|
CHƯƠNG 4 VĂN
HÓA CỦA XĂ HỘI QUÍ TỘC ĐẶC SẮC CỦA XĂ
HỘI QUÍ TỘC Tổ
chức luật lệnh tự nó biến chất,
và xă hội quí tộc được thành
lập. Giai cấp cai trị của xă hội
nầy là hậu thân của giai cấp quan
lại cao cấp thời luật lệnh, chính là
những người xuất thân từ giai
cấp thị tính thời cổ (tỉ dụ như
ḍng Fujiwara là hậu thân của ḍng Nakatomi
thời cổ). Từ lúc quốc gia được
thống nhất dưới chế độ thiên
hoàng, giai cấp nầy đă là thành viên của
chính phủ thiên hoàng. Dẫu h́nh thái cai trị
có biến đổi trên lịch sử do sự
thay đổi của một số yếu tố,
trên thực chất giai cấp cai trị có tính
liên tục nhất quán. Ở điểm nầy,
nh́n rộng hơn, ta có thể thấy rằng
từ thế kỷ thứ 4 cho đến đầu
thế kỷ thứ 12, xă hội thời cổ
đă ở trong cùng một chế độ cai
trị, nhưng từ khi chế độ
nhiếp quan (chữ ghép của 2 từ “nhiếp chính” và
“quan bạch”. Nhiếp chính có nghĩa thay
thế thiên hoàng thi hành chính trị. Quan bạch
(関白)
(kan-pa-ku) là chức giữa thiên hoàng và đại
chính đại thần, có quyền xem xét
những bản tấu trước khi đưa lên
thiên hoàng. Nhiếp quan có nghĩa là nhiếp chính
kèm luôn quan bạch) được thành lập, xă hội quí tộc đă
có những đặc sắc khác hẳn với xă
hội luật lệnh. Là quan
lại trong cơ cấu luật lệnh, quí
tộc có tự giác đối với chính
trị, ít nhất họ đă tiếp xúc
với nhân dân qua chính trị, họ c̣n duy tŕ
được những yếu tố sinh hoạt
chung giữa hào tộc và nông dân có từ
thời Yayoi. Từ những lư do đó, những
bài ca như Azumauta (東歌) (Đông ca), ca dao của nông dân từ Đông
quốc (vùng Kantou ngày nay), hoặc những bài ca
của Sakimori (防人) (Pḥng nhân),
những người đă bị cưỡng
chế trưng dụng từ Đông quốc
đến làm ở vùng biển phía tây, hoặc
những bài ca diễn tả một cách sống
động đời sống của dân chúng
thời nầy, có rất nhiều trong Manyoushuu,
tập thơ do tay quí tộc biên soạn. Nhưng
đến thời đại chính trị quí
tộc, quí tộc không c̣n giữ được
những tự giác của quan lại, và trên
thực tế họ đă nhường công
việc chính vụ cho cấp quan lại thấp hơn.
Công việc hằng ngày của quí tộc là
cấp hoặc cách chức quan, thi hành nghi lễ,
tổ chức yến tiệc v.v…cho nên trên
thực tế họ không có những công việc
nào xứng đáng là công việc, và do đó
họ đă mất đi những nối kết
hiện thực với nhân dân đại chúng. Hơn
nữa những quan hệ của họ với nông
thôn địa phương, nền móng kinh tế
và chính trị của giai cấp nầy, trên
thực chất đă bị cắt đứt. Quí
tộc trên tiếng tăm là người có
quyền lợi tối cao, nhưng trên thực
tế họ ở kinh đô và chỉ trưng thu
một phần lợi ích nào đó từ địa
phương. Ở địa phương quan
được bổ nhiệm hoặc quan ở
tại địa phương nắm thực
quyền chính trị, và ở trang viên lănh
chủ địa phương hoặc quan trang viên
đă nắm thực quyền quản lư. Ngoài
những quí tộc trung cấp và hạ cấp trên
thực tế được bổ nhiệm làm
quan ở địa phương, số quí
tộc c̣n lại đóng ḿnh ở kinh đô
Heian, mùa xuân xem hoa, mùa thu thưởng trăng.
Đầu óc lúc nào cũng chỉ nghĩ đến
việc thăng chức, hoặc t́m kiếm
nữ sắc. Văn hóa của thời đại
mà giai cấp quí tộc đă biến thành giai
cấp hữu nhàn (vừa
có tiền,vừa có thời giờ), đă
đi đến một kết quả tất nhiên
là đă trở thành một văn hóa có tính cách
tiêu phí, thiếu tính sản xuất, và có
một cái nh́n hết sức hạn định
trong giai cấp ḿnh. Từ
đầu đến cuối thời đại,
cho đến khi văn hóa dân chúng khôi phục
lại được địa vị của ḿnh
để đáp ứng với những biến
chuyển mới của thời đại như
sẽ được nói rơ hơn ở phần
sau, sinh hoạt hằng ngày của dân chúng trong
lao động sinh sản ở nông thôn đă
bị quên hẳn. Dĩ nhiên, dẫu là quí
tộc, nhưng họ đă duy tŕ địa
vị của ḿnh trên thu thập của sản
xuất nông nghiệp, nên họ không thể nào
không để ư đến sinh hoạt canh nông
được. Trong những bài ca do quí tộc làm
ra, hoặc trong những tranh vẽ quí tộc thưởng
thức, đôi lúc có h́nh dáng canh tác của nông
dân. Nhưng dẫu trong trường hợp
nầy đi nữa, có sự thiếu sót về
hiểu biết những vui buồn trong lao động
sản xuất của nông dân. Sinh hoạt nầy
chỉ là một điểm trong phong cảnh 4 mùa,
và được đem vào tác phẩm với cùng
ư nghĩa như hoa, trăng, nai, nhạn v.v… Kinh đô
Heian, với sông núi bao quanh, cùng với đời
sống bế tỏa của giai cấp quí
tộc, đó là tất cả thế giới
trong ư thức quí tộc. Đối với quí
tộc, đời sống bên ngoài với
nhiều giai cấp, nhiều thân phận cùng
với những phong cảnh ở những vùng
rộng răi hơn, là một thế giới
dị chất không có trong đời nầy, và
không vào mắt họ. Sau khi
ngừng việc phái sứ sang Đường,
chẳng bao lâu, vào năm 907 (Enki năm thứ 7)
nhà Đường rồi đến Shiragi, Bokkai
lần lượt bị diệt vong. Sau khi
những nước cực đông có giao
thiệp với Nhật lần lượt
mất, Nhật đă không mở bang giao chính
thức với những vương triều Ngũ
đại, Tống. Nhật đă hầu như
ở trong trạng thái bế quan tỏa cảng,
điều nầy đă khiến cho cái nh́n
của giai cấp cai trị càng trở thành
hẹp hơn. Trên quốc tế cũng như
trong quốc nội, phạm vi sinh hoạt của
quí tộc trở nên hẹp ḥi hơn, điều
nầy đă gây ảnh hưởng to lớn
đến tính cách văn hóa của họ. Trong
một thế giới hẹp ḥi nầy, quí
tộc đă đưa văn hóa của ḿnh
đến độ thành thục tối cao. Quí
tộc đă được giải phóng từ
thực tế chính trị và có dư dă để
ch́m đắm trong đời sống đầy
sở thích của ḿnh. Họ đă tạo ra
một văn hóa mà người sau không dễ
đuổi theo. Qua nhiều năm tích lũy và
điêu luyện, văn hóa nầy đă mài giũa
được những cảm giác hết sức
tế nhị, mặc dầu văn hóa nầy
đă theo một chiều hướng xuống
dốc cực cùng. Vả lại, văn hóa quí
tộc đă được sinh ra trong một
thời đại không có sự du nhập văn
hóa hải ngoại một cách to lớn, nên không
giống như mỹ thuật Phật giáo do quí
tộc thời luật lệnh tạo ra, một văn
hóa du nhập trực tiếp từ đại
lục. Văn hóa quí tộc dính liền với
đời sống của người Nhật, có
nhiều đặc chất có tính cách Nhật
Bản, và có thể gọi đây là văn hóa
kiểu Nhật Bản. Tuy có nhiều vấn
đề ở bên trong, nhưng việc đă
độc lập được từ văn hóa
đại lục và tạo ra một văn hóa
ưu tú có chất cao, đă là một công tích
đáng ghi lại trong lịch sử văn hóa
Nhật bản. Văn hóa
quí tộc, tuy thiên về giai cấp, lại
chịu giới hạn của thời đại,
nhưng có tính cách phổ biến khiến
những người ở giai cấp khác đời
sau say sưa. Điều kiện lịch sử
sinh ra đặc tính nầy là ngay ở thời
đó, trên thực tế thể chế hôn nhân
thăm vợ vẫn c̣n được tiếp
tục. Như đă nói ở phần trước,
sự cách biệt giữa giai cấp nông dân và
quí tộc đă cho thấy một cách khách quan
về sự phân hóa giai cấp sâu xa ở
thời nầy, nhưng về mặt sinh hoạt
gia tộc, quí tộc lẫn nông dân, h́nh thái gia
tộc với tính cách mẫu hệ từ
thời xă hội nguyên thủy, vẫn chưa
được thanh toán. Vợ chồng ở riêng
với nhau nên sự độc lập của
phụ nữ được duy tŕ, việc
phụ nữ lệ thuộc vào phái nam chưa
được thực hiện hoàn toàn. Di sản
của cha mẹ được phân chia cho các con
đồng đều không kể trai gái. Không ít
phụ nữ làm chủ trang viên. Việc ḍng
Fujiwara thành họ ngoại của thiên hoàng, đă
mở đường cho một tập quán là
họ Fujiwara luôn luôn được giữ
chức quan bạch kiêm nhiếp chính. Kết
quả của tập quán nầy đă làm tăng
sự quan trọng của hậu cung đối
với cung đ́nh và từ những cung nữ
được tập trung ở hậu cung, đă
có những phụ nữ có tài năng thật cao
về văn hóa. So với
xă hội phong kiến, phụ nữ thời
nầy có một địa vị rất cao, nhưng
những phụ nữ quí tộc nầy không có
một cơ năng nào trong xă hội, khác
với phụ nữ của dân chúng thời
cổ, những tay đảm đang chủ
yếu trong lao động sản xuất. Ngoài
đối tượng tính ái của phái nam, lư
do tồn tại của phụ nữ quí tộc
hầu như không có, điều đó đă làm
cho lập trường của phụ nữ
trở nên yếu ra. Vả lại, người
chồng bất cứ lúc nào cũng có tự do
ngừng thăm vợ cũ, đổi qua vợ
mới. Vợ ở riêng có bất an bị
bỏ lớn hơn vợ ở chung, nên không
thể tránh khỏi tâm trạng lúc vui lúc
buồn do sự đi đi lại lại về
t́nh ái của chồng. Khổ năo
nầy về mặt tâm lư đă khiến phụ
nữ cảm thấy ế ẩm một cách
tế nhị, và đă sinh ra được
một khả năng là khi những phụ nữ
nầy sáng tác văn hóa, trong tác phẩm, họ
có thể diễn tả một cách sâu xa mặt
trong của tấm ḷng. Điều nầy là
một điều kiện tạo ra sự sâu xa
về chất, đủ để bổ đấp
những quan niệm giới hạn của văn
hóa quí tộc thời nầy. Một
điều không thể bỏ qua được là
không những phụ nữ tương đối
yếu đuối đối với nam giới, nói
chung toàn thể giai cấp quí tộc không
nhất thiết là một tập thể mạnh
mẽ trong xă hội. Quí
tộc đă không trực tiếp nắm chặt
nông thôn, có nghĩa họ là những chủ
điền vắng mặt, sự tồn tại
của họ không có chân đứng trên đại
địa. Trước sự trưởng thành
mạnh mẽ của dân chúng từ trong nông thôn,
vận mệnh được hứa trước
cho quí tộc có thể nói là “diệt vong”.
Động loạn ở địa phương
như loạn Tengyou (天慶)[1]
(Tengyou (Thiên khánh) năm thứ 2) bắt đầu
vào năm 939, từ đô thành đến nông thôn,
trộm cướp hoành hành khắp nơi,
trị an hỗn loạn. Đây là điềm không
tốt làm lung lay chế độ cai trị
của quí tộc. Sự trưởng thành
của những người giàu mạnh ở nông
thôn được hậu thuẫn bằng sự
tăng trưởng của sức sản xuất
nông nghiệp, sự phát sinh quan hệ của xă
hội phong kiến do sự nỗi dậy đột
nhiên của vũ sĩ, nói một cách khách quan
đă là nguyên nhân chủ yếu đưa đến
sự sụp đổ xă hội cổ từ bên
trong. Và quí tộc đă không sớm cảm
thấy, dẫu bằng trực giác, sự
tiến hành như thế đó của lịch
sử. Ở thời đại nầy quí tộc
một mặt hết sức phóng túng, một
mặt lúc nào cũng đầy cảm giác
bất lực, hoàn toàn không có khí lực. Họ
đắm ḿnh vào những tư tưởng mê tín,
tin đạo Âm Dương (陰陽) (on-you)[2],
đạo Túc Diệu (宿曜) (sukuyou)[3].
Đời sống hết sức tiêu cực, sáng
chiều lúc nào cũng t́m cách trừ tà, tin
cấm kỵ, kỵ ăn, tránh phương hướng
thần Thiên Nhất (thần
trong đạo On-you, nếu đi trúng hướng
của thần nầy th́ sẽ gặp tai họa)
v.v...Và việc thiếu những tri thức về
khoa học, khác xa quá với sự thành thục
dị thường về tài năng nghệ
thuật, đă đưa đến kết
quả là làm cho quí tộc lệ thuộc sâu
đậm vào bùa phép có từ xă hội nguyên
thủy. Mặt khác, ở căn rễ của nó
có những lư do lịch sử như đă nói
ở phần trên. Đời
sống đầy bất an như thế đó,
đă làm quí tộc có tự giác rằng, là quí
tộc có ân huệ được đầy
đủ về vật chất, nhưng đó không
phải là một điều kiện đủ
để bảo đảm an toàn lâu dài cho đời
sống của họ. Điều đó là động
cơ đưa đến chí hướng t́m
cứu trợ về tinh thần vượt qua
những thỏa măn hiện thế. Nhân tính
phổ biến trong văn hóa của quí tộc
thời nầy tuy không được đầy
đủ lắm, nhưng không thể nghĩ ra
được nếu rời bỏ những
phản tỉnh khiêm nhường trong toàn
thể như đă nói ở trên. VĂN NGHỆ KỂ
TRUYỆN (MONOGATARI) PHÁT ĐẠT Trước
hết trong lănh vực văn nghệ, văn hóa
Nhật bản trong xă hội quí tộc đă
khai hoa rực rỡ. Đó là sự phát đạt
của văn nghệ kể truyện, nhờ
ở sự phát minh quốc tự. Như
đă nói ở chương trước, từ
thế kỷ thứ 7, người Nhật đă
nỗ lực và đă thành công trong việc
sử dụng văn tự biểu âm để
ghi âm vận tiếng Nhật bằng cách bỏ
ư Hán tự và chỉ giữ lại phần
chữ cần thiết để ghi âm (sá
tượng). Chữ Manyoukana đă được
sử dụng trong một thời gian dài, trong
thời gian đó những nét phức tạp
của chữ Hán lần lần được
đơn giản hóa, và một h́nh chữ
mới được tạo ra đến chỗ
Hán tự không c̣n giữ được nguyên h́nh.
Một phương pháp là tỉnh lược nét
viết, lấy một bộ phận trong chữ
hán thay vào đó. Tỉ dụ một phương
pháp tỉnh lược giữ phần bên trái
của chữ A (阿) tạo ra “a” (ア), dùng phần bên phải của chữ
lễ (礼)
tạo ra chữ “re” (レ).Chữ nầy chủ yếu được tăng
lữ hoặc học sinh dùng làm kư hiệu để
phiên cách đọc khi học cổ điển
Trung Quốc hoặc kinh điển Phật giáo.
Những chữ nầy đă trở thành chữ
được sử dụng thông thường.
Đó là kỷ nguyên của Katakana. Chữ kata (phiên)
trong katakana có nghĩa là không được hoàn
toàn, chỉ đó là một h́nh thể tỉnh lược
của chữ (kana). Một phương
pháp giản lược khác là phá chữ viết
thảo của Hán tự. Tỉ dụ phá cách
viết thảo của chữ an (安) tạo ra chữ “a” (あ), từ chữ lễ (礼) ra chữ “re” (れ). Ngày nay những chữ nầy được
gọi là Hiragana. Hiragana là danh từ của đời
sau, vào thời nầy không có danh từ Hiragana. Bằng
phương pháp giản lược Hán tự như
trên, Katakana và Hiragana được thành h́nh. Kana
thường được nói là, Katakana do “Kibi
no Makibi” (吉備真備) (Khiết bị Chân bị) và Hiragana do
Kouhou Daishi (弘法大師)
(hiệu của nhà sư
Kuukai) chế ra, nhưng thực tế không
phải do bất cứ một cá nhân, mà đó là
kết quả do nhiều người, để
được tiện nghi hơn đă tỉnh lược
chữ Hán tạo ra, trong một thời gian dài
hằng mấy trăm năm từ khoảng
thế kỷ thứ 8. Do đó, kana không có
một h́nh chữ nhất định cho một
âm. Nhờ ấn loát, Katakana và Hiragana có
được một h́nh chữ cố định
cho mỗi âm đọc như ngày hôm nay. Nhưng
đó là hiện tượng rất gần đây
(ngày nay, ngoài những h́nh chữ hiện hành,
những kana khác được gọi là biến
thể (変体)
(hentai) kana, thật ra không có ǵ là biến thể
cả). Người
Nhật tuy không sáng tạo được một
văn tự cố hữu cho ḿnh,nhưng từ
sự thay đổi Hán tự, một văn
tự ngoại quốc, một cách căn bản
về h́nh thái và cơ năng, đă trở thành
thành thục dùng một văn tự biểu âm
để biểu kư tiếng Nhật. Trường
hợp chỉ có chữ biểu ư (hoặc
chữ tượng h́nh) với trường
hợp có cả chữ biểu ư và chữ
biểu âm, có một quan hệ như thế nào
trong sự phát triển văn hóa, phải nói
rằng độ lớn đó không thể đo
lường được. Phải nói rằng
sự sáng tạo ra Katakana và Hiragana của ngườI
Nhật có một ư nghĩa rất lớn lao. Sự phát
đạt của văn nghệ trong xă hội quí
tộc, không thể nào nghĩ được
nếu không có tiền đề trên. Sau tập
Manyoushuu (tập
Vạn diệp) không có tập thơ nào
được biên ra. Nhưng vào thời thiên hoàng
Daigo (醍醐)
(Đề Hồ) có kế hoạch biên tập
trong cung đ́nh. Năm 905 Engi (延嬉)
(Diên Hỉ) năm thứ 5 tập “Kokin Waka” (古今和歌) (Cổ kim Ḥa ca) do Ki no Tsurayuki (紀貫之),
Ooshikouchi no Mitsune (凡河内ノミツネ), Mibu no Tadayuki (壬生忠岑)
v.v… lựa tập. Chữ kana gốc là chữ
tỉnh lược được dùng trên
tiện nghi tư nhân, nhưng nhờ dịp
nầy, những văn nghệ chữ kana đă
được phát biểu liên tục. Cho đến
cuối thời Heian, có 8 tập thơ do quan
hiến biên tập, những tập nầy
được gọi là “Sắc soạn ḥa ca
tập”. Đầu tiên là “Kokinshuu“ (古今集) (Cổ kim tập), kế đến là
“Gosenshuu” (後選集)
(Hậu soạn tập), “Shuuishuu” (拾遺集) (Thập di tập), “Go Shuuishuu” (後拾遺集)
(Hậu thập di tập), “Kinyoushuu” (金葉集) (Kim diệp tâp), “Shik-shuu” (詞花集)
(Từ hoa tập), “Senzaishuu” (千載集) (Thiên tái tập), và “Shinkokinshuu“ (新古今集)
(Tân cổ kim tập). Đương thời, người
ta nghĩ rằng ngoài Hán văn hoặc Hán thơ,
chỉ có ḥa ca được coi là thuần văn
học, là giáo dưỡng mà những thân sĩ
cao quí phải có, và việc được
tuyển vào tập “Sắc soạn” , đối
với thi nhân là một vinh quang vô hạn. Nhưng
ngày nay, khi nh́n lại, khó mà công nhận rằng
ḥa ca thời Heian (từ
năm 794 đến khi mạc phủ Kamakura
được thành lập vào năm 1185, dài
gần 400 năm) là những tác phẩm có giá
trị nghệ thuật cao. Đến thời
đại viện chính (Thượng
hoàng hoặc Pháp hoàng nắm thực quyền thay
thiên hoàng làm chính trị. Thời Heian hậu
kỳ, từ Pháp hoàng Shirakawa (白河) (Bạch Hà) có 3 đời viện chính.1086-1185),
“Kinyoushuu” (金葉集) và “Senzaishuu” (千載集) có thơ ca thú vị, nhưng những
tập Sắc soạn sơ kỳ có nhiều tác
phẩm chán chường. Trong
Manyoushuu có nhiều bài ca diễn tả t́nh
cảm mộc mạc của dân chúng, nhưng sau
Kokinshuu hầu như chỉ có tác phẩm của
giai cấp quí tộc. Thời Manyou có nhiều tác
phẩm không kể giai cấp, càng xưa càng có
nhiều t́nh cảm bao hàm mạnh mẽ. Thời
Kokin (古今)
những ư tưởng giống nhau lần lần
nhiều ra, khuynh hướng chơi chữ như
thơ nói bóng (かけ言葉)
(kakekotoba), thơ họa (本歌取り) (honkadori) (mượn ư thơ
của tiền nhân) nhiều, nên không đủ
sức làm rung động độc giả đời
sau. Ngoại lệ, ḥa ca của Izumi Shikibu (和泉式部) đầy t́nh tứ yêu đương mănh liệt,
khiến người ta liên tưởng đến
nhiệt t́nh của Chinami no musume (茅上娘子) thời Manyou (万葉). Văn hóa
đạt được tiêu chuẩn tối cao
trong xă hội quí tộc không phải là ḥa ca mà
là truyện.Thời nầy truyện chỉ
được coi là sách giải trí, không
phải là những tác phẩm nghệ thuật, và
chỉ cho ở địa vị nghệ thuật
hàng thứ hai. Truyện, nói theo phân loại văn
nghệ hiện đại là “tiểu
thuyết”. Nhưng khác với tiểu thuyết,
dịch từ chữ “novel”, có cách thức theo
kiểu tây phương, truyện thời xưa là
một h́nh thức mới biến đổi
từ cách “kể truyện bằng truyền
khẩu trong dân gian”. Có điều cần
phải ghi là tuy tác giả có chỗ đă
lợi dụng giáo dưỡng Phật giáo
hoặc Hán học trong cách tŕnh bày và đề
tài, nhưng truyện ở đây là loại không
có ở ngoại quốc, đó là một h́nh
thức sáng tạo độc đáo của dân
tộc Nhật Bản. “Cổ
sự kư” , là sách lịch sử nhưng có h́nh
thức không có ở Trung Quốc, có thể coi
đây là truyện, nhưng trên căn bản khác
với truyện thời Heian, ở điểm
đây không phải là sáng tác của cá nhân. V́
chỉ có cách biểu kư của Manyoukana phức
tạp, nên truyện kể truyền khẩu trong
dân gian không có cơ hội ghi thành văn chương.
Nhờ sự hoàn thành của chữ Kana, và qua
tay những người trí thức biết đọc
và viết chữ, truyện truyền khẩu
đă biến h́nh thành những sáng tác của cá
nhân. Đó là sự bắt đầu của
truyện thời Heian. Truyện
“Monogatari no Ideki Hajime no Oya” (物語のいできはじめの祖)
(Truyện tổ của truyện) và truyện
“Taketori” (竹取) ghi trong “Genji monogatari” (源氏物語)
(truyện Genji) nói về chuyện con gái của
một thần linh được sinh từ cây
tre ra, sau khi trải qua nhiều kinh nghiệm trong
thế giới nhân gian, đă trở về
với thế giới thần linh. Cốt cách
của truyện nầy, lấy từ chuyện
kể trong dân gian, lại có chỗ nói về
việc nhiều thanh niên cùng nhau tranh dành một
mỹ nữ, đây cũng là chuyện có
rất nhiều trong dân gian. Rơ ràng monogatari
nầy là sáng tác biến hóa từ chuyện
kể trong dân gian. Người giữ vai chánh
trong truyện là một tiều phu chặt tre,
một thường dân làm lao động sản
xuất trong rừng núi, đă là chứng cớ
cho thấy monogatari (物語)
ở đây c̣n trong thời quá độ, đề
tài lấy từ dân gian chưa được hoàn
toàn quí tộc hóa. Đến truyện Ochikubo (落窪) sau đó, những yếu tố dân gian
của Taketori monogatari bị quét mất, nội
dung của truyện chú trọng vào việc miêu
tả sinh hoạt nội bộ của quí
tộc. Nhưng chủ đề nói về sự
hành hạ của mẹ ghẻ đối với
con chồng, giống nhiều chuyện kể trong
dân gian, nên không phải là tác phẩm không có liên
quan với truyền khẩu dân gian. Trong Utsuho
monogatari (宇津保物語)
(động cây),
ở phần đầu có chỗ nói về
chuyện 2 mẹ con sống trong động, không
cần phải nói, đây là đề tài
lấy từ chuyện kể trong dân gian.
Truyện Tamakazura (玉鬘), một quyển trong Genji monogatari, nói
về sự lưu lạc khổ sở ở
địa phương của một thiếu
nữ tên Tamakazura, sau đó được thăng
tiến hạnh phúc. Ngay như Genji monogatari,
một truyện mà phần lớn là do sáng tác,
nhưng vẫn có nhiều chỗ có yếu
tố lấy từ chuyện kể trong dân gian. Cho nên có
thể nói rằng “truyện” phát gốc
từ chuyện truyền khẩu trong dân gian.
Mặt khác, như trong truyện Utsuho và Genji có
rất nhiều ḥa ca ráp ở bên trong. Ḥa ca
giữ một vai tṛ quan trọng trong việc
triển khai câu chuyện. Lời nói đầu
trong ḥa ca lần lần phát triển thành
truyện ca và sau đó là truyện. Điều
nầy cho ta thấy truyện ca cũng là một
nguồn gốc của truyện. Truyện Ise (伊勢),
truyện Yamato cùng với truyện Taketori, tác
phẩm gom góp những bài ca ngắn biên thành
truyện, có đầu tiên trong lịch sử
của truyện, cho biết sự phát triển
của văn nghệ về truyện dựa vào
sự giao lưu của truyện ca và chuyện
kể trong dân gian. Như
Utsuho, chuyện kể và truyện ca kết
hợp với nhau, tạo thành một tác phẩm
dài mà từ trước đến nay chưa có,
đă là tiền đề để sinh ra tác
phẩm hào hùng như truyện Genji (Genji monogatari)
sau đó. Nhưng theo những người nghiên
cứu truyện Utsuho đă chỉ trích,
truyện nầy phần đầu lấy
truyện kỳ lạ của mẹ con
“Toshikage” (俊蔭)
sống trong động cây làm trung tâm, phần
sau nói chuyện tranh dành việc nhượng nước,
giữa đó có chuyện cầu hôn chung quanh quí
nữ Atemiya (貴宮).
Những cấu tứ nầy liên kết với
nhau một cách máy móc, thiếu chủ đề
rơ rệt, không quán triệt trong toàn thể. Có lúc
có tư tưởng đặc dị phê phán mănh
liệt sinh hoạt tiêu phí của quí tộc, có
lúc quay mặt về những đề tài đầy
tính cách xă hội với nhiều khía cạnh,
cho nên không thể phủ định tính cách chi
ly diệt liệt (rời
rạc tan nát) của tác phẩm nầy. Ngay
truyện Genji, cấu tứ toàn thể của
truyện cũng rất yếu, cho ta cảm giác
như đây là dây chuyền nối liền
những truyện ngắn. Nhưng truyện Genji
đă không có thất bại lớn trong việc
diễn tả tấm h́nh thâu gọn của
cuộc đời, với những bối rối
lo âu về t́nh ái và dục vọng qua 2 đời
người, Hikari Genji và đời con, cùng
với những quan hệ phức tạp của
hằng chục trai gái chung quanh nhân vật chính.
Truyện Genji đă thành công tuyệt diệu
trong thí nghiệm trường biên, mà truyện
Utsuho không thành công được. Văn nghệ
về truyện đă đi đến chỗ
tối cao. Điểm vĩ đại của
truyện Genji không t́m ra được ở trong
cấu tứ trường biên, mà chỉ có
thể được t́m ra ở chỗ đă phân
biệt được những cá tính của
nhiều nhân vật trong truyện một cách chính
xác,và đă diễn tả được tâm lư
bối rối lo âu trong ḷng người hết
sức sâu xa.Truyện Genji đă phát huy được
sức miêu tả, không kém ǵ với tiểu
thuyết hiện đại. Những truyện có
trước, với cái vỏ của chuyện
kể trong dân gian, chỉ tả lại hành động
bề ngoài rất giống nhau của nhiều nhân
vật thiếu cá tính.Truyện Genji đúng là
đă có những đặc sắc khác với
những truyện có trước. Tiền đề
nào đă làm cho truyện Genji có thể nhảy
vọt được như vậy. Tiền đề
nầy có được nhờ những tiền
lệ khác, trệch với hệ thống
truyện, sinh ra từ truyền khẩu dân gian.
Tiền lệ đó là nhật kư, đặc
biệt nhất là văn nghệ nhật kư
của phụ nữ. Nhật kư,
lúc ban đầu chỉ là những kỷ lục
công cộng do cơ quan chính phủ biên chép.
Từ lúc quí tộc quên chính trị, chỉ
biết lấy nghi lễ, yến tiệc làm
việc chính, cá nhân quí tộc đă thường
dùng nhật kư để ghi lại những
tiền lệ, qui tắc trong nghi lễ để
truyền lại đời sau. Tất cả
được viết bằng Hán văn, và có tính
cách văn pḥng. Nhưng từ khi Kinotsurayuki (紀貫之) dùng kana viết “Tosa no nikki” (土佐日記) (nhật kư du
lịch vùng Tosa nay là tỉnh Kouchi (高知) (Cao tri), đảo Shikoku),
một loại văn nghệ mới, ”nhật kư”
được khai thác ra. Phụ
nữ đă chú ư vào điểm đó và đă
viết ra được những tác phẩm
ưu tú, tỉ dụ như “Kagerou no nikki” (蜻蛉日記) do mẹ của Fujiwara Michitsuna viết. Tác
giả của Kagerou no nikki là vợ của quan
bạch Fujiwara Kaneie (藤原兼家).
Bà là con gái của một quan mới đổi
đến địa phương, một quí
tộc cấp thấp, nhưng chồng bà là
một quí tộc tối cao. Chồng có vợ
lớn riêng, lại háo sắc, cho nên bà đă
hết sức khổ sở khi chồng không đến
thăm ḿnh. Vận mệnh mà phụ nữ
phải chịu trong chế độ hôn nhân thăm
vợ, cùng với sự độc lập về
tinh thần mà phụ nữ giữ được
nhờ chế độ nói trên, chồng chất
lên nhau một cách bi kịch. Phụ nữ đă
tự ḿnh truy cứu một cách sâu xa những
xoay động tâm lư tế nhị trên bi kịch
đó, và văn nghệ nhật kư trác tuyệt
được sáng tạo ra. Tác
giả của truyện Genji, Murasaki Shikibu (紫式部)[4]
khi bị goá chồng, thành người hầu
trong hậu cung, đă viết “Murasaki Shikibu
nikki” (nhật kư
của Murasaki Shikibu) tuy không nổi tiếng
bằng Kagerou nikki, nhưng đă chỉ trích
một cách bén nhọn những khổ năo trong
tiềm thức của một phụ nữ trí
thức ở hậu cung. Có lẻ Murasaki Shikibu
đă học được kỹ thuật miêu
tả tâm lư bề trong của con người,
một kỹ thuật đă thành công trong Kagerou
nikki và đă mài giũa được tính
tả thực của truyện Genji. Truyện
Genji, tuy có đoạn lấy truyền thuyết
truyền khẩu trong dân gian có nguồn gốc
từ những truyện có trước, nhưng
không có khuynh hướng t́m kiếm những
kỳ tưởng thần bí. Truyện đă
được viết ra bằng ng̣i bút tả
thực tinh tế đời sống b́nh thường
hằng ngày của quí tộc. Những người
đọc truyện, qua những tưởng tượng
đời sống nam nữ trong cung đ́nh, có
lẽ đă thấy h́nh bóng sinh hoạt của ḿnh
trong truyện, và bằng cách đắm ḿnh vào
truyện, đă đồng hóa ḿnh với nhân
vật trong truyện. Đời sau, tác phẩm
đáng chú ư nầy đă được xem là
một cổ điển tối cao trong văn
học Nhật, nhưng đương thời, tác
phẩm nầy chỉ được xem là
một loại nghệ thuật hạng nh́, là tác
phẩm giải trí giết th́ giờ cho phụ
nữ trẻ em. Tác phẩm đă diễn tả
một cách trung thực h́nh ảnh của
hiện thực, không có ngăn cách rơ rệt
với sinh hoạt hiện thực của độc
giả. Từ đó, tác phẩm nầy có
sức thu húc tâm hồn phụ nữ trẻ em,
những người đă chán chường
những câu chuyện kể miệng nói chuyện
hoang đường không thể có trong thực
tế. (Ở điểm nầy, ḥa ca không có ǵ
hấp dẫn, nhưng là nghệ thuật hàng
thứ nhất v́ phải có kỹ thuật th́
mới thưởng thức được, khác
với truyện làm hấp dẫn phụ nữ
trẻ em, không cần phải có điều
kiện ǵ cả). Với bất cứ tài
liệu lịch sử nào, chúng ta cũng không
thể tái hiện đời sống của quí
tộc vương triều, nhưng nhờ ở
đặc tính tả thực của truyện
nầy, chúng ta có cảm tưởng thấy
được đời sống của họ trước
mắt. Hơn
nữa truyện Genji không phải chỉ miêu
tả hiện thực một cách b́nh diện. Nhân
sinh luận, những phê phán văn minh của tác
giả đă được ghép vào mọi nơi
trong truyện hết sức công phu, không làm hư
hại tính tả thực khách quan của
truyện, dựa vào kiến thức trác tuyệt
của tác giả về hội họa, âm
nhạc, thơ văn, kỹ thuật sinh hoạt
cùng với quan hệ nam nữ. Một siêu nhân như
Hikari Genji (光源氏),
một quí tộc có đầy đủ điều
kiện mà mọi ngườI mong ước
về dung mạo, tài năng, xuất thân, cũng
chỉ là một tồn tại hữu hạn, vô
lực trước định mệnh siêu
việt. Triết lư nghiêm túc nầy, không
bằng một h́nh thái lộ liễu, nhưng
sẽ được hiểu ra qua cấu tứ
toàn thể của truyện. Sự diển tả
tâm t́nh của Fujiwara Michinaga qua câu “Konoyo wo ba,
wagayo to zo omou mochizuki no kaketaru koto mo nashi to omoeba”.
(この世をば我が世とぞ思ふ望月の欠けたることもなしと思へば)
(Cỏi thế trong
tay, dầu có nghĩ. Trăng tṛn muốn giữ,
khuyết dần đi) phản ánh nhân sinh quan
của tác giả, cảm thấy qua bản năng
rằng quyền uy cai trị của quí tộc
một ngày nào đó sẽ bị đổ
vỡ trước sự phát triển của
lịch sử (Hikari Genji là mẫu của
Michinaga). Dẫu sao đi nữa, truyện Genji không
phải là một tiểu thuyết tả thực
dài dặn chỉ tả bề ngoài đời
sống tầm thường hằng ngày, mà là
một tác phẩm văn nghệ biểu hiện
một thế giới quan vĩ đại,
đưa ra những phản tỉnh sâu xuống
tận đáy của thế giới lịch
sử nầy. Truyện
“Makura no soushi” (枕草子) của Sei Shounagon (清少納言)[5]
đôi lúc được dùng để đối
chiếu với tính cách nầy của truyện
Genji.Tuy Makura no soushi không thể nói là cùng hàng
với truyện Genji, nhưng trong cách diễn
tả hiện thực đă có một ngọn bút
tài t́nh đầy cảm giác trác tuyệt
khiến người đọc chắc lưỡi. Truyện
Genji được viết ra vào đầu
thế kỷ thứ 11, lúc Fujiwara Michinaga có vinh
hoa tuyệt đỉnh, lúc nầy là thời toàn
thịnh của xă hội quí tộc. Sau đó
thế lực của quí tộc mà ḍng họ
Fujiwara là trung tâm, lần lần xuống
dốc.Thế giới văn nghệ cũng
vậy, năng lượng văn nghệ mà
truyện Genji là đỉnh, đă lần lần
mất sức. Con gái
của Sugawara no Takasue (菅原孝標) (xem chú thích) đă
thổ lộ trong “Sarashina no nikki” (更級日記) (xem chú thích)
rằng đă phập pḥng ḷng ngực khi đọc
truyện Genji. Truyện “Hamamatsu Chuunagon” (浜松中納言) “Yowa no nezame” (夜半の寝覚) do cô gái nói trên viết cùng với
truyện “Sagoromo” (狭衣)
(tác giả vô danh) là những tác phẩm ưu tú
sau truyện Genji, nhưng ở trước
mắt mọi người, đây là những tác
phẩm mô phỏng, không bằng được
truyện Genji . Từ
đó đến thời Kamakura, tuy có nhiều tác
phẩm mô phỏng truyện Genji, nhưng không có
truyện nào được người đời
sau thích đọc lâu dài. Văn
nghệ truyện mà Genji monogatari là đỉnh, là
sản phẩm của xă hội quí tộc,
nội dung đầy những đặc thù
của xă hội nầy, nhưng nhờ giá
trị nghệ thuật phong phú của nó, qua xă
hội phong kiến cho đến xă hội
cận đại ngày nay, đă được
coi trọng như cổ điển của dân
tộc Nhật. Văn nghệ nầy không
những đă được nhiều người
của nhiều thời đại như vũ sĩ,
hoặc dân thành phố, hoặc trí thức
hiện đại, thưởng thức, mà c̣n
giữ vai tṛ là mầm mống nghệ thuật
của những sáng tác ở lănh vực khác.
Tiểu thuyết “Koushoku ichidai otoko” (好色一代男) (Đàn ông một đời
háo sắc) của Nishitsuru (西鶴),”Nise Murasaki Inaka Genji” (偽紫田舎源氏) (Murasaki
giả mạo, Genji quê mùa) của Ryuutei Tanehiko
(柳亭種彦), ”Sasame yuki” (細雪) (Tuyết
nhuyển) của Tanizaki Junichirou (谷崎潤一郎) đă cho thấy rơ ràng điều đó. Như
mỹ thuật Phật giáo thời luật
lệnh đă là nguồn năng lượng
của phong trào phục hưng mỹ thuật
của những người trong viện mỹ
thuật Nhật Bản thời Minh Trị, văn
hóa thời nầy đă có sức tạo nên
truyền thống văn hóa dân tộc trong
lịch sử, vượt qua những hạn
chế về giai cấp và thời đại. Sau
đây xin đặc biệt bàn về “tranh
cuốn” (絵巻物)
(emaki mono), một loại tranh Nhật (大和絵) (Yamatoe) được coi là di sản văn
hóa của xă hội quí tộc. TRANH CUỐN PHÁT ĐẠT Như đă nói trước, ở Nhật, tranh nguyên thủy như bích họa ở cổ mộ hoặc ở những đồng trạch thời Yayoi đă có sớm, nhưng sau đó nhờ học những kỹ thuật hội họa của đại lục, người Nhật đă dùng mực và màu để vẽ tranh trên giấy hoặc trên lụa. Lịch sử hội họa của Nhật Bản trước nhất bắt đầu từ mỹ thuật Phật giáo như đă nói ở chương trước. Tượng Phật A Di Đà ở Phượng Hoàng Đường Tranh phật vẽ Phật và Bồ tác cùng với khung cảnh chung quanh theo một h́nh thức cố định đă có ở Trung Quốc và Ấn Độ nên về mặt chủ đề, người Nhật khó có được sáng kiến của ḿnh. Cùng với mỹ thuật Phật giáo, tranh thế tục vẽ vua chúa, cung điện, sơn thủy của Trung Quốc cũng đă được truyền đến. Hiện nay có những kỷ lục cho thấy đă có những tác phẩm theo kiểu vẽ nầy trong tranh vẽ trên b́nh phong của thiên hoàng Shoumu, và vào khoảng thế kỷ thứ 9, những họa sĩ Nhật đă thường vẽ những tranh loại nầy v́ lúc đó những học hỏi hiểu biết về Hán văn được tôn trọng. Với chủ đề kiểu Trung Hoa, với cách vẽ Trung Hoa th́ không c̣n cách nào hơn là mô phỏng tranh Trung Hoa. Nhưng
từ thế kỷ thứ 10, ngay về mặt
chủ đề, tranh vẽ đă bắt đầu
tả thực những phong cảnh và phong tục
của Nhật, nên cách vẽ cũng lần
lần có phong cách Nhật Bản, và Yamatoe,
nguồn gốc của tranh Nhật Bản,
một lănh vực độc đáo, được
tạo ra. Yamatoe lúc ban đầu chỉ là
một tên gọi để phân biệt với
tranh Đường, những tranh vẽ phong
tục và phong cảnh Trung Quốc. Yamatoe là tên
để chỉ những tranh có chủ đề
Nhật Bản, không phải để chỉ
những đặc sắc về cách vẽ.
Rồi sau đó không phải chỉ những tranh
có chủ đề về Nhật Bản không, mà
cả những tranh phật cũng dần dần
có những đặc sắc của Yamatoe. Tranh
vẽ trên cánh cửa (扉絵) (Tobirae) của pḥng A di đà (ngày nay gọi là pḥng
Phượng hoàng) trong Byoudouin (平等院) (chùa B́nh Đẳng)
ở Uji (宇治)
cất năm 1053 (Thiên hĩ nguyên niên) vẽ
phật A di đà từ trời xuống đón
những tín đồ niệm Phật. Đây là
tranh phật gọi là “Raigouzu” (来迎図)
(Lai nghinh đồ), nhưng lại vẽ một
cách trung thực phong cảnh Nhật bản,
khiến người xem tưởng chừng như
đây là cảnh sơn thủy vùng gần Uji.
Đây đúng là một tranh Nhật chững
chạc, vượt qua cả những phân
biệt nào là tranh thế tục, nào là tranh
phật. Hiện tượng
Nhật Bản hóa trong mỹ thuật tạo h́nh
đă xảy ra trong mọi lănh vực. Vào
thế kỷ thứ 10, những tượng
Phật có dung mạo hiền lành kiểu Nhật
được điêu khắc nhiều ra, đại
biểu là tượng phật A di đà (h́nh 18)
do “Jouchou” (定朝)
( Định
Triều) làm ra. Yamatoe có thể giải thích rơ
rệt nhất hiện tượng Nhật
Bản hóa của nghệ thuật trong thời
đại nầy. Điều nầy sẽ
được tŕnh bày ở đây. Tranh
Yamatoe có quan hệ sâu xa với những đặc
sắc về cư trú của quí tộc,
những tranh nầy phần lớn là tranh vẽ
trên b́nh phong hoặc trên Shouji (障子)
(cửa pḥng)[6]
(Shouji, ngày nay là Fusuma
(襖)[7] v́ thời đó chưa có shouji lấy ánh
sáng). Nhà
cửa của quí tộc là những kiến trúc
có dạng thức riêng gọi là “Sindenzukuri” (寝殿造)
(cung điện để
nghỉ ngơi). Pḥng được lót dán có
chiếu trải để ngồi. Pḥng rộng
nhưng không có vách ngăn. B́nh phong hoặc màn (so
với thời sau) đă được dùng
rất nhiều để ngăn pḥng ra, khi
cần thiết. Trên b́nh phong và Shouji có nhiều
Yamatoe do những thợ vẽ hạng nhất
thời nầy vẽ ra, do đ̣i hỏi của
những quí tộc thời nầy, những người
có sở thích cao cả về nghệ thuật.
Giống như ngày nay chúng ta thường đi
xem triển lảm để thưởng thức
những tranh nổi tiếng, quí tộc ngày xưa
hằng ngày nằm ở nhà xem tranh. Điều
nầy có được nhờ ở sự dư
dă về tài sản của giai cấp cai trị
thời đó. Đồng thời quí tộc
đă đọc những tác phẩm nghệ
thuật cao siêu như truyện Genji để
giải trí. Hiện tượng “sinh hoạt
gắn liền với nghệ thuật” nầy là
hiện tượng đáng được chú ư
. Yamatoe
được vẽ trên b́nh phong hoặc trên
shouji nhiều nhất là loại tranh được
gọi là tsukinamie (月次絵) (tranh vẽ phong cảnh và
công việc 12 tháng trong năm lần lượt
từ tháng giêng cho đến tháng chạp) và
shikinoe (四季絵) (tranh 4 mùa). Những
tranh nầy vẽ những công việc hằng năm
như lễ “đuổi nạn” (đời sau thành lễ “rải đậu đuổi
tà” ra khỏi nhà), hoặc cảnh chơi bông
vụ, hoặc cảnh đi xem hoa trong bối
cảnh thiên nhiên như tuyết, trăng,
hoặc hoa anh đào, để chỉ sự thay
đổi thời tiết trong bốn mùa. Qua
những chủ đề nầy Yamatoe cố
gắng miêu tả những gắn liền
giữa thiên nhiên với sinh hoạt con người.
Cấu tứ hội họa nầy là một
cấu tứ độc đáo của Nhật, không
thấy có trong tranh Trung Hoa với những đề
tài về nhân vật, hoa điểu, sơn
thủy. Điều
nầy không phải chỉ có ở mỹ
thuật tạo h́nh. Tỉ dụ như trong
truyện Genji, sinh hoạt của người
giữ vai chính gắn liền với cảnh
vật 4 mùa như phong tố mùa thu (野分)
(nowaki), yến tiệc dưới hoa, những lay
động tâm lư của nhân vật trong
truyện qua những miêu tả khéo léo về nhân
vật và thiên nhiên, đă ḥa hợp một cách
tuyệt diệu với thiên nhiên chung quanh. Có
thể nói là chính tsukinamie là tranh đă đề
ra một cách trung thực nhất sự dung ḥa
sinh hoạt của con người với thiên nhiên,
một đầu đề chung trong nhiều lănh
vực nghệ thuật của Nhật Bản. Ngày
nay tsukinamie trên b́nh phong, shouji thời Heian không c̣n
nữa nên không thể đưa ra được
những tỉ dụ di sản một cách cụ
thể. Nhưng từ nhiều văn kiện và
từ những tác phẩm ở thời đại
Kamakura như “Jingoji Sensui Byoubu” (神護寺山水屏風)
(b́nh phong tranh sơn
thủy chùa Thần Hộ), nội dung của
yamatoe có thể tưởng tượng được
giống như nội dung đă nói ở trên. Yamatoe
thời nầy c̣n lại ngày nay toàn là tranh trong
truyện tranh cuốn (絵巻物)
(emaki mono). Sách, văn kiện thời cổ thường
là giấy cuốn, nên truyện tranh cuốn không
có ǵ lạ. Emaki mono đă lợi dụng bề
dài của giấy cuốn để vẽ tranh
diễn tả liên tục t́nh cảnh sống
động, một h́nh thái hội họa có
hiệu quả giống như chớp bóng ngày
nay, tuy đă có những gợi ư từ tranh Trung
Quốc, nhưng có thể nói đây là một sáng
tác độc đáo của người Nhật
thời nầy. Yamatoe
thời nầy so với tranh Nhật thời sau,
không có tính cách hội họa độc lập
dùng để truy cứu vẽ đẹp riêng
biệt của tạo h́nh. Yamatoe chỉ là
một cấu tạo trong nghệ thuật
tổng hợp. Yamatoe đă kết hợp với tác phẩm văn nghệ, để cùng bổ túc cho nhau những chỗ không thể diễn tả được một ḿnh. Trong tsukinamie trên b́nh phong và trên shouji, có h́nh giấy màu (giấy màu h́nh vuông để viết ḥa ca) viết ḥa ca có cùng tựa với tranh, nhằm diễn tả tính trữ t́nh của ḥa ca từ 2 mặt văn nghệ và hội họa. Ở trường hợp truyện tranh cuốn, yamatoe đă liên kết với truyện kể để diễn tả tính tả thật của truyện bằng văn nghệ và hội họa. Đó là lư do để giải thích tại sao truyện tranh cuốn hầu hết đều là tranh kể chuyện. Tranh cuốn Genji Monogatari Truyện tranh cuốn thời nầy thường vẽ về đời sống hoa lệ của quí tộc bằng những màu sắc đậm đà, bên trong có thơ viết kiểu chữ thảo đẹp đẽ. Truyện tranh cuốn trên, cùng với tập “Honganji hon sanjuuroku ninshuu” (本願寺本三十六人集) (tập 36 người của chùa Hongan) (h́nh 20) là nghệ thuật tổng hợp của hội họa, văn nghệ, thư đạo cộng với vẻ đẹp của giấy công nghệ, là những di sản đủ để kỷ niệm vĩnh viễn sở thích mỹ thuật cao cả của quí tộc vương triều. Tập 36 người của chùa
Hongan Nhưng nếu chỉ sắp những mặt tranh độc lập thành hàng với nhau th́ không thể nào phát huy hoàn toàn được tính cách độc đáo của truyện tranh cuống. Rồi một thí nghiệm t́m cách diễn tả câu chuyện xảy ra bằng những tranh nối liền theo chiều ngang, liên tục thay đổi theo thứ tự thời gian mà không cần phải mượn lời giảI thích, đă thành công. Đây là sự hoàn thành một h́nh thái độc đáo chỉ có trong tranh cuốn. Tranh cuốn Shingizan Engi Tranh cuốn Ban Dainagon Như
đă nói trước, chế độ cai
trị của quí tộc, trong đó quí tộc
tuy là chủ nhưng không có mặt ở trang viên,
từ ban đầu đă không có sức ăn sâu
vào nông thôn. Ngược lạI thế lực
của các danh chủ, vũ sĩ ở địa
phương tăng lên, và áp lực của
thế lực địa phương nầy, tương
đối mạnh ra dần dần. Ở
triều đ́nh, chế độ “viện chính”,
trong đó thượng hoàng nắm thực
quyền, đă thay thế chế độ chính
trị nhiếp chính, quan bạch. Quyền lực
trong triều đ́nh đă từ tay ḍng Fujiwara,
họ ngoại của thiên hoàng, chuyển qua tay
hoàng thất. Viện chính, trên thực chất
đă đặt cơ sở trên nhóm cận
thần làm quan lại địa phương,
những người tích lũy được
nhiều tài sản ở địa phương.
Ưu thế của địa phương
được phản ánh trong chính trị trung
ương. Viện chính đă dựa vào binh
lực của các vũ sĩ ḍng Minamoto (源)
(Nguyên), Taira (平) (B́nh) v.v…Đây là một khuynh hướng mới,
khác với thời đại chính trị
nhiếp quan của ḍng Fujiwara. T́nh
trạng nầy đă ảnh hưởng ngay
đến thế giới văn hóa. Văn hóa
của thời viện chính khó nói là văn hóa
quí tộc v́ có nhiều yếu tố quần chúng.
Trong thế giới văn nghệ, những sáng tác
truyện kể đă nghẹn đường.
Một số tác phẩm kể chuyện lịch
sử như “Eiga monogatari” (栄華物語) (truyện Vinh hoa),”
Ookagami” (大鏡)
(Gương to)
đă được viết ra, mặt khác
những truyện diễn tả đời
sống thô tục không trang sức của
quần chúng như “Konjaku monogatarishuu” (今昔物語) (tập truyện kể
chuyện xưa nay) đă bắt đầu
xuất hiện. Trong
thế giới diễn nghệ, ngoài những
nhạc Đường, nhạc Cao Ly từ đại
lục truyền đến triều đ́nh
từ thế kỷ thứ 8, được dùng
trong những nghi thức, những nhạc ca múa
hoặc làm tṛ lưu hành trong dân gian như “saru
gaku” (猿楽) (nhạc múa
rối), hoặc nhạc khuyến khích lao động
khi cấy lúa như ”dengaku” (田楽)
(nhạc ruộng),
đă dần dần được diễn trong
yến tiệc của quí tộc. Những bài hát
“Imayou” (今様)
(chuyện ngày nay)
của thợ múa búp bê, hoặc của du nữ,
những người có thân phận thấp hèn,
đă đi vào trong thế giới quí tộc, và
được quí tộc yêu chuộng đến
nỗi pháp hoàng Hậu Shirakawa (後白河)
đă cho thu thập những bài hát “Imayou” biên
ra tập “Ryoujinhishou” (梁塵秘抄).
Đây là xu thế chính của văn hóa thời
viện chính. Văn hóa
quí tộc tuy hết sức điêu luyện nhưng
với những cảm giác văn hóa giới
hạn trong một thế giới nhỏ hẹp có
tính cách tiêu phí trụy lạc. Khi văn hóa
nầy có những tắc nghẹn trầm
trọng không thể khắc phục được,
tự nhiên nó sẽ t́m đường khởi
tử hồi sinh bằng cách đem vào những
yếu tố mới mà giới quí tộc không có,
đó là văn hóa đại chúng, tuy thô tục
nhưng có sức sống tràn trề, khỏe
mạnh. Trong “Konjaku monogatarishuu” có chuyện như sau. Một quận trưởng xứ Oe (近江) (Cận Giang) (xem chú thích) cất điện Phật , cho tấu nhạc ruộng khi cúng. Một tăng được mời từ Hiezan (Tỉ Duệ sơn) lấy làm lạ lùng và đă chế giễu rằng “Ông quận nầy nghĩ nhạc ruộng là nhạc đấy à?”. Chuyện nầy cho thấy có sự đối lập giữa cảm giác của quần chúng với cảm giác của quí tộc về nhạc.Tuy vậy vào năm 1096 (Eichou nguyên niên) nhạc ruộng đă lưu hành ở Kyouto, từ những người dân thành phố đến quí tộc cao cấp, tất cả mọi người đều đội nón lá dùng trong nhạc ruộng, và với h́nh thái khác thường đó mọi người đă đi rong khắp đường phố Kyouto. Văn hóa của thường dân đă công nhiên thâm nhập mọi nơi và đă tiến hành với một khí thế mạnh mẽ không ngăn chận được. “Singizan Engi emaki” và “Ban Dainagon emaki” đúng là những sản vật của một khuynh hướng lớn có tính cách văn hóa sử nầy. Điểu Thú Hí Họa Trở
lại chuyện trước, truyện tranh
cuốn của thời đại nầy có
“Choujuu giga” (鳥獣戯画)
(Điểu Thú hí họa) (h́nh 23) được
truyền là do Toba Soujou Kakuyuu (鳥羽僧正覚猷)
vẽ. Trong những tác phẩm được coi
như tác phẩm thời Heikei (平家)
(ḍng Taira), tức mạt kỳ của thời quí
tộc, có “Kokawadera Engi emaki” (粉河寺縁起)
(Phấn hà tự duyên khởi), ”Rokudou emaki” (六道) (Lục đạo)”. Rokudou emaki gồm có
những quyển có tên là “Gaki no soushi” (餓鬼草子) (sách Quỉ
đói), ”Jigoku no soushi” (地獄草子) (sách Địa
ngục), và ”Yamai no soushi” (病草子) (sách Bịnh
tật). Rokudou emaki là tác phẩm lạ thường,
đă vẽ những t́nh cảnh tàn khốc
xấu xa của đói kém, địa ngục,
bịnh tật mà không có chút ǵ do dự,
khiến người xem cảm thấy chán chường
thế giới hiện thực. Vào thời đại
Kamakura, tranh cuốn lưu hành nhiều hơn,
nhiều tác phẩm đă được sinh ra vào
thời nầy. Khi cần sẽ nói ở chương
tới. VĂN HÓA QUÍ TỘC BÀNH
TRƯỚNG RA ĐỊA PHƯƠNG VÀ HẢI
NGOẠI. Tượng
Phật theo cách Natabori
Như đă nói ở trên, văn hóa quí
tộc đă đạt được một tiêu
chuẩn cao về chất. Đồng thời,
một hiện tượng không thể bỏ qua
được là văn hóa quí tộc sau khi
được hoàn thành ở trung ương
đă lần lần bành trướng ra địa
phương. Sự
truyền bá văn hóa trung ương ra địa
phương không phải là một hiện tượng
mới bắt đầu xảy ra ở thời
nầy. Vào thế kỷ thứ 8, ”Kokubunji”
(Quốc phân tự) (Quốc phân tự: tên chính thức là “Kim quang minh
tứ thiên vương hộ quốc chi tự”,
do lịnh của thiên hoàng Shoumu, chùa được
lập ra ở mỗi xứ trong nước,
để trấn hộ xứ sở)
được lập ra ở mỗi xứ trong nước,
hào tộc địa phương cũng đă
cất chùa xây tượng. Nhưng Kokubunji là
sự nghiệp của chính phủ luật
lệnh trung ương đưa ra chỉ thị
lập chùa ở địa phương. Đó không
phảI là ư đồ tự phát của dân địa
phương.
Chùa và tượng phật của hào
mục, ít nhất ngày nay chưa t́m ra được,
không có những tác phẩm ngang hàng với
Toudaiji hoặc Koufukuji. Từ thế kỷ thứ
9 qua thế kỷ thứ 10, văn hóa Phật giáo
đă lần lần thấm nhuần vào địa
phương một cách đáng chú ư. Ở
xứ phía Đông, một cách thức khắc tượng
phật mới độc đáo của vùng Kantou
(関東) (vùng lân
cận Toukyou) xuất hiện. Cách thức
nầy được gọi là “natabori” (鉈彫),
(h́nh 24) đó là cách thức mà dấu dao
khắc lồi lơm c̣n lại rất rơ rệt
ở trên tượng, hợp với tính hoang
dại của dân miền Đông. Tương
Phật với dạng thức nầy, dưới
mắt của người đô thành, chỉ là
những tác phẩm chưa được hoàn thành.
Sự xuất hiện của một văn hóa
độc đáo địa phương nầy
cần được coi trọng, tuy ở
một khía diện nào đó phải công nhận
có sự chênh lệch giữa văn hóa đô thành
với địa phương. Mặt khác,
từ thế kỷ 11 trở đi, cùng với
sự lớn mạnh về kinh tế và quân
sự của hào mục địa phương, văn
hóa địa phương đă đạt
được một tiêu chuẩn không thua kém văn
hóa trung ương. Một tỉ dụ điển
h́nh là những tự viện ở Hiraizumi (tỉnh Iwate (岩手) ngày nay) căn cứ của gịng Fujiwara vùng
Mutsu (陸奥)
(vùng đông bắc
Nhật). Ở đây “Chuusonji Konjikidou” (中尊寺金色堂) (pḥng vàng của chùa Trung
Tôn) (chùa Trung Tôn không
c̣n, hiện nay chỉ c̣n lại pḥng vàng và kho
chứa kinh điển), và ”Muryoukouin” (無量光院)
(Vô lượng quang viện) (chùa
có vườn hoa bắt chước Uji byoudouin
(宇治平等院) (B́nh đẵng viện)
ở thành phố Uji vùng Kyouto), đă cùng có
một già lam đẹp đẽ, là một
kỳ quan có uy phong ở vùng biên cương
đông bắc. So với
Hiraizumi, tuy nhỏ về qui mô, những gian pḥng A
mi đà (pḥng có tượng A mi đà như lai) của chùa
Shiramizu (白水)
(Bạch thủy A mi
đà: chùa của phái Chân Ngôn ở thành phố
Iwaki (岩城) tỉnh Fukushima (福島)
ngày nay),
hoặc của Kouzouji (高蔵寺) (chùa Cao tạng ở vùng
đông bắc Nhật), hoặc của Bungo no
kuni Fukidera (豊後国富貴寺) (chùa Phú Quí
ở Bungo, bây giờ là tỉnh Oita (大分), Kyuu-shuu), c̣n lại ngày nay
ở các vùng đông tây, là những di phẩm
của mỹ thuật Phật giáo di thực
từ những kiểu mẫu lưu hành trong xă
hội quí tộc. Vào lúc cuối thời đại,
thực lực của địa phương
đă trưởng thành đến chỗ có
thể hấp thụ và đồng hóa được
văn hóa quí tộc ở trung ương, và
đă là tiên phong cho sự đồng hóa văn
hóa quí tộc của vũ sĩ ở những
xứ miền Đông. Cùng
với việc thấm nhuần văn hóa quí
tộc vào địa phương, có một
việc cần ghi lại là văn hóa Nhật
Bản đă thoát ra khỏi những cách thức
du nhập trực tiếp từ văn hóa đại
lục, độc lập được với tính
cách Nhật Bản, và đă đến chỗ du
xuất sang đại lục. Vào
khoảng giữa thế kỷ 11, tác giả sách
“Hoàng đ́nh loại uyển”, ông Hồng
thiếu Ngu đời Tống, nh́n quạt tay
của Nhật, bán ở chùa Tướng
Quốc, đă phê b́nh tranh sơn thủy trên
mặt quạt như sau: ” ư nghĩ sâu xa, bút
thế tinh diệu, họa sĩ tiếng tăm
của Trung Quốc chắc cũng không
bằng”, nhưng giá cao, mua không được
nên lúc nào cũng tiếc. Yamatoe đă được
du xuất sang Trung Quốc, không những đă
được mua bán với giá cao, mà c̣n
được đánh giá cao về mặt
nghệ thuật. Sự thật nầy không
phải là chuyện tự hănh diện của người
Nhật, mà đó là chuyện do tay người
Trung Quốc viết ra. Người
Nhật đă tự giác được địa
vị chậm tiến của quốc gia ḿnh trong
lịch sử thế giới, như đă
gọi Trung Quốc là Đại Đường
quốc, đă cấp bách học hỏi trong
một thời gian dài văn hóa tiền tiến
của Trung Quốc và sau cùng đă có một
tự tín mạnh mẽ về sự độc
đáo của văn hóa ḿnh. Năm 926
tăng Kanken (寛健) (Khoan Kiện) khi đi Trung Quốc đă mang theo 2
quyển hành thư và thảo thư của “Ono
no Toufuu” (小野道風) , năm 988 tăng Chounen (Chu Nhiên) đă
cống nạp hoàng đế nhà Tống bài bút
của Fujiwara Sari (藤原佐理), tŕnh bày kỹ thuật “Thư đạo”
của Nhật Bản, khiến hoàng đế
khen rằng “Những người giỏi chữ
ở Trung Quốc cũng ít có kẻ viết
được bằng chữ nầy”. Tập
“Oujouyoushuu” (往生要集) (Văng sinh yếu tập) của Gensin (源信)
(Nguyên Tín) được gởi đến chùa
“Thiên Đài Quốc Thanh” thời Tống đă
làm tăng tục Trung Quốc quí trọng bắt
chước. Dĩ nhiên
đối với Trung quốc, những người
tự nhận ḿnh là Trung Hoa, điều trên không
có một ảnh hưởng lớn khiến người
Trung Quốc học hỏi văn hoá Nhật
Bản để phát triển văn hóa Trung
Quốc theo một đường hướng
mới. Nhưng điều trên là một sự
thật đáng để ư trong lịch sử văn
hóa Nhật bản. SINH HOẠT VĂN HÓA
Ở NÔNG THÔN VÀ ĐÔ THÀNH Văn hóa
quí tộc như đă nói ở phần trên
đă có một tiến bộ cao về chất.
Nhưng văn hóa quí tộc chói lọi ở
một chiều hướng thiên lệch trong
một môi trường sinh sống nhỏ
hẹp, nên toàn thể không nhất thiết đă
có một tính cách lành mạnh. Những cảm giác
nghệ thuật về vẻ đẹp đă
đến chỗ tinh tế dị thường,
mặt khác, sự hiểu biết về tự
nhiên và xă hội thấp kém đến độ
xấu hổ. Mặc dầu văn hóa quí tộc
cao cả nhưng mức sống của dân chúng
rất thấp kém và sự chia cách giữa văn
hóa quí tộc và văn hóa dân chúng rất
lớn. Độc
giả truyện “Konjaku monogatarishuu” đột
nhiên biết được t́nh trạng sinh
sống thô bạo của dân chúng, khác với
đời sống thanh cao nhàn nhă của quí
tộc trong truyện Genji, chắc đă kinh
ngạc không ngờ rằng đây là đời
sống của những người cùng là người
Nhật trong cùng một thời đại. Nhưng
đó là bản chất của xă hội quí
tộc. Nhưng
sự chia cách nầy, tỉ dụ như đô
thành với thôn quê, trên với dưới, qua
những giao lưu văn hóa giữa giai cấp,
địa vực, lần lần mất đi qua
quá tŕnh phát triển do sự hướng đạo
từ phía văn hóa đại chúng, đại
biểu cho một thế lực mới lần
lần từ dưới lên. Đó là một
động tác căn bản của lịch
sử văn hóa trong thời kỳ trưởng
thành của xă hội phong kiến sau đó. Động
tác nầy có thể được thấy rơ ràng
ở biến chuyển văn hóa trong đời
sống hằng ngày qua những h́nh thức y
phục. Phục sức của quí tộc, những người không có việc làm ngoài yến tiệc, nghi lễ, mắt nh́n đẹp nhưng phải nói là bất tiện, thiếu năng xuất trong hoạt động. Nh́n lễ phục của quí tộc như “sokutai” (束帯) hoặc “ikan” (衣冠) (lễ phục của nam quí tộc), “karaginu” (唐衣) hoặc “mo” (裳) (lễ phục của nữ quí tộc) thường gọi là “juunihitoe” (十二単) (mười hai mảnh), sẽ thấy rơ. Y phục giản lược của nam giới như “noushi” (直衣), “kariginu” (狩衣) rộng răi dễ chịu hơn. Quan chức thấp, thường dân cao cả mặc “suikan” (水干), có vạt trước và vạt sau ngắn nhét vô quần, hai tay áo dễ tháo, quanh thân áo có chỉ thô, to luồn ngang, thắt h́nh chữ cúc để dễ tháo ra, tiện lợi hơn “kariginu” khi lao động.
Thường dân, những người có thân
phận thấp hơn, không mặc “marueri” (盤領) (áo cổ tṛn)
kiểu trung quốc, mà mặc “hitatare” (直垂), một loại y phục đơn
giản kéo vạt áo đấp lên nhau. Đó là
những trang phục thực dụng, tiện
lợi khi lao động (h́nh 25).
Nhưng
đến thời đại chính trị vũ sĩ,
vũ sĩ trở nên giai cấp cai trị,
họ mặc quần áo hitatare sửa ra kiểu
suikan. Hitatare, y phục lao động của thường
dân, đă công nhiên trở thành y phục hằng
ngày của giới cai trị, và suikan đă
được dùng như lễ phục. Y
phục thường dân của thời đại
trước đă chiếm vị trí chủ
yếu trong văn hóa sinh hoạt hằng ngày
của người Nhật. Tuy đây chỉ là
một tỉ dụ, nhưng trong thực tế
sự phát triển của lịch sử là như
thế đó. Văn hóa quần chúng từ dưới
lần lần đẩy mạnh lên, và làm đổ
vỡ địa vị tối cao của văn hóa
quí tộc, một văn hóa chỉ c̣n có bề
ngoài, để tiến lên tạo ra một
nền văn hóa mới. [1] Loạn
Tengyou (c̣n gọi là loạn Jouhei Tengyou):
loạn xảy ra ở xứ phía đông (vùng
lân cận Toukyou). Taira Masakado thắng thế
trong việc tranh dành quyền lực trong ḍng
họ, sau khi chiếm quốc phủ Hitachi (vùng
đông bắc tỉnh Ibaraki) vào năm 939
(Tengyou năm thứ 2) đă công nhiên ra
mặt chống đối triều đ́nh, nhưng
sau đó bị Fujiwara no Hidesato dẹp. Cùng lúc
đó, ở phía tây, Fujiwara Sumitomo được
triều đ́nh phái đi dẹp hải
tặc, đă dẫn hải tặc chống
lại triều đ́nh nhưng bị đánh
bại và mất. Hai loạn nầy đă làm
cho quốc gia luật lệnh đổ vỡ. [2] Đạo
On-you: đạo đoán điều kiết
hung theo thiên văn, lịch, phương hướng
v.v… dựa vào thuyết âm dương, ngũ
hành của Trung Quốc. [3] Đạo
Sukuyou: đạo xem sao, bói điều kiết
hung dựa trên kinh “Túc Diệu” có nguồn
gốc từ Ấn Độ. [4] Murasaki
Shikibu: con của Fujiwara Tamedoki, vợ của
Fujiwara Nobutaka. Bà đă thành người
hầu trong cung sau khi Nobutaka mất. Bà là tác
giả của truyện Genji monogatari, cổ
điển tối cao của Nhật Bản
(ngang hàng với truyện Kiều của VN). [5] Sei
Shounagon: vợ của Fujiwara Kiyohara (thời
Heian trung kỳ), một nữ lưu tinh thông Ḥa
Hán (Nhật và Trung Hoa), được xếp
hàng cùng vớI Murasaki Shikibu (tác giả của
Genji monogatari). Bà là người hầu của
hoàng hậu Sadako (chính cung của thiên hoàng
Ichijou). (Shounagon là một chức trong cung). [6] Shouji:
cửa để ngăn pḥng, hoặc cửa
ở lớp bên trong của cửa sổ, trong
khung cửa có những cây ngang dọc tạo
ra những h́nh chữ nhật nhỏ. Shouji thường
được dán giấy mỏng (thường
là giấy công nghệ kiểu xưa) để
lấy ánh sáng. Ngày xưa shouji không có cây
ngang dọc mà chỉ có khung dán giấy
dầy hoặc vảI ở 2 bên giống như
cửa pḥng (fusuma) để nệm ngày nay. [7] Fusuma:
cánh cửa có khung cây có dán giấy hoặc
vảI ở 2 mặt, thường là cửa
của pḥng để nệm, mền, hoặc
là cửa để ngăn pḥng.
|
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương 5 ]