 1500 điều.
Heijoukyou (B́nh thành kinh) đă được
kiến thiết bắt chước kinh đô Trường
an của nhà Đường, có quan đ́nh, cung
điện kiểu đại lục, nhà lộp
ngói, cột sơn đỏ. Quan lại triều
đ́nh mặc lễ phục kiểu đại
lục. Chung quanh thiên hoàng, có nhiều công
nghệ phẩm ngoại lai, hoặc mô phỏng,
như đă thấy ở những “Gomotsu” [16]trong shousouin (kho chính), như
gương, tiểu đao, bàn song lục (sugoroku)
(双六), b́nh phong. Văn hóa đại lục
đă thấm sâu đến sinh hoạt vật
chất hằng ngày. Nhưng gọi là hấp
thụ văn hóa đại lục ở đây,
chỉ là học hỏi những tài sản văn
hóa bạc tải (được
chở bằng tàu đến), và v́ sinh
hoạt của một xă hội sản xuất ra
những tài sản văn hóa nầy không
được di thực, cho nên văn hóa
ngoại lai ở đây chỉ đi đến
chỗ trang điểm bề ngoài những cung
điện, chùa chiền, và đă không biến
đổi sâu xa được sinh hoạt và ư
thức của giai cấp cai trị. Tỉ
dụ như trong những kiến trúc của
triều đ́nh, Daigokuden (大極殿) (Đại cực điện) nơi thi
hành những nghi thức công cộng, đă
được xây cất theo kiểu cung điện
đại lục, nhưng Dairi (内裏) (Cấm cung)
nơi thiên hoàng sinh hoạt hằng ngày, Dairi
của Heiankyou (平安京)[17] thời sau, tiền thân của hoàng cung Kyouto, Kyouto gosho
đời nay, có mái lộp bằng vỏ gổ
Thek, có giàn cột bằng gổ thô (shiragi
(白木)
gổ không sơn), một kiến trúc thuần túy kiểu
Nhật Bản. Về
thực phẩm th́ hoàn toàn không bằng Trung
Quốc. Quan lại trong chế độ luật
lệnh, tuy ngoài mặt chỉ thâu dụng
những người có học những điển
tích của Nho giáo trong đại học, nhưng
trên thực tế th́ “ấm vị” (có
địa vị nhờ thế lực của ông
cha), có nghĩa là những nhà có thân phận
cao sẽ có đặc quyền nhận chức
vụ cha truyền con nối, nên số quan
lại văn pḥng thông thạo giáo dưỡng
Nho giáo (tâm thần
phong phú, trí thức rộng răi, sâu xa) chỉ
là thiểu số. Học Nho giáo ở đây
chỉ là đọc cổ điển của Nho
giáo, không phải là áp dụng tư tưởng
Nho giáo. Phần nhiều những người
đời nầy coi cổ điển Trung
Quốc như văn học và có nhiều
nhiệt ư học lấy. Trong quí tộc cao
cấp và hoàng tộc có người làm
được Hán thơ (thơ Hán) và họ
đă biên ra tập thư “Kaifuusou” (懐風藻) (Hoài phong tảo), nhưng
về lượng và chất đều không
bằng “Ḥa ca” (thơ
Nhật). Giai
cấp cai trị c̣n như thế, hối ǵ b́nh
dân, không cần phải nói, thường dân
hoàn toàn không có duyên với văn hóa đại
lục, một văn hóa có tính cách xa xỉ, nhàn
hạ. Có người đă phạm cấm
chỉ, đi thuyết giáo trong dân gian như nhà
tăng Gyouki (行基)
(Hành cơ). Nếu không có tiền bạc th́ không
thể cất chùa, đúc tượng phật, nhưng
thời nầy đă có những nhóm tín đồ
gọi là “trí thức” giống như “kou”
(giảng)[18] của đời sau, tạo ra tập quán gom góp
những vật liệu nhỏ nhặt để
xây chùa đúc tượng. Như trong truyện
“Nihon ryouiki” (日本霊異記) (Nhật bản linh dị kư), do nhà tăng Keikai (景戒) (Cảnh giới) của chùa Yakushi
viết vào thế kỷ thứ 9, Phật giáo
đă dần dần thấm nhuần vào dân chúng,
tín ngưỡng dân gian được triển
khai qua cách gởi gấm những mong ước
mộc mạc đến Phật. Trạng thái tín
ngưỡng nầy đă là ngọn ngành
lịch sử tạo ra một Phật giáo dân chúng
đời sau. Phật giáo đó khác với
Phật giáo của giai cấp cai trị, màu
sắc rực rỡ có tính cách văn hóa
ngoại lai của Phật giáo đă nhạt
mờ. Ở
Trung Quốc,cùng với luật thành văn, đạo
đức gia tộc cũng đă thành văn
trong luật lệnh, lúc nầy chế độ
gia tộc cũng đă chuyển hết qua
chế độ “gia phụ trưởng”. Trong
chế độ nầy nếu phụ nữ không
sinh con, hoặc ghen tuông v.v…với qui định
“thất xuất” (không
thuận với cha mẹ, không con, nói nhiều,
ăn trộm, dâm loạn, ghen tị, tật
xấu) nếu có đầy đủ một
số điều kiện hạn định, có
thể bị chồng li dị theo ư chí đơn
phương của chồng. Lại có qui định
xử phạt con cháu thiếu hiếu dưỡng
cha mẹ, ông bà. Lúc nầy ở Nhật, hôn nhân
“làm dâu” chưa được phổ thông, hôn
nhân “thăm vợ” vẫn c̣n tiếp tục,
cho nên đạo đức gia tộc kiểu
Trung Quốc không thể duy tŕ được
từ ban đầu. Quan hệ trai gái vẫn có tính
cách phóng khoáng như xưa, cho nên những thành
văn câu thúc như muốn kết hôn th́
phải có sự đồng ư của người
trên, hoặc dẫu có được tha thứ v́
có t́nh giao trước kết hôn đi nữa cũng
phải sống xa nhau, đương nhiên chỉ
là những thành văn trống rỗng không có liên
quan với hiện thực. Ư
thức rơ rệt không bị ràng buột về t́nh
dục nầy đă cho thấy một khía
cạnh lành mạnh của người Nhật
thời cổ, không bị méo mó trong đạo
đức ngụy thiện về tính của Nho
giáo. Mỹ thuật Phật giáo và “Manyoushuu” (万葉集)
(Vạn diệp tập) là 2 ḥn ngọc, là kim
tự tháp tối cao về văn hóa trong thời
nầy. Manyoushuu là tập thơ đầy thơ
luyến ái. Điều mà ông Motoori Norinaga đă
hănh diện v́ trong khi thơ Hán thiếu thơ
luyến ái nhưng trong “Ḥa ca” (thơ tiếng Nhật) th́ có rất nhiều, không
phải là không có lư do. Sự
tồn tại của tập thơ to lớn, có
4400 bài thơ, không phải chỉ của quí
tộc mà c̣n có những tác phẩm của dân chúng
vô danh, đă là chứng minh cho thấy văn hóa
truyền thống Nhật bản đă có cơ
sở vững chắc tiếp tục tồn
tại trong văn hóa ở thế kỷ thứ
7, thứ 8, không những không bị áp đảo
bởi văn hóa ngoại lai, mà c̣n thăng
tiến phát triển hơn thời trước.
Sự to lớn hùng vĩ của 3 tượng
“Dược sư” trong kim đường chùa
Yakushi đối ứng với bản trường
ca hùng tráng vĩ đại của Kakinomoto no
Hitomaro (柿本人麻呂), nội dung phong phú
của 4 đại vương trong viện
“kaidan” (戒壇)
chùa Toudai hoặc “Bát bộ chúng” chùa Koufuku
đối ứng với tác phẩm tao nhă tế
nhị của Yamabe no Akahito (山部赤人) và Ootomo no Yakamochi (大伴家持). Điều nầy nói rằng tài năng
nghệ thuật của người Nhật đă
trở nên thành thục vượt qua sự khác
biệt về lănh vực giữa văn hóa
truyền thống và văn hóa ngoại lai, cũng
như giữa văn nghệ và mỹ thuật
tạo h́nh. Vậy
th́, động lực nào của lịch sử
đă đưa đến sự thành thục
đó. Động cơ nầy có thể t́m ra
ở những biến chuyển xă hội của
một quốc gia thời cổ trong lúc tiến
triển, tuy có những mâu thuẫn lớn bên
trong, nhưng phải dần dần tiến hành
tổ chức một quốc gia thống nhất.
Nếu chỉ hạn định trong cơ
cấu cao cấp, động cơ nầy có
thể t́m ra trong sự quân bằng của tác
dụng tương phản giữa ư muốn
thịnh vượng trong việc hấp thụ văn
hóa ngoại lai, và sức sống mạnh mẽ
của văn hóa truyền thống. Khác
hẳn với tranh trên tường ở Ajanta
ở Ấn Độ, có những vẻ đẹp
phong phú có tính cách quan năng ngập tràn thân
thể, người Nhật đă thành công trong
việc vẽ ra những tranh trên tường
ở chùa Houryuu một cách thanh nhă đẹp
đẽ. Tính cách độc đáo nầy đă
thành công trong việc làm phát triển nhảy
vọt văn hóa truyền thống bằng cách
lấy những kích thích mới của văn hóa
ngoại lai làm sức sống. Ḥa ca trong Manyoushuu
đúng là văn nghệ truyền thống, nhưng
từ những ca dao nghe bằng tai, không có h́nh
dạng chính xác, ḥa ca đă lấy h́nh thức
đoản ca, trường ca đọc bằng
mắt với định h́nh ngũ thất.
Điều nầy nếu không có ảnh hưởng
của Hán thơ kiểu định h́nh ngũ ngôn
hoặc thất ngôn th́ không thể nào nghĩ ra
được. Dẫu có để những tri
thức của văn học Trung Quốc như
thần tiên, thất tịch v.v…đă xâm
nhập vào ḥa ca ra một bên đi nữa,
việc dùng chữ Hán để viết ḥa ca, chính
nó nếu không là ảnh hưởng của văn
hóa đại lục th́ là ǵ. Một
hiện tượng nổi bật là việc dùng
chữ Hán để viết văn Nhật đă
được dùng rộng răi trong Manyoushuu, đó
là tập quán của những người độ
lai có từ trước. Mặc dầu chữ Hán
là một văn tự biểu ư dùng để
biểu kư tiếng nói Trung Quốc, nhưng người
Nhật đă đưa ra một phương pháp
biểu kư tiếng Nhật bằng cách dùng
chữ Hán với một tính chất hoàn toàn khác.
Ở đây, chữ Hán đă được dùng
thay cho một tiếng Nhật cùng nghĩa, tỉ
dụ như chữ “sơn” bắt đọc
theo âm Nhật là “yama”. Nhưng để
diễn tả tiếng Nhật chính xác hơn, phương
pháp tỉnh lược chữ Hán, tạo ra
một văn tự không có ư, để biểu
âm đă được nghĩ ra. Phải coi
đây là một phát minh ưu tú. Những
chữ “Kana” (仮名) nầy được
dùng trong Manyoushuu nên được gọi là
Manyoukana (万葉仮名).
Hiện tượng nầy đưa đến
kết quả là mặc dầu người
Nhật không có một văn tự cố hữu
của ḿnh, nhưng đă tự do biểu kư
được tiếng Nhật. Giống như cái
trứng của Columbo, điều đó như là
chuyện không có ǵ cả, nhưng đây là
một h́nh thái điển h́nh của sự giao
lưu giữa văn hóa Nhật Bản và văn
hóa ngoại lai. VĂN
HÓA ĐẦU THỜI HEIAN Cho
đến khi việc phái sứ sang Đường
được đ́nh chỉ (năm 894, Kanpyou (寛平) (Khoan B́nh) năm thứ 6), thời kỳ
nầy, trên h́nh thức, những nỗ lực
hấp thụ văn hóa đại lục vẫn
được tiếp tục, và đây cũng là
thời đại, trên mặt chính trị, đại
khái cơ năng của cơ cấu luật
lệnh đă trở nên vững vàng. Heian sơ
kỳ là khoảng thời gian kể từ lúc
dời kinh đô sang Heian vào năm 794 (Enryaku (延暦) (Diên Lịch) năm
13) cho đến thế kỷ thứ 9. Trên đại
cuộc, xă hội thời nầy có thể xem như
là xă hội luật lệnh, nhưng trên chính
trị và trên văn hóa, khuynh hướng khác
với thế kỷ thứ 7 và thứ 8 đă
trở nên mạnh mẽ. Nguyên
tắc đất đai là công hữu trong
chế độ luật lệnh, đă lần
lần trở thành hữu danh vô thực.Trang viên,
những đất đai tư hữu của
quyền môn thế gia như quí tộc, hoặc
chùa đ́nh, đă phát đạt một cách
đáng kể. Việc công dân bỏ ruộng
khẩu phần chạy trốn vào trang viên đă
liên tục xảy ra v́ khốn khổ ở
những gánh vác quá nặng. Với những
chống đối tuy tiêu cực nầy, chế
độ luật lệnh đă không thể tránh
khỏi con đường đưa đến
giải tán. Mặt khác, trong nội bộ của
chính phủ trung ương, chính trị quan
lại dần dần trở thành bất lực,
ḍng họ Fujiwara (藤原) đă mở ra một tập quán cha truyền con
nối tiếp tục giữ trọng chức
“nhiếp chính, quan bạch” (xem
chương sau), mà trên thực tế có
quyền lực tương đương với
quân chủ. Ḍng Fujiwara đă áp bức những
quí tộc ở địa vị cạnh tranh,
thời đại đă trở thành thời
đại độc tài của gịng Fujiwara,
tạo ra thời đại “chính trị quí
tộc”. Với bổng lộc khổng lồ
của quan cao vị cùng với những thu
nhập từ những trang viên trong toàn quốc
đă là cơ bản kinh tế nâng đỡ
sự độc tài của giai cấp quí
tộc. Những chuyển biến lịch sử nầy, trong lănh vực văn hóa, đă lần lần làm đậm màu sắc văn hóa quí tộc. Sau khi đặt kinh đô ở Heian, có 2 nhà sư du học ở Đường về nước, họ đă học những giáo học tối tân của Phật giáo nhà Đường. Tượng Hoàng bất động ở chùa Onjou
Đó là tăng Saichou (最澄) (Tối đăng) (có
tên khác là “Truyền giáo đại sư”)
và tăng Kuu-kai (空海) (Không hải) (tên
khác là “Quảng pháp đại sư”). Tăng
Saichou đă mở ra tôn phái Thiên đài, lập
chùa Enryaku (延暦) (Diên lịch) ở
Hieizan (núi Hiei). Tăng
Kuukai mở ra tôn phái Chân ngôn, đặt căn
cứ ở chùa Kyouou Gokoku (教王護国寺) (Giáo vương hộ quốc tự, cũng gọi là
chùa “Đông”) ở Kyouto (sau đó lập chùa
Kongoubuu (金剛峰) (Kim cương phong) và
chết ở đó). Hai tăng nầy là khai
tổ của phật giáo thời Heian. Hai nhà tăng
nầy ngoài mặt treo bảng “trấn hộ
quốc gia”, nhưng khác với chùa chiền
bị thống chế bởi “tăng cương”
ở thời đại trước, trên thực
tế cả hai đều nhằm hướng
lấy địa vị độc lập về
kinh tế và về tinh thần. Tự
viện là giáo đoàn có tính cách tôn phái,
lấy tín ngưỡng làm trung tâm để
kết hợp. Nhưng thời đó chưa
phải là giai đoạn có thể tổ
chức nhân dân đại chúng theo tôn giáo
được, nên cả 2 phái Thiên đài và Chân
ngôn đều coi quí tộc là “thế
chủ”, và chỉ có thể chọn con
đường nhận sự bảo hộ
của họ. Phật giáo thời Heian đă coi
việc cầu nguyện cho quí tộc được
thỏa măn những dục vọng trần
thế là việc lớn nhất của tôn phái. Nhờ
đó mỹ thuật của Phật giáo và
mỹ thuật Mật giáo đă thành chủ lưu.Trong
những tượng thần trên thiên giới, có
nhiều tượng có tướng mạo
giận dữ, như tượng “Ngủ đại
lực hống” (Godairikikuzou) (năm
phật bồ tác có sức mạnh lớn lao
bảo vệ quốc vương, năm bồ tác
đó là: Kim cương hống, Long vương
hống, Vô úy thập lực hống, Lai điện
hống, Lô lượng lực hống) tượng
“Bất động minh vương” (不動明王) (Fudoumyouou), và những
tượng chỉ có trong Mật giáo như tượng
“Như ư luân Quan âm” (如意輪観音) (Nyoirin Kannon), tượng “Đại
nhật Như lai”. Đặc biệt là tượng
“Như ư luân Quan âm” của Kanshi ji (観心寺) (chùa Quan
tâm) với vẻ mỹ miều, cùng với
Kifudougazou (黄不動画像) (tranh vẽ Hoàng bất
động) (h́nh 17) của Onjouji (園城寺) (chùa Viên thành) với
tướng mạo hùng dũng là những
kiệt tác của thời đại nầy.
Về mặt điêu khắc, khác với
những tác phẩm thời Tenpyou, thời nầy
có nhiều tác phẩm đầy sức tinh
thần mănh liệt, những tượng khắc
bằng cây đă trở thành chủ lưu, thay
thế tượng đồng phết vàng
hoặc những tượng sơn mài khô. Như
những nghiên cứu gần đây đă chỉ
trích, những kỹ thuật tạo tượng
phật ở những chùa lớn của quan
lại thời trước, đă bị thay
bằng những kỹ thuật tạo tượng
phật bằng cây, mộc mạc cho những xá
đường nghèo của những tăng
lữ ẩn ḿnh trong dân gian để giữ ḷng
tín ngưỡng nhiệt thành của ḿnh như
nhà sư Hành Cơ (Gyougi). Kỹ thuật nầy
lần lần trở nên tinh xảo và đă
trở thành kỹ thuật điêu khắc
chủ lưu của thời đại nầy. Thời
đại nầy không có những biên tập to
lớn như Manyoushuu nên những tác phẩm ḥa
ca cũng không được truyền lại bao
nhiêu. Nhờ những học thức Hán văn
đă trở thành rộng răi trong giới quan
lại, nên Hán thơ, Hán văn đă được
viết ra. Sau tập “Hoài phong tảo” (Kaifuusou)
có tập “Lăng vân” (凌雲集)
(Ryouunshuu), tập “Văn hoa tú lệ” (分華秀麗集)
(Bunkashureishuu), tập “Kinh quốc” (経国集)
(Keikoku shuu) đă được biên tập và
những tác giả như Kuukai (Không hải), Ono
no Takamura (小野タカムラ), Miyako no Yoshika (都良香) v.v… đă lần lượt xuất
hiện. Nhưng sự phát triển của Hán văn
có lẽ chỉ là một hiện tượng ngoài
mặt, chắc chắn ḥa ca vẫn được
làm ra một cách rộng răi. Sự sử
dụng chữ Kana đă lần lần tiến
triển và đă có những dấu hiệu cho
thấy rằng những chuẩn bị cho sự
phát triển của văn nghệ Kana thời sau
đă hoàn thành vào thời nầy. Gần đây
do sự đào t́m sử tích “cung Fujiwara”, người
ta đă t́m ra được nhiều mộc
giản trên đó có những chữ giống
với chữ Katakana thời sau. Kỷ nguyên
của Katakana có lẽ bắt đầu từ
thời khá xưa đó. [1] Miyake:
kho chứa lúa gạo lấy từ lănh thổ
do đại vương thời Yamato trực
tiếp cai trị, từ đó chữ nầy
được dùng để chỉ những lănh
thổ do đại vương trực
tiếp cai trị. [2] Shoutoku
Taishi: người trong hoàng tộc thờI
cổ được kính trọng nhất
ở Nhật Bản, con của thiên hoàng Yomei.
Shoutoku Taishi đă giữ việc quốc chính
từ cuối thế kỷ thứ 6 đến
đầu thế kỷ thứ 7. [3] Soga
no Umako: quyền thần thời Asuka, tận
lực trong việc chấn hưng Phật giáo. [4] Nakatomi
no Kamatari: Nakatomi là ḍng họ coi việc tế
lễ trong cung đ́nh. Kamatari nhờ có công
diệt Soga Iruka để lập ra quốc gia
luật lệnh nên được đổI
ra họ Fujiwara và từ đó ḍng Fujiwara đă
trở thành quyền thần trong cung đ́nh. [5] Jinshin
no ran: năm 671, thiên hoàng Tenchi mất, trưởng
tử là Ootomo nối ngôi thành thiên hoàng Koubun.
Năm 672 (Nhâm Th́n) hoàng đệ là Ooama
nổi loạn. Sau một tháng kịch
chiến, thiên hoàng Koubun tự vận, Ooama lên
ngôi lấy hiệu là Tenmu và từ đó
quốc gia luật lệnh được xác
lập. [6] Ryoumin:
người dân lương thiện, tiếng dùng
để phân biệt với tiện dân (gai
cấp thấp hèn). [7] Fujiwarakyou:
kinh đô của Nhật từ năm 694 đến
năm 710. Kinh đô nầy nằm ở
giữa 3 ngọn núi vùng Yamato, tỉnh Nara ngày
nay, nam bắc rộng 3,2 km, đông tây rộng
2,1km. Đường sá thẳng bon, chia kinh thành
ra như bàn cờ. [8] Heijoukyou:
kinh đô của Nhật từ năm 710 đến
năm 784. Kinh đô nầy được xây
cất ở tỉnh lỵ Nara ngày nay, nam
bắc rộng 4,8km, đông tây rộng 4,3km.
Cung đ́nh nằm ở trung ương phía
bắc, cửa chính ở phía nam, từ đó
có đại lộ gọi là “châu tước”
chạy từ nam lên bắc. Phía tây có Hữu
Kinh, phía đông có Tả Kinh, mỗi kinh có
đường sá thẳng bon chia kinh thành ra như
bàn cờ. [9] Kokubunji:
năm 743, thiên hoàng ra lệnh tất cả các
xứ nhỏ trong nước cất chùa
gọi là Kokubunji để trấn thủ
quốc gia. Toudaiji ở Nara được
gọi là Soukokubunji, đại diện cho toàn
thể Kokubunji trong nước. [10] Toudaiji:
chùa do thiên hoàng Shoumu cho cất vào năm 745,
hiện ở tỉnh lỵ Nara. Chùa nầy là
bản tự của phái Hoa Nghiêm, có tượng
Phật bằng đồng xanh to lớn. Điện
Phật đă được cất lại vào
thời trung kỳ Edo và đây là điện
Phật bằng gỗ lớn nhất thế
giới. [11] Tenjukoku
shuuchou: lụa thêu h́nh cơi cực lạc. [12] Thời
đại Asuka: thời kỳ khoảng
cuối thế kỷ thứ 6 đến
giữa thế kỷ thứ 7. Kinh đô
thời nầy được đặt ở
vùng Asuka, một thung lũng nhỏ trong lưu
vực sông Asuka, phía nam thung lũng Nara,
tỉnh Nara ngày nay. Thời Asuka được
dùng để phân biệt một thời
kỳ mỹ thuật trong lịch sử mỹ
thuật Nhật Bản. [13] Thời
Hakuhou: khoảng giữa thế kỷ thứ 7
đến đầu thế kỷ thứ 8,
giữa thời Asuka và thời Tenpyou. Đây là
tên được dùng để phân biệt
một thờI kỳ mỹ thuật trong
lịch sử mỹ thuật Nhật bản. [14] Mạc
phủ Tokugawa: tên của mạc phủ đóng
dinh ở Edo (Toukyouu ngày nay) từ năm 1603
đến năm 1867. [15] Nikkou
Toshouguu: đ́nh thờ Tokugawa Ieyasu, khai tổ
của mạc phủ Tokugawa thời Edo. Đ́nh
nầy được cất ở Nikkou,
tỉnh Tochigi. [16] Gomotsu:
vật dụng của thiên hoàng. [17] Heiankyou:
năm 794, thiên hoàng Kanmu cho dời kinh từ
Nagaokakyou ra Heian (Kyouto ngày nay) và lập ra
Heiankyou. Heiankyou rộng nam bắc 4,9km, đông
tây 4,2km, có đường “Châu tước”
(nay là Senpon doori), có hữu kinh, tả kinh, có
đường sá chia kinh thành ra như bàn
cờ. [18] Kou:
tập đoàn do do những người cùng
đi hành hương tổ chức.
|
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương 4 ]