|
CHƯƠNG
5 VĂN
HÓA THỜI XĂ HỘI PHONG KIẾN BÀNH TRƯỚNG SỰ
NỔI DẬY TH̀NH L̀NH CỦA VŨ SĨ VÀ Ư
NGHĨA LỊCH SỬ CỦA VIỆC NẦY
Lịch sử tiến triển rơ rệt
nhất khi có sự thay đổi quyền
lực chính trị. Sức mạnh làm lịch
sử tiến triển trước hết
được tích lũy ở giai tầng
thấp nhất trong xă hội, sức mạnh
nầy lần lần lên giai tầng trên và sau cùng
đi đến chỗ làm thay đổi
quyền lực chính trị. Và động cơ
thúc đẩy lịch sử tiến triển lúc
nào cũng là cần lao sinh sản, và điều
nầy đă trở thành thường thức ngày
nay.
Như đă nói ở phần trước,
không phải ḍng Fujiwara hay những quí tộc khác
đă làm xă hội luật lệnh biến
chất để trở thành xă hội quí
tộc, mà chính sự chống đối tiêu
cực của giới nông dân đă gây ra điều
nầy. Nông dân đă trốn ruộng khẩu
phần, gây ra sự đổ vỡ của
chế độ phạn điền và làm phát
triển chế độ trang viên. Sau đó, chính
sự trưởng thành của nông dân đă
khiến nông dân đứng lên làm trang viên đổ
vỡ, và từ đó, quốc gia thời cổ
bị diệt vong và xă hội phong kiến
được tạo ra.
Sự nổi dậy th́nh ĺnh của vũ sĩ
không nhất thiết là kết quả của quá
tŕnh tranh dành quyền lực giữa vũ sĩ
và quí tộc trong nội bộ của giai cấp
cai trị. Như đă nói ở phần trước,
vũ sĩ là một thế lực mới
xuất hiện từ thành phần hào nông,
tầng lớp danh sĩ ở nông thôn. Sư
nổi dậy th́nh ĺnh của vũ sĩ có
một ư nghĩa lớn lao là tiến hành cách
mạng trong quyền lực cai trị, mà giai
cấp cai trị của quốc gia đời xưa
đă giữ hầu như là liên tục từ
thời đại Yayoi, nay sắp bị thay đổi
bằng một thế lực từ dưới lên,
một thế lực đă được
bồi dưỡng trong đại chúng nhân dân.
Giai cấp thị tính, quí tộc thời
luật lệnh, quí tộc thời chính trị
nhiếp quan, tất cả đă giữ địa
vị cai trị của ḿnh trong cơ cấu
quốc gia dưới chế độ thiên hoàng,
ngược lại vũ sĩ, những địa
chủ ở địa phương, có chân đứng
trên một cơ sở hiện thực là kinh
doanh nông nghiệp. Vũ sĩ đă được
sinh ra với sứ mệnh phải lớn lên
trong nội bộ của cơ cấu chế
độ thiên hoàng, nên đă phải lấy
một h́nh thức tuân thủ giai cấp cai
trị, tỉ dụ như hoặc được
bổ nhiệm làm quan “Tsuibushi” (追捕使)
(Truy bổ sứ) hoặc “Oryoushi” (押領使)
(Áp lănh sứ), hoặc làm người nhà
của ḍng Fujiwara. Đôi lúc vũ sĩ đă
cần phải để ḍng quí tộc như
Taira (B́nh) hoặc Minamoto (Nguyên) đứng trên làm
Touryou (棟梁) (Đống
lương: đầu
lănh), nhưng thực lực của vũ sĩ
không phải là do sự quan hệ với thượng
tầng, mà điều thứ nhất là do sự
kết hợp với đất đai, kế
đến là do một khế ước chủ tùng
(chủ tớ)
với những người ở giai tầng xă
hội thấp hơn. Nhờ lấy một
sức mạnh từ dưới làm nguyên động
lực, vũ sĩ đă đổi ngược
được địa vị cai trị trong
quốc gia thời xưa, và đă thành công trong
việc tạo ra một xă hội mới, đó
là xă hội phong kiến mới.
Vũ sĩ đă đứng tiên phong trong
việc tiến hành cách mạng bằng phương
pháp ăn ṃn từ nội bộ thể chế
trang viên, nhưng đă không thể phá vỡ
quốc gia thời xưa trong một lần
được. Vũ sĩ đă phải thỏa
hiệp với quí tộc nhiều lần, và xă
hội đă cần một thời gian dài
hằng mấy trăm năm mới hoàn toàn thay
đổi được sang tổ chức phong
kiến.
Gịng Taira đă thành công trong việc lấy
chính quyền ở Kyouto sau khi b́nh định
loạn Hougen (保元)[1]
(Bảo nguyên) và loạn Heiji (平治)[2]
(B́nh trị). Nhưng gịng Taira chỉ giữ
được những chức vụ trọng
yếu trong cơ cấu chính trị quí tộc,
chớ chưa mở ra được một
thể chế chính trị vũ gia mới, thay
thế cho chế độ chính trị quí
tộc. Ngay như Minamoto Yoritomo (源頼朝),
người diệt ḍng Taira, lập Mạc
phủ ở Kamakura, cũng chỉ tạo ra
được một tổ chức có quyền
lực độc lập để khống
chế vũ sĩ và lănh địa của
họ, chớ không phải để cướp
đoạt quyền năng của chính phủ
Kyouto. Việc bắt đầu chế độ
chính trị vũ gia ở đây chỉ có nghĩa
là sự bắt đầu của một cách cai
trị hai phía, một của vũ gia và một
của công gia (quí
tộc của quốc gia thời xưa và con cháu
của họ).
Sau đó, vào năm 1221, qua loạn Joukyuu (承久)[3]
(Thừa Cửu), mạc phủ có ưu thế
tuyệt đối. Việc ăn ṃn quyền
lực cai trị trở thành nhanh hơn. Mạc
phủ đă đặt Shuugo (守護)
(Thủ hộ), Jitou (地頭) (Địa đầu) thay thế cho quốc tư và
chủ trang viên, những quan chức cai trị
thời xưa. Việc di chuyển cai trị
từ hai phía sang cai trị một phía của vũ
sĩ đă đi đến chỗ không ngăn
chận được. Nhưng thời mạc
phủ Kamakura cũng không vượt khỏi giai
đoạn có tính cách quá độ nầy.
Văn hóa sử đă phản ánh đúng t́nh
thế xă hội nói trên. Sự tăng trưởng
của thế lực vũ sĩ do sự trưởng
thành của quần chúng đẩy lên khiến
thế giới văn hóa lần lượt sinh ra
những văn hóa mới có những yếu
tố dân chúng phong phú, không thể thấy trong xă
hội quí tộc. Nhưng ở Kyouto, quyền uy
văn hóa của quí tộc thời xưa và
địa vị chính trị của họ
vẫn được duy tŕ. Mặc dầu đă
lấy được quyền lực, nhưng vũ
sĩ chưa có được một văn hóa
độc đáo của chính ḿnh để có
thể đương đầu với văn hóa
quí tộc, nên vũ sĩ vẫn phải qú chân
trước văn hóa quí tộc và học
hỏi văn hóa đó. Và để tương
ứng với thế lực chính trị, ngay trên
mặt văn hóa, tranh chấp đă xảy ra
giữa văn hóa cổ truyền thống với
văn hóa mới. Văn hóa mới lần lần
trở thành ưu thế trong khi văn hóa cũ
lần lần suy vong. Có thể nói đây là
một chiều hướng căn bản của
thời đại nầy.
Chương nầy sẽ khảo sát tường
tận sự phát triển của nền văn hóa
mới, cố gắng làm rơ bước đầu
tiên đă được bước ra như
thế nào trong sự khai triển từ thời
đại văn hóa quí tộc sang văn hóa dân
chúng. BẢN
TÍNH CỦA VŨ SĨ VÀ TÍNH CHẤT VĂN
NGHỆ CỦA HỌ.
Xă hội cổ đại là xă hội
đă trực tiếp cai trị thân thể nhân dân
qua quyền lực tập trung của quốc gia,
coi nhân dân là nô lệ và đă bốc lột
sức lao động đó. Đối lại xă
hội phong kiến có thể nói rằng đây là
xă hội đă trưng thu sản vật của
nhân dân định cư với đất đai,
qua sự trung gian của quyền lực cai
trị đất đai phân tán ở khắp nơi.
Cai trị đất đai đă là trung tâm
của cách cai trị phong kiến. Tổ chức
nhân sự mà những người cai trị trong
chế độ phong kiến lập ra để
củng cố việc cai trị đất đai
là sự kết hợp “chủ tùng” (chủ
tớ). Điều nầy có nghĩa là vũ
sĩ đă lập liên hệ chủ tùng với
bộ hạ, cấp “Go on” (御恩)
(ơn) cho bộ
bạ bằng cách công nhận quyền lợi
của bộ hạ với đất đai, cho
bộ hạ đất đai mới và bảo
hộ quyền lợi đó. Đối với
chủ quân, bộ hạ phải “houkou” (奉公) (phụng sự người trên) và “chuukin” (忠勤)(trung cần) (đem hết
sức ra làm việc) về mặt quân sự,
kinh tế, trong thời b́nh cũng như lúc
chiến tranh. Qua sự kết hợp nầy, kinh
tế và quân sự của vũ sĩ đă
trở thành hết sức mạnh mẽ. Sự
kết hợp chủ tùng nầy là sự liên
hợp liên tầng từ hạ tầng vũ sĩ
đến Touryou (người
đứng đầu, lănh đạo) của
vũ gia. Sự quan hệ chủ tùng nầy
được truyền từ cha đến con, và
kết hợp đó ngày càng được
củng cố. Liên hệ chủ tùng đă
tạo ra một quan hệ nhân sự mới mà công
gia quí tộc không có. Sự thắng lợi
của vũ sĩ đối với quí tộc có
được là nhờ ở uy lực phát huy
từ quan hệ nhân sự mới nầy.
Vũ sĩ khi đă ra chiến trường,
chủ tùng cùng nhau gian nan, đôi lúc cùng vận
mệnh sinh tử với nhau, cho nên sự kết
hợp chủ tùng ngày càng mạnh ra. Sự
kết hợp nhân sự trong những tranh dành
sống chết, có tính chất nghiêm túc vượt
qua những quan hệ lợi hại, một t́nh
cảnh tinh thần mà quí tộc hoàn toàn không
biết được.
Đương nhiên sự liên hệ chủ
tùng nầy chỉ để bảo tŕ và
khuếch trương những lợi ích tương
hỗ trong xă hội, không bao gồm một ư
thức xă hội rộng răi hơn. Ở điểm
nầy, có chỗ thụt lùi so với quí tộc
thời luật lệnh, những người có
tự giác về nghĩa vụ nh́n rộng chính
trị toàn thể quốc gia. Một điều
nữa không thể phủ định được
là dù để thỏa măn dục vọng về
quyền lực của ḿnh, quí tộc trong chính
trị nhiếp quan đă dùng nhiều mưu
mẹo thâm hiểm, nhưng đă không giết
hại người khác, một mặt vũ sĩ
đă có gương mặt phi đạo, b́nh
thản trong hành vi giết người một cách
tàn khốc. Cho nên không thể b́nh phẩm luân lư
vũ sĩ cao cả được, nhưng
cần ghi rằng vũ sĩ đă đem lại
một linh hoạt trẻ trung, thiếu trong xă
hội quí tộc trụy lạc.
Tiếng “vũ sĩ” có ư nghĩa và có tính
cách khác nhau trong nhiều giai đoạn, bao
gồm những vũ sĩ từ thời Kamakura,
những người có cơ sở kinh doanh nông
nghiệp, đến những vũ sĩ thời
Edo, những người tiêu thụ ở thành
thị. V́ vậy đạo đức của vũ
sĩ cũng khác nhau theo thời đại.
Chữ “vũ sĩ đạo” được
dùng rộng răi ngày nay là chữ được
tạo ra vào thời Edo. Những học giả luân
lư thời Minh Trị đă mỹ hoá “vũ sĩ
đạo”, tuyên truyền ở Âu Mỹ, coi
đó như là một đạo đức
phổ biến. Vũ sĩ đạo là một
quan niệm tư tưởng thời Edo, thực
thể đạo đức của vũ sĩ
trong thời phong kiến bành trướng, không
thể tưởng tượng ra được
qua những tính chất có trong chữ “vũ sĩ
đạo”.
Một cách tổng quát, trong liên hợp
chủ tùng, quan hệ song phương giữa
chủ tùng không b́nh đẳng, nghĩa vụ
“bổng công” của người dưới
đối với “chủ quân” đi trước
“ơn cố” của chủ quân đối
với kẻ dưới tay. Kết hợp
chủ tùng lúc sơ kỳ đúng như ư
của chữ Ichizokuroudou (一族郎等) (Ichizoku: một gịng
họ, roudou: kẻ dưới) chỉ
những người cùng ḍng họ, quan hệ
cộng đồng thân tộc giữa chủ quân
và người dưới tay phần nhiều
được tiếp tục lâu dài, khác với
xă hội phong kiến ở Âu châu, có quan hệ
chủ tùng theo khế ước song phương
cổ điển. Nói như vậy nhưng
sự quan hệ chủ tùng nầy trên căn
bản khác với quan hệ đơn phương
có tính cách nô lệ giữa chính phủ luật
lệnh với nhân dân. Tuy vậy, nghĩa vụ
chủ tùng là nghĩa vụ song phương
lấy “ơn cố” và “bổng công” làm
tiền đề, không nhất thiết người
dưới có nghĩa vụ “trung cần”
đơn phương vô điều kiện.
Như thời Edo, quyền lực của
chủ quân trở thành hết sức mạnh
mẽ, cho nên hầu hết vũ sĩ đă
bị cắt rời khỏi đất đai, và
đă biến ra thành những người lănh lương,
hưởng “Chigyoumai” (知行米) (Tri hành mễ: lương
trả bằng gạo lấy từ lănh địa)
nên sự độc lập của kẻ dưới
gần đến số không. Nhưng ở xă
hội phong kiến thời bành trướng,
quyền lực trung ương c̣n yếu, vũ sĩ
có đất đai, kinh doanh nông nghiệp, nên
đối với chủ quân, tính độc
lập của họ có vẻ mạnh mẽ.
Ngoại trừ những vũ sĩ thấp
nhất, không có đất đai, những vũ
sĩ trung b́nh trở lên, đối với
chủ quân không nhất thiết phải
“bổng công” một cách đơn phương
kiểu nô lệ.
Những người nầy ở chiến trường
đă dũng cảm chiến đấu, và đă
không quên đ̣i hỏi “ơn thưởng”
đối với “quân công“ (chữ
Nhật là quân trung) của họ. Những
bảng “quân công” được viết ra
để yêu cầu “ơn thưởng” đă
được t́m thấy rất nhiều, đă
hùng biện rằng đạo đức của
vũ sĩ không phải là “đạo đức
của hiến thân” một cách vô điều
kiện. Quan hệ cha truyền con nối đă là
một sức mạnh duy tŕ sự kết hợp
chủ tùng, nhưng khi t́nh thế thay đổi,
nhiều vũ sĩ đă ly phản nhà chủ cũ.
Hatakeyama Shigetada (畠山重忠),
được mọi người coi là trung
thần của Yoritomo (ḍng Minamoto), ông nầy ban
đầu đă là gia thần của ḍng Taira,
đi chinh phạt Yoritomo.
Đối với vũ sĩ, điều mà
họ quan tâm nhất là bảo hộ gia tộc,
làm cho con cháu phồn vinh, ḷng trung nghĩa đối
với chủ quân chỉ là một thủ đoạn
mà thôi. Họ để chủ quân lên đầu
chỉ v́ lợi ích của bản thân và gia
tộc. Cùng là gia thần dưới một
chủ quân họ không có t́nh cảm liên đới
tương hỗ với nhau. Khi ra chiến trường,
họ không thể hành động theo kiểu
đoàn thể, ngược lại họ chỉ
lo t́m chỗ hở của người cùng bên,
tranh nhau trận nhất. Đương nhiên ngoài
chuyện lo lập công danh cho cá nhân ḿnh, họ
không có đủ độ lượng trong ḷng
để nh́n lại người khác.
Đạo đức chủ tùng có tính cách
như vậy v́ sự kết hợp chủ tùng
là một kết quả tất nhiên sinh ra từ
quan hệ xă hội đă được kết
thành rải rác ở từng địa vực riêng
biệt, sau khi sự thống nhất có tính cách
h́nh thức của xă hội thời cổ
bị phân tán. Do đó, đạo đức
nầy đă gặp một giới hạn
lịch sử lớn lao. Mặt khác, lập
lại một lần nữa là ở thời
cổ đại người Nhật chỉ
biết lệ thuộc vô điều kiện
đối với người trên, cho nên tuy quan
hệ khế ước chủ tùng không
được hoàn toàn, nhưng ở đây người
Nhật lần đầu tiên đă có được
một nguyên lư đạo đức bao gồm
quan hệ song phương. Phải nói đây là
một sự trưởng thành đáng để
ư về mặt tinh thần của người
Nhật. Từ những yếu tố luân lư
mới nầy, một phái văn nghệ mới
đă được sinh ra, đại biểu là
truyện quân kư (truyện chiến tranh) như “Heikei monogatari”(平家物語) mà về mặt h́nh thức cũng không có ở
thời văn nghệ quí tộc.
Đă có những truyện như Shoumonki (将門記)
(Tướng môn kư) lấy chuyện đánh nhau
của vũ sĩ làm chủ đề, viết
kiểu kỷ lục về quá tŕnh của
loạn Tengyou (天慶)
(Thiên Khánh) (xem chú thích) vào thế kỷ thứ 10. Truyện
Mutsuwaki (陸奥話記)
(Lục ốc thoại kư) nói về loạn
Zenkunen (前九年)[4]
vào thế kỷ 11. Cả trong Konshaku monogatarishuu (Tập
truyện xưa nay) đă có những chuyện
đánh nhau hoặc những chuyện vũ dũng
thời Heian, nhưng về mặt văn nghệ
sử những chuyện nầy đă chưa
đi đến chỗ tạo ra được
một phái riêng. Đến thời Kamakura,
thời bắt đầu của chính trị vũ
sĩ, lần đầu tiên truyện quân kư
tạo ra một phái riêng, và từ phái nầy,
một tác phẩm tối cao đại biểu
cho thời đại nầy đă được
sinh ra. Những truyện quân kư xuất hiện vào
khoảng từ thế kỷ 13 đến đầu
thế kỷ 14, có thể kể ra là “Joukyuuki”
(承久記)
(loạn Joukyuu),
“Hougen monogatari” (保元物語)
(loạn Hougen) ,
“Heiji monogatari” (平治物語)
(loạn Heiji) ,
“Heikei monogatari” (平家物語)
(truyện ḍng Taira).
Ba quyển trước có cốt cách tương
đối đơn thuần, phân lượng
lại ít, đối lại, quyển Heikei
monogatari đả phát huy được tính cách
độc đáo của truyện quân kư về
mọi mặt.
Truyện Heikei monogatari đă được
ra đời lúc nào, điều nầy có
nhiều học thuyết. Đây là truyện do giáo
sĩ Biwa (琵琶)
(T́ bà) vừa đàn t́ bà vừa kể, nên
ở điểm đó, đây là một văn
nghệ truyền khẩu, khác với văn
nghệ quí tộc, là văn nghệ do cá nhân sáng
tác trên bàn giấy, dùng mắt để đọc
văn tự.
Truyện trong văn nghệ quí tộc, qua
nhiều lần chép đi chép lại và hiệu
chính đă sinh ra sách khác, tỉ dụ trong sách
chép Genji monogatari, sách sao b́a xanh (sách
cho phụ nữ) với sách sao Kawachi (sách
do cha con Kawachi (河内),
thời Kamakura sơ kỳ hiệu chính) đă có sự khác biệt trong bản văn, nhưng
sự khác biệt nầy chỉ có ở lời
văn nhỏ nhặt, không đến nỗi sai
biệt một chương hoặc một đoạn.
Đối lại, những truyện Heikei
monogatari, tùy theo những chuyện nối giữa
có hoặc không, đă trở thành khác hẳn
nhau. Về phân lượng cũng đă có
một sự cách biệt xa, bản sao Heikei
monogatari lưu hành nhất có 12 quyển,
truyện Genpei jousuiki (源平盛衰記) (Nguyên B́nh thịnh suy kư) có 48 quyển, cho nên có
thể coi đây như là một truyện khác.
Giáo sĩ T́ bà trong lúc kể chuyện, đă
thể theo lời yêu cầu của người
nghe, đă thay đổi thứ tự, thay đổi
cả đoạn truyện. Chuyện thay đổi
lập đi lập lại nhiều lần nên
đă sinh ra nhiều bản khác nhau. V́ vậy có
thể nghĩ rằng trong những truyện
nầy, vai tṛ cá nhân của một tác giả nào
đó không nhất thiết to lớn, ngược
lại qua nhiều năm, truyện đă trưởng
thành thể theo sở thích của người
nghe.
Với nghĩa trên phải nói rằng đây
là tác phẩm có tính cách cổ điển dân
tộc, hoặc có tính cách đại chúng,
những tính cách không có trong những truyện thành
h́nh thời Heian, với nội dung có giới
hạn trong giới quí tộc.
Trong chính trị, vũ sĩ đă nắm
vai tṛ lịch sử chủ yếu, và qua
truyện quân kư, vũ sĩ lần đầu tiên
đă trở thành vai chính trong các tác phẩm văn
nghệ. Quyển đầu của Heikei monogatari
bắt đầu bằng câu văn nổi
tiếng “Tiếng chuông chùa Ḱ viên tinh xá …” (chùa Ḱ Viên tinh xá ở trung phần Ấn Độ
cất ra cho phật Thích Ca thuyết giáo) và
kết thúc bằng quyển “Kanjou no maki” (灌頂巻) (quyển Quán Đỉnh),
truyện nói về Kenrei Mon-in Rokudou (建礼門院六道)
(Kiện Lể Môn Viện Lục đạo:
thứ nữ của Taira Kiyomori (平清盛),
hoàng hậu của thiên hoàng Kousou (高創) (Cao Sáng),
mẹ của thiên hoàng Antoku (安徳) (An
Đức), năm 1185 trong trận “Dan no Ura” (壇ノ浦)
(bờ biển ở thị trấn Shimonoseki (下関)
tỉnh Yamaguchi (山口)
ngày nay) đă cùng thiên hoàng Antoku gieo ḿnh
xuống biển, nhưng được người
của ḍng Minamoto cứu, sau đó cắt tóc
đi tu),
cả 2 quyển đều là bản chép của
“Ousei youshuu” (往生要集)
(Văng Sinh yếu tập), lấy nghệ thuật
của phái Tịnh độ (một phái của
Phật giáo) làm cốt cán. Nhưng ở
những bản ban đầu của Heikei monogatari
quyển “Kanjou no maki” chưa được tách
riêng độc lập ra, cho nên cốt cán
của nghệ thuật Phật giáo không có ở
lúc ban đầu. Quan tâm lớn nhất của
truyện là vẽ ra h́nh dáng đứng đắn
của vũ sĩ, những đương sự
trong thời đại mới.
Không phảI chỉ truyện Heikei monogatari mà
cả những truyện như Hougen (Bảo Nguyên),
Heiji (B́nh Trị) đều đem hết sức
vẽ lại bộ mặt của vũ sĩ
trong chiến trường, không có truyện nào
vẽ bộ mặt của vũ sĩ với tính
cách kinh doanh nông nghiệp. Ở điểm
nầy, khác với tranh cuốn Obusuma Saburou (男衾三郎)
(tranh vẽ đời
sống hằng ngày và chuyện t́nh ái của vũ
sĩ xứ Musashi (武蔵), phía
Đông),
một tác phẩm thời Nam Bắc triều
tả lại đời sống hằng ngày
của vũ sĩ, nhưng ngược lại
nhờ vậy truyện đă biểu hiện
một cách sống động h́nh dáng vũ sĩ
ra dáng vũ sĩ chớ không phải chỉ là
một hào nông. Đặc biệt là đạo
đức của vũ sĩ, có vũ dũng không
sợ chết, có trung tiết đối với
chủ quân, có ơn ái đối với người
dưới, có ḷng nghĩ đến con cháu v.v…đă
được vẽ ra hết sức thiết
thực, và đột nhiên một mặt khác,
mặt theo đuổi lợi ích và công danh cũng
được vẽ ra một cách lộ
liễu. Cách thức hành động thực
tế sống thực của vũ sĩ đă
được hiểu một cách đúng đắn.
Điểm nầy khác hẳn với những
điều chỉ dạy của “vũ sĩ
đạo”, đă được mỹ hóa
một cách ngụy thiện, được trang
điểm bằng giáo dưỡng Nho giáo
thời Edo.
Trong truyện Heikei monogatari, việc Taira
Shigemori (平重盛)
dùng bạo lực đối với “gyouretsu” (行列)
(đội ngũ)[5]
của Fujiwara Motofusa (藤原基房)
đă bị kể như hành động của
người cha Kiyomori. Shigemori đă được
triệt để coi như là người
tốt và Kiyomori được triệt để
coi là người xấu. Mặc dầu trong văn
nghệ có chuyện đổi ngược như
vậy, nhưng trên căn bản, truyện Heikei
monogatari đă nắm vững được
sự thật và đă tả thật thấu
triệt. Đó là cái hay, cái hấp dẫn
của truyện nầy.
Truyện Genji monogatari đă hạn định
trong việc miêu tả đời sống riêng tư
hằng ngày của quí tộc.Trong cấu tứ
toàn thể của truyện có chỗ ám thị
bản chất bi kịch của con người,
nhưng trong phần chi tiết đă không có
chỗ diễn tả trực tiếp những trôi
nổi bi kịch, ngược lại đă miêu
tả tỉ mỉ những biến động
của t́nh cảm nhỏ nhặt trong ḷng. Khác
lại như đă nói ở phần trước,những
truyện quân kư đă lấy những hoạt
động công cộng ở trận chiến làm
đối tượng, đă gạt bỏ
những sinh hoạt hằng ngày của vũ sĩ.
Chỗ nào trong truyện cũng có bi kịch, toàn
thể của truyện đă được
cấu thành bằng những con đường
dẩn đến sự diệt vong của cả
ḍng họ Taira, cho nên đă phát huy được
hiệu quả màn kịch ở toàn thể và
ở từng phần, một đặc tính có tính
cách đại chúng cùng với một cái nh́n
rộng hơn không thấy trong văn nghệ quí
tộc. Nhờ đó truyện quân kư đă
được nhiều người ở
nhiều giai tầng thích đọc, và cho đến
ngày nay truyện Heikei monogatari đă có nhiều
đọc giả hơn truyện Genji monogatari cũng
là nhờ ở đặc tính nghệ thuật
của truyện nầy.
Sau truyện Heikei monogatari có Taiheiki (太平記)
(Thái B́nh kư) có
lẽ đă được hoàn thành vào hậu bán
thế kỷ 14 lấy chủ đề chiến
tranh từ loạn Genkou (元弘)
(Nguyên Quảng)[6]
đến Nam Bắc triều.
Truyện Heikei monogatari có một đề tài
thống nhất về mặt h́nh thức với
triết lư là “thịnh giả tất suy”,
về mặt thực tế nói về sự
diệt vong cua ḍng Taira. Đối lại Taiheiki
đă miêu tả b́nh diện những chiến
loạn theo thứ tự thời gian, tuy nhiều
chỗ có nhiều chuyện hay ho, nhưng toàn
thể không có những cảm động sâu xa
như truyện Heikei monogatari.
Nhưng
như sẽ nói ở phần sau, truyện
“Taiheiki” lấy chiến loạn thời Nam
Bắc triều làm đối tượng,
chiến loạn nầy đă gây ra một sự
thay đổi căn bản trong giai tầng xă
hội do sự tiêu diệt những chế độ
sống sót của quốc gia thời cổ.
Ở mọi chỗ, truyện đă ghi lại
những hành động chỉ dựa vào
thực lực của thổ hào, vũ sĩ,
chỉ v́ lợi hại của bản thân,
của gia tộc, đă không do dự chà đạp
những quyền uy cổ thời. Nguyên lư hành
động thô bạo của vũ sĩ, trong
Heikei monogatari vẫn c̣n được mỹ hóa,
nhưng ở đây những hành động
nầy đă bị bộc lộ trần
truồng. Taiheiki thiếu thái độ mỹ hóa
sự kiện bằng cảm thương, ngược
lại, đă triệt để với sự
thật lịch sử hơn cả truyện Heikei
monogatari.
Dù sao, Taiheiki là truyện quân kư sau cùng trong
số truyện có thể được coi như
là tác phẩm nghệ thuật để thưởng
thức, sau đó từ truyện Meitokuki (明徳記)
(Minh Đức kư) có chủ đề về
chiến loạn thời Muromachi[7]
(室町)
trở đi, hầu như không có truyện nào có
hấp dẫn về mặt văn nghệ. Thay vào
đó những tác phẩm có chủ đề
về vận mệnh cá nhân của những vũ
nhân đặc biệt như “Gikeiki” (義経記)
(truyện Yoshitsune), “Soga monogatari” (蘇我物語)
(truyện Soga) đă
được viết nhiều ra. Nhưng
những truyện nầy có tính cách giải trí hơn
là truyện quân kư. Lịch sử của
truyện quân kư đă khép lại ở đây. Tiền thân của truyện quân kư là những câu chuyện đánh nhau hiện ra từ thời Heian. Song song với những chuyện nầy, những tranh cuốn lấy đề tài về chiến tranh đă được vẽ ra rất sớm. Trong những tác phẩm hiện c̣n, có Mouko shuurai emaki (蒙古襲来絵巻) (tranh cuốn Mông cổ đánh úp) vẽ vào thế kỷ 13 (h́nh 26), trước sau đó có Heiji monogatari emaki (平治物語絵巻) (tranh cuốn truyện B́nh Trị), đây là những tranh cuốn từ sau thời Kamakura. Tranh Mông Cổ đánh úp PHẬT
GIÁO MỚI
Sự nổi dậy của thế lực
quần chúng đứng đầu là vũ sĩ
đă tạo ra một lănh vực mới mà xă
hội quí tộc không tạo ra được.
Giống như vậy, trong lănh vực tôn giáo, tín
ngưỡng đại chúng có tính chất khác
biệt với Phật giáo quí tộc, đă
được sinh ra.
Như đă nói ở chương trước,
quí tộc đă có tự giác rằng vinh hoa
hiện thế không phải là vinh hoa tuyệt
đối nên đă lần lần đi t́m
cứu độ cho đời sau. Để đáp
ứng yêu cầu đó, giáo nghĩa của
Tịnh độ giáo được đề xướng
ra, thuyết về “cực lạc văng sinh” (sau
khi chết sẽ được sinh ra ở
cực lạc tịnh thổ) và vào năm 985,
Ousei youshuu (往生要集)
(Văng sinh yếu tập) của Genshin (源信)
(Nguyên Tín) đă ra đời.
Cách dạy niệm phật trong Ousei youshuu là
cất những pḥng A mi đà đẹp đẽ,
trong đó quí tộc say sưa huyền hoặc
với cực lạc văng sinh. Những dạy
bảo nầy chỉ có thể áp dụng
được đối với quí tộc, nhưng
không có tính chất trở thành cứu độ
đối với dân chúng. Kẻ lo sinh kế
hằng ngày như dân chúng cần những
dạy bảo đơn giản hơn và
những bảo đảm cứu thế minh
bạch hơn. Trong dân gian, tín ngưỡng
của những người tu hành cấp
thấp, sống phá giới, nửa tăng
nửa tục, lớn tiếng đọc kinh Pháp
hoa, siêng năng niệm phật tối ngày,
những người được gọi là
hijiri (聖) (thánh)
hoặc shami (thầy
chùa trẻ) , lại là những tín ngưỡng
gần gũi với dân chúng.
Từ thời Heian, đề xướng tu
hành giản dị của Nichiren (日蓮)
(Nhật Liên) và Hounen (法然)
(Pháp Nhiên) đă tạo ra một bối cảnh
cho giáo lư mới trong đạo Phật dân gian.
Từ thời viện chính, nguy cơ của
xă hội quí tộc ngày càng trở nên sâu
sắc. Trong kinh điển Phật giáo có
thuyết mạt pháp cho rằng 2000 năm sau khi Thích
ca mất sẽ có thời “mạt pháp” ở
đó Vương pháp, Phật pháp bị diệt
vong. Đối với quí tộc đó là
những việc sắp xảy ra trước
mắt, điều nầy đă khiến cho tâm lư
bất an của quí tộc trở thành mănh
liệt hơn. Trong chiến loạn thời Hougen
(保元)
(Bảo Nguyên), Heiji (平治)
(B́nh Trị), Chishou (治承) (Trị Thừa), Kyouto đă là chỗ của binh mă,
trật tự xă hội tan nát rơ rệt ra, điều
nầy đă khiến cho mọi giai tầng trên dưới
trong xă hội yêu cầu những cứu độ
để thoát qua nguy cơ nầy.
Để đáp ứng với yêu cầu xă
hội nầy, người đưa ra tiếng nói
đầu tiên cho Phật giáo mới, là tăng
Hounen (Pháp Nhiên).
Hounen thuyết cách chuyên tu niệm Phật,
dạy rằng ở thời mạt pháp, không có
cách cứu độ nào khác, chỉ cần
niệm tên Amidabutsu (A di đà phật) th́ sẽ
được văng sinh. Và Hounen đă lập ra
một tôn phái mới gọi là Joudoshuu (浄土宗)
(Tịnh Thổ tôn). Đương nhiên Hounen
đă t́m cách cứu độ mọi ngườI
bằng hành vi niệm phật. Cần phải nói
rằng cây cờ của Phật giáo đại
chúng đă được giơ cao bằng cách
thuyết giáo rằng, Phật đă chỉ cách
tu hành, rằng niệm phật bằng miệng th́
ai cũng có thể văng sinh, bất kỳ người
đó là kẻ thấp hèn ngu xuẩn, không có dư
dă để học vấn, hoặc những
loại người bần cùng khốn khổ không
có tiền bạc để xây dựng chùa
chiền, lập tượng. Đó là hiện tượng
mới hoàn toàn không có trong Phật giáo quí
tộc. Dưới pháp môn của Hounen ngoài hoàng
tộc, quí tộc, từ những vũ sĩ như
Kumagai Naozane (熊谷直実), Utsunomiya Yoritsuna (宇都宮頼綱),
đến những người thấp hèn trong xă
hội như tên đạo tặc Takano no Shirou (交野四郎), hoặc du nữ rước khách ở pḥng, mọi
người ở mọi giai cấp trong xă
hội tụ tập, cũng là v́ cách dạy chuyên
tu, niệm phật đă phủ định
những khác biệt giai cấp, và đó là cách
cứu độ b́nh đẳng vạn dân.
Shinran (親鸞) (Thân Lăm), tăng xuất thân từ pháp môn Hounen,
đă vào nông thôn vùng Kantou (関東),
tiếp xúc với nông dân và vũ sĩ hạ
cấp sống ở nông thôn, kết nối sâu
xa với đại chúng hơn cả Hounen,
nhờ đó đă làm cho giáo nghĩa của
Joudoshuu thấm nhuần trong dân gian.
Giáo nghĩa và tín ngưỡng độc
đáo của Shinran đă được viết
trong sách “Gyougyou
shinshou” (教行信証)
(Giáo hành tín chứng) và trong ngữ lục
“Tanni shou” (歎異抄)
(Thán dị sao), sách chính của ông. Shinran cho
rằng con người từ bản chất là
“ác nhân” có đầy những tội ác không
thể khắc phục được, và
nguyện vọng của Phật là cứu độ
những ác nhân nầy. Cho nên văng sinh có
được nhờ tin ở Phật “Kongou” (金剛)
(Kim Cương), tuyệt đối nhờ
sức mạnh của người khác, hoàn toàn
hủy bỏ sức lực của ḿnh. Theo
Shinran, niệm phật không phải là cách tu hành
theo ư ḿnh mà là do Phật ban cho. Điều đó
đă khiến giáo nghĩa của Joudoshuu trở
thành sâu xa hơn, đi gần đến chổ
quét sạch được tính cách bùa phép
của niệm phật c̣n sót lại trong cách
niệm phật của Hounen.
Phát triển của Phật giáo từ Hounen
đến Shinran có nghĩa rằng, trong khoảng
thời gian lâu, Phật giáo Nhật Bản đă
đ́nh trệ ở tín ngưỡng hiện
thế, có tính cách bùa phép, lần đầu tiên
đă được nâng cao đến chỗ
cứu tế về mặt tinh thần. Từ trước
đến nay, Phật học chỉ là một môn
học có tính cách quan niệm trên bàn giấy
của các nhà tăng hiếu học, tách rời
với tín ngưỡng sống thực trong xă
hội, nay có được sinh mệnh hiện
thực với cơ sở có lư luận tín ngưỡng
mới. Nói ngược lại từ trước
đến nay Phật giáo Nhật Bản đă
bỏ những lư luận căn bản của
Phật giáo, để trở thành một tín ngưỡng
hiện thực có tính cách bùa phép giống như
tôn giáo dân tộc, hoặc để trở thành
giáo học trong nội bộ của giáo đoàn
bắt chước giáo học đại lục,
nay mới trở lại được lập trường
nguyên lai của Phật giáo, và đă trở thành
tín ngưỡng có tính cách Nhật Bản, để
trả lời những yêu cầu tôn giáo hiện
thực của người Nhật. Điều
trọng yếu là sau 700 năm từ khi Phật
giáo truyền đến Nhật, lần đầu
tiên một tư tưởng ngoại lai như
Phật giáo đă trở thành tư tưởng
của người Nhật.
Phật giáo như mọi người đă
biết, là tôn giáo do thái tử Tất Đạt
(Thích Ca) sáng
lập, đây là một tôn giáo có tính cách
thế giới, nhằm cứu độ toàn nhân
loại, vượt qua cả quyền lực
quốc gia. Từ trước đến nay,
Phật giáo của Nhật là tôn giáo để
trấn hộ quốc gia, là tôn giáo lấy quí
tộc làm chủ, không có tính cách vượt qua
quốc gia. Hounen và Shinran đă cắt đứt
tất cả những ràng buộc với
quyền lực quốc gia và chuyên tâm trong
việc cứu tế linh hồn dân chúng. Ư nghĩa
quan trọng nhất trong lịch sử của
“Tịnh độ tôn” là đă bắt đầu
tự giác rằng, giữ tự do tín ngưỡng
độc lập với quyền lực quốc
gia là điều quan trọng nhất của tôn
giáo. Những người nầy đă phê phán
sự thông đồng của giáo đoàn
Phật giáo cũ với quyền lực quốc
gia và điều đó đă là nguyên nhân
phải chịu đàn áp nhiều lần. Nhưng
họ không khuất phục trước đàn áp,
ngược lại Shinran đă ra ư phản đối
việc triều đ́nh đàn áp chuyên tu
niệm phật. Cần ghi lại một sự
thật nổi bật là việc chủ trương
tự do tín ngưỡng đối với
quyền lực quốc gia nầy.
Việc đề xướng chuyên tu
niệm phật đă gây ra chấn động mănh
liệt trong giới Phật giáo. Ngoài mặt,
giới Phật giáo cũ phê phán việc tu
niệm nầy, nhưng trong nội bộ đă
lần lượt có những người mong
muốn loại bỏ Phật giáo cũ bằng cách
học hỏi giấu diếm h́nh thái tín ngưỡng
giản dị nầy.
Tỉ dụ như tăng Kouben (高弁) (Cao Biền) của tôn phái Hoa nghiêm, người đă
viết sách Saijarin (Tồi tà luận) để công
kích Hounen, đă phát minh ra Sanjisanpourei (三時三宝礼)
(tam thời tam báo lễ) thuyết rằng chỉ
cần niệm Namusanpougoshou (南無三宝後生)
(nam mô tam bảo hậu sinh) tasukesasetamae (hăy
cứu độ) th́ sẽ được thành
Phật. Tăng Joukei (貞慶) (Trinh
Khánh) của tôn phái Pháp tướng, người
viết bản thượng tấu đ̣i đàn
áp Hounen cũng đă thuyết duy tâm niệm
phật. Nhưng người thúc đẩy
việc biến hóa Phật giáo cũ ra mới
một cách dứt khoát nhất là tăng Nichiren
(Nhật Liên) của tôn phái Pháp hoa (cũng
gọi là Nichirenshuu (Nhật Liên tôn)).
Nichiren đă thuyết rằng ở thời
mạt pháp không có cách cứu độ nào ngoài
kinh Pháp hoa, và chỉ cần niệm Namumyou
hourengekyou (Nam mô diệu pháp liên hoa kinh) cùng
với lời cầu th́ sẽ được thành
Phật. Namumyou hourengekyou rơ ràng là những
tiếng sinh ra từ Namuamidabutsu ( Nam mô a di đa
phật). Tôn phái Nichiren có nhiều yếu tố
của Phật giáo cũ, vẫn c̣n lối nghĩ
dùng đạo để trấn hộ quốc
gia và chính Nichiren đă thúc mạc phủ Kamakura
theo tín ngưỡng của tôn phái Pháp hoa,
nếu không th́ quốc gia sẽ bị diệt
vong. Nhưng điểm cần để ư là tôn
phái Pháp hoa chủ trương đặt tôn giáo
trên chính trị, đem quyền lực quốc
gia cống hiến cho tín ngưỡng Pháp hoa, khác
với Phật giáo cũ có thái độ lệ
thuộc cống hiến cho quyền lực
quốc gia. Theo Nichiren, cả triều đ́nh và
mạc phủ đều là thần hạ của
Phật, ở dưới Phật, và Nichiren đă
nói dứt khoát rằng nếu Nhật Bản không
có một tín ngưỡng đúng đắn, th́
quốc gia sẽ diệt vong. Nichiren đă không
khuất trước những đàn áp của
quyền lực. Điểm nầy giống
với những người đề xướng
chuyên tu niệm phật.
Đề xướng chuyên tu niệm
phật của Hounen đă gây ra nhiều phong trào
tư tưởng mới trong giới Phật giáo.
Khác với những chuyển biến trong giới
Phật giáo quốc nội, một tôn phái
mới “Thiền tôn” từ đại lục
bắt đầu truyền đến.
Nhật bản và nhà Tống rốt cuộc
đă không lập được bang giao, nhưng
nhờ những cố gắng khuếch đại
mậu dịch giữa Nhật và Tống của
Taira Kiyomori, thương nhân và tăng lữ đi
lại nhiều, một số tăng lữ
của Nhật đă đi Tống học
“thiền” và trở về Nhật. Năm 1191
(Kenkyuu: Kiện cữu năm thứ 2) Eisai (栄西)
(Vĩnh Tây) đă về nước truyền
lại Rinzaishuu (臨済宗)
(Lâm Tề tôn) .Tôn phái nầy sau đó trở thành
chủ lưu trong thiền tôn Nhật Bản, nhưng
Esai có một vài chỗ mang tính cách tăng
lữ “Mật giáo” nên khó nói ông ta hoàn toàn là
một thiền tăng. Năm 1227 (Antei: An trinh nguyên
niên) Dougen (道元) (Đạo
Nguyên) về nước mở Soutoushuu (曹洞宗)
(Tào Động tôn) cho rằng phải bỏ
dứt tất cả mọi việc thế gian,
chuyên tâm ngồi thiền, th́ mới giác ngộ
được. Ở đây tinh thần chính
thống của thiền tôn đă được
đem sang Nhật.
Tôn phong nghiêm khắc của Dougen, ở
một khía cạnh nào đó có cùng ư nghĩa
với Nichirensou, tôn phái chủ trương ngoài
Pháp hoa kinh không có con đường nào khác
để thành Phật, Joudosou cũng vậy,
đă thuyết rằng chỉ cần chuyên tu
một hàng chữ niệm phật trong kinh, không
cần đọc những hàng chữ khác. Vả
lại, những chỉ dạy của Dougen
mặc dầu đậm đà sắc thái
của tư tưởng di thực, thực hành
một cách trung thực thiền đạo
của Trung quốc, sách Shoupougenzou (正法眼蔵)
(Chính pháp nhản tạng) của Dougen đă
được viết bằng quốc văn,
một việc không thấy trong sách giáo lư
Phật giáo. Những suy nghĩ biện bạch
triết học trừu tượng được
diễn đạt bằng quốc văn, người
Nhật đă tư biện triết học qua
những suy tư độc lập của ḿnh.
Hounen, Shinran, Nichiren cũng đă viết nhiều
sách bằng quốc ngữ. Phật giáo mới
thời Kamakura đă Nhật Bản hóa những
diễn đạt tư tưởng. Dougen đă nghiêm khắc xa tránh những kết hợp dễ dăi với quyền lực quốc gia nên Soutoushuu đă không phát triển rộng lớn được. Nhưng thiền Rinzai đă được cả quí tộc và vũ sĩ hoan nghênh. Tướng quân Houjou Tokiyori (北条時頼) (thời Kamakura) đă mời tăng nhà Tống Rankei Douryuu (蘭渓道隆) (Lan Khê Đạo Long) lập ra Kenchouji (建長寺) (Kiện Trường tự), tướng quân Tokimune (時宗) mời tăng nhà Nguyên Mugaku Sogen (無学祖元) (Vô Học tổ nguyên) lập ra Engakuji (延覚寺) (Viên Giác tự) ở Kamakura. Số người nhà của mạc phủ Kamakura theo học về thiền, tăng lên.
Tượng
Kim Cương lực sĩ chùa
Toudai Tương Vô
Trước chùa Koufuke
Phật giáo mới thời Kamakura tôn
trọng tín ngưỡng về mặt tinh
thần, coi nhẹ những hành vi bề ngoài như
xây chùa, lập tượng nên không có ảnh hưởng
lớn đến mỹ thuật tạo h́nh.
Dẫu vậy thời nầy cũng đă sinh ra
được tranh cuốn lấy truyền kư
của Ippen (一遍)
(Nhất Biên), giáo tổ của phái Jishuu (時宗)
(Thời tôn), một phái trong Tịnh độ tôn,
làm chủ đề, cùng với những bức
tranh thiền tăng gọi là Chinsou (頂相) (Đỉnh Tướng).
Phật giáo mới đă làm cho tín ngưỡng
trở thành sâu xa hơn, v́ đă xuất phát
từ chỗ t́m cách khắc phục một cách
tích cực mâu thuẫn tuyệt đối có
trong căn bản về sự tồn tại
của con người qua cái nh́n hết sức
nghiêm khắc về hiện thực. Thái độ
nh́n hiện thực lơa lồ đó đă
hiện ra trong thế giới mỹ thuật
tạo h́nh. Về hội họa, tranh Nisee (似絵), vẽ h́nh người bằng cách tả thực cá
tính của người đó, đă được
sinh ra. Trong điêu khắc có Kongou Rikishi zou (金剛力士像)
(Kim Cương lực sĩ tượng) (h́nh 27)
ở cửa nam chùa Toudai, cùng với tượng
Mujaku (無著)
(Vô Trước) (h́nh 28) và Seshin (世親)
(Thế Thân) ở Koufukuji (興福寺) (Hưng Phúc tự) là những tác phẩm có tính cách
tả thực. Những tác phẩm nầy đều
là tác phẩm của Unkei (運慶)
(Vận Khánh), khắc gân, xương nổi
cộm của Kim Cương lực sĩ,
phản ánh ư khí cũa vũ sĩ, một
thế lực cai trị mới. Tượng Mujaku
và Seshin là những tả thực tuyệt
đĩnh trong lănh vực tượng hồn nhiên.
Những kiệt tác ở Toudaiji và Koufukuji nầy
phần nhiều đă được tạo ra
để chế lại những điêu khắc
thời Tenpyou, nhưng theo cách thức Kamakura, trong
sự nghiệp “phục hưng Nam đô”,
đă bị cháy trong chiến loạn Genpei
(cuộc chiến giữa ḍng Minamoto và ḍng Taira).
Điểm đáng chú ư là ở đây có
những trộn lộn giữa những yêu
cầu của thời đại và việc
kế thừa truyền thống.
Tăng Chougen (重源) (Trọng Nguyên) người giữ nhiệm vụ
phục hưng Toudaiji (Đông đại tự)
đă du nhập dạng thức “thiên vực”
từ Trung Quốc sang Nhật để tạo ra
cửa lớn phía nam Toudaiji, đây là một cách
thức có cách lấp ráp giản dị, thích
hợp với những kiến trúc to lớn, nhưng
v́ không được truyền bá rộng răi nên
dần dần biến mất. Đối lại,
cách thức kiến trúc những tự viện phái
Thiền tôn, gọi là Karayou (唐様)
(cách thức Đường)
đă được phát triển rộng răi
ở Nhật cùng với sự phát triển
của phái nầy. (cách thức “thiên dực”
hay “cách thức Đường” đều là
những cách thức kiến trúc của Trung
Quốc, không phải là tiếng để phân
biệt cách thức Ấn Độ hoặc Trung
Quốc). Không màu sắc, không trang trí, pḥng đất
không sàn cây, đó là đặc sắc của cách
thức Đường. Điện xá lợi
của Enkakuji (延覚寺)
(Viên giác tự) là di tích truyền lại h́nh dáng
của cách thức Đường thời Kamakura
(h́nh 29). Điện Xá Lợi ở chùa Enkaku
NHỮNG
TRỨ TÁC LƯ LUẬN XUẤT HIỆN
Như Nakae Choumin (中江兆民)
(xem chú thích) đă
nói từ trước rằng “Nước
Nhật ta từ xưa đến nay, không có
một triết học”. Câu nói nầy có đúng
không là một chuyện riêng, có điều là không
thể phủ định được rằng
so với tài năng trác tuyệt về mỹ
thuật và nghệ thuật, người Nhật
đă không có những suy tư lư luận tương
ứng. Ở điểm nầy Phật giáo
mới thời Kamakura là di sản tinh thần có
giá trị rất cao được kể trong
số những sáng chế tối cao trong lịch
sử tư tưởng của nhân loại, không
kém ǵ với tư tưởng triết học
của Tây phương hoặc Trung Quốc.
Phải coi đây là những thành tích lư luận
hiếm có trong văn hóa của người
Nhật, một văn hóa không có sở trường
trong những suy tư trừu tượng. Nhưng
cần phải biết rằng đây không
phải là một hiện tượng đột
nhiên biến hóa chỉ thấy trong Phật giáo
mới, lúc nầy trong lịch sử văn hóa
Nhật, những dọ dẫm về suy tư lư
luận đă hiện ra ở mọi mặt.
Điều thứ nhất là ca luận.
Từ thời đại trước đă có
những bài giống như là lư luận về
kỹ thuật và bản chất của những
bài ca, được viết ra nhiều, tỉ
dụ như Koraifuutaishou (古来風体抄) (Cổ lai phong thể sao) của Fujiwara Shunsei (藤原竣成), Maigetsushou (毎月抄)
(Mỗi nguyệt sao), Eikataikai (詠歌大概)
(Vịnh ca đại khái) của Fujiwara Teika (藤原定家)
v.v...Tuy có nghi vấn là, về nghệ thuật
luận có lẽ những sách nầy chẳng có
giá trị bao nhiêu, nhưng ở bên trong, một
khái niệm về Yuugen (幽玄)
(Yêu huyền), một nguyên lư mỹ thuật
độc đáo của Nhật bản đă
được tạo ra. Ca luận đă làm tṛn
được vai tṛ lịch sử của ḿnh.
Điều thứ nh́ là sử luận.
Từ thời xưa, tất cả những sách
sử chỉ chuyên kư thuật sự thật
lịch sử. Chỉ trong sách Taikyou (大鏡)
(Đại gương) có đôi chút ư thức
phê phán. Đến đây lần đầu tiên
có những sách lư luận dựa trên lập trường
tư tưởng, phê phán lịch sử. Năm
1220 (Shoukyuu năm thứ 2), Jien (慈円)
(Từ Viên) đă viết ra sách Gukanshou (愚管抄)
(Ngu Quản sao) t́m cách giải thích tính cách
lịch sử về sự xuất hiện
tất nhiên của thể chế chính trị vũ
gia, bằng cách dùng suy luận của giáo học
Phật giáo. Năm 1339 (Engen năm thứ 4)
Kitabatake Chikafusa (北畠親房)
đă viết sách Jinnoushoutouki (神皇正統記)
(Thần hoàng chính thống kư) t́m cách chứng
minh thiên hoàng Nam triều là thiên hoàng chính
thống. Ở điểm nầy, kẻ viết
sử đă tiến được một bước,
ngoài việc viết lịch sử bằng cách
xếp hàng những sự kiện lịch sử,
ra việc viết sử có khuynh hướng
triết lư. Trong 2 sách nầy, sử thực đă
được viết theo chủ trương chính
trị của tác giả, tuy không nhất
thiết đă có một bối cảnh tư tưởng
sâu xa. Nhưng việc lư luận hóa lịch
sử ở thời đại nầy là việc
vượt xu thế.
Điều thứ 3 là luận lư hóa tôn giáo
dân tộc. Như đă nói ở phần trước,
tôn giáo dân tộc không có giáo nghĩa cũng không
có kinh điển mà chỉ là những nghi lễ
có tính cách bùa phép. Nhưng vào khoảng cuối
thế kỷ 13 những thần quan ở Isegekuu (伊勢外宮)
( Y thế ngoại cung) (cung
ngoài của đ́nh Ise) đă viết kinh điển
giả gọi là Shintougobusho (神道五部書) (Thần đạo ngũ bộ thư) và lập ra
Iseshintou (伊勢神道) (Y thế thần đạo) và đây là lần đầu
tiên tôn giáo dân tộc có giáo nghĩa và kinh điển.
Vào thế kỷ 15, những thần quan ở
đ́nh Yoshida (吉田) (Kyouto) lập ra Yuiitsushintou (唯一神道)
(Duy nhất thần đạo) dẫn đến
việc sinh ra Jukashintou (儒家神道) (Nho gia thần đạo) của những học
giả Nho giáo thời Edo. Giáo nghĩa thần
đạo loại nầy không có liên quan ǵ đến
tín ngưỡng thần đạo hiện
thực của dân chúng, đây chỉ là
những tráo đổi quan niệm để nâng
cao quyền uy của chức tước thần
quan. Giáo nghĩa ở đây đă gượng
gạo bày ra cho vật không có giáo nghĩa, nên
nội dung chỉ là những lấp vá hoang
đường gom gốp từ giáo nghĩa
của Phật giáo, Đạo giáo cộng
với những chuyện truyền khẩu từ
Nhật Bản thư kỷ, và Cổ sự kư.
Dẫu rằng đây chỉ là suy tưởng
vẩn vơ t́m cách tạo ra giáo nghĩa cho tôn
giáo dân tộc, nhưng nó đă cho chúng ta
thấy không khí của thời đại
nầy, một không khí không thoả măn với
những kư thuật chỉ nói sự thật.
Điều thứ 4 là những tùy bút văn
nghệ có suy tư triết học, và đây chính
là những tài sản văn hóa ưu tú. Houjouki (方丈記)
(Phương trượng kư) do Kamo no Choumei (鴨長明)
viết vào năm 1212 (Kenrỵaku năm thứ 2)
và Tsurezuregusa (徒然草)
(Đồ Nhiên Thảo) do Yoshida Kenkou (吉田兼好)
viết vào khoảng 1330 (Gentoku năm thứ 2) là
những tùy bút đó.
Tùy bút là một biến h́nh của văn
nghệ nhật kư thời đại trước,
theo cách thức của Makura no soushi (tùy bút thời Heian do Seishounagon viết). Makura no
soushi đă không vượt qua được
việc kư thuật những ấn tượng có
tính cách cảm giác. Ngược lại 2 sách nói
trên từ đầu đến cuối đầy
những suy tư về nhân sinh và thế
giới, biểu hiện rơ rệt tính cách
của thời đại nầy. Nh́n hiện
thực bi đát thiên biến địa di trong
thời kỳ xă hội quí tộc đổ
vỡ, Houjouki đă có một thái độ tiêu
cực, t́m một an định trong ḷng bằng
cách lẩn trốn trong mái nhà tranh núi Hino (日野)
(Nhật Dă). Ngược lại Tsurezuregusa đă
có một thái độ tích cực khẳng định
những mâu thuẫn của nhân sinh, thế
giới, không những chỉ t́m an định và
vẻ đẹp mới trong đó, mà thêm
một bước là không từ chối ủng
hộ sự tích lũy tài sản kinh tế.
Sự khác biệt nầy là dấu tích trưởng
thành mạnh mẽ của giai cấp mới, giai
cấp phong kiến mới thành h́nh, trong suốt
thời gian gần 120 năm. Cả hai, tuy suy nghĩ
không được triệt để lắm, nhưng
không phải là lư luận mượn từ
chỗ khác như giáo nghĩa thần đạo,
mà là một diễn đạt thế giới
quan, nhân sinh quan từ những phản tỉnh
về đời sống hiện thực của
Nhật Bản. Điều nầy cho thấy
sự trưởng thành của sức suy tư
của người Nhật, với một ư nghĩa
khác với Phật giáo mới.
Sau cùng là sự truyền bá Chu Tử
học, một triết học Nho giáo mới
thời Tống. Từ sau thời đại
luật lệnh, mặc dầu Nho giáo được
coi là một môn học công cộng của giai
cấp cai trị, nhưng đó chỉ là ngành
học giải thích văn tự, một cách
học kiểu giải thích của Trung Quốc
thời Đường, Hán, nên không được
ưa thích lắm. Ngược lại những sách
cổ điển về văn nghệ như
“Sử kư”, “Văn tuyển” được
đọc rộng răi hơn.
Thời Tống, ở Trung quốc những lư
luận triết lư chịu ảnh hưởng
của đạo Phật được phát
triển, và trở thành lớn lao trong “Chu
Tử học”. Thế kỷ 14 Chu Tử học
được truyền sang Nhật. Ở
thiền “Lâm tề”, thiền lưu hành
thời nầy, chủ trương Nho, Phật,
Đạo hợp nhất được xướng
ra, và Chu Tử học đă được các
thiền tăng nghiên cứu trước nhất,
coi đây là một phần của văn hóa
thiền tôn. Thời nầy, Chu Tử học không
thấm sâu rộng răi vào xă hội và đă không
đi được đến chỗ đưa
ra một lư luận đạo đức mới
đến ngườI Nhật. Thời sau, khi xă
hội phong kiến bước sang thời kỳ
hoàn thành, Chu Tử học đă là căn nguyên xây
cất một địa vị thống trị
cho đạo đức Nho giáo. TRUYỀN
THỐNG CỦA VĂN HÓA QUÍ TỘC
Sau khi mạc phủ Kamakura được thành
lập, vũ sĩ đă lấy được
địa vị cai trị trong xă hội, nhưng
quyền lực của triều đ́nh ở
Kyouto vẫn tiếp tục, và truyền thống
văn hóa của quí tộc không bị mất.
Tỉ dụ những ca nhân như Fujiwara Sadaie (藤原定家),
trong những chiến loạn từ thời Chishou
(Trị Thừa) đă quay lưng với những
việc không quan hệ đến ḿnh, đặt
ḿnh trong thế giới “ḥa ca”, mặc kệ
những hỗn loạn hiện thực, sáng
tạo ra cái đẹp huyền hoặc, trong
đó quên tất cả những bất an,
khổ năo. Kamo no Choumei (ca nhân thời Kamakura
tiền kỳ) nh́n những xao động
hiện thực, nhưng lại ẩn ḿnh trong núi
để t́m sự an tâm. Hounen và Shinran đă có
những dũng khí không lùi bước, dấn thân
vào những khổ năo của nhân sinh để t́m
cứu độ với một chân lư tưởng
chừng như là đối ngược với
chân lư đă có. Khác với 2 cách nghĩ trên, nhóm
Sadaie vừa sống trong bụi đời đô
thị, vừa bám vào những quyền uy
xuống dốc dần dần của quí tộc,
đă t́m huyết lộ trong một thế
giới quan niệm của thơ ca, tạo ra
một vẽ đẹp u huyền sâu xa trong
suốt, đại biểu bằng tập thơ
ca “Shinkokon wakashuu” (Tân cổ kim ḥa ca tập).
Miêu tả về tự nhiên của
“Shinkokon” không phải là những tả
thực về vẽ đẹp tự nhiên
của hiện thực, mà là một sản
vật của quan niệm không có thực thể,
được tạo ra một cách nhân tạo
bằng cách dùng những tư tưởng hăo
huyền bóng bẩy của ngôn ngữ. Ở
đây tinh thần tự phụ đầy ưu
sầu của giai cấp xế chiều không
thể quên được vinh hoa của quá
khứ đă được diễn tả rơ
rệt. Những bài thơ ca theo cách Shinkokon
hết sức tinh diệu về mặt kỹ
thuật, hơn hẳn những bài ca theo cách
“Cổ kim”, những bài ca chạy theo những
kỹ thuật có tính cách nửa chừng, chưa
hoàn hảo, Shinkokon đă là một đỉnh
cao trong lịch sử thơ ca Nhật Bản
với một ư nghĩa khác với tập
“Manyou”.
Nhưng, với một giai cấp lần
lần suy thoái, văn hóa khó mà tiến lên trên
con đường phát triển lành mạnh. Sau
Shinkokon, ḥa ca lần lần mất đi sức sáng
tạo, những bí truyền không có nội dung
được tôn trọng, ḥa ca đă đặt
ḿnh trong những tranh dành tôn phái khó coi, lộ
tẩy những bịnh t́nh của thời
mạt kỳ.
Liên ca, một biến thể của ḥa ca và
một phái trong liên ca gọi là “Haikai” (俳諧) (loại thơ châm biếm, đùa cợt) đă
lần lần chiếm được địa
vị chủ lưu trong giới âm văn. Mặc
dầu vậy, truyền thống của ḥa ca
đă không bị mất hẳn, và vào cuối
thời Edo, những tác giả như Ryoukan (良寛) (Lương Khoan), Oukuma Makotomichi (大熊言道)
đă cho ra đời những bài ca tươi
trẻ, và vào thờI Minh Trị, nhờ phái
Myoujou (明星),
và phái Araragi (アララギ) ḥa ca đă được phục hồi trong
giới văn nghệ. Điều nầy tốt
hay xấu không thành vấn đề, điều
đáng để ư là trong văn hóa Nhật
Bản, truyền thống có rễ rất sâu.
Về chính trị, đặc biệt về
quân sự, dù giai cấp vũ sĩ đă áp
đảo được quí tộc công gia, nhưng
đă phải qú phục trước văn hóa
quí tộc. Ḍng Fujiwara ở Mutsu (陸奥) (đông bắc Nhật Bản) đă đưa văn
hóa ở Kyouto đến Hiraizumi (平泉)
và đă xây cất Chuusonji (中尊寺) (Trung Tôn tự) và Muryoukouin (無量光院)
(Vô Lượng Quang viện). Mạc phủ
Kamakura cũng vậy, những tướng quân sau
Yoritomo và những ngườI cầm quyền
đă mời những thi nhân, họa sĩ,
phật sĩ (người
đúc hoặc điêu khắc tượng
phật) từ Kyouto đến, ra sức du
nhập những văn hóa quí tộc đến
xứ miền Đông. Một tỉ dụ như
Minamoto no Sanetomo được
Fujiwara no Teika tặng cho tập Manyou, và nhờ
đó đă trở thành thi nhân kiểu Manyou
(Vạn diệp). Mạc phủ Kamakura một
mặt tôn trọng nề nếp sinh hoạt đặc
biệt của vũ sĩ, củng cố đạo
đức độc đáo của vũ sĩ,
nỗ lực trong việc thúc đẩy sự trưởng
thành của trật tự phong kiến, mặt khác
đă hết sức nhiệt tâm trong việc
hấp thụ văn hóa quí tộc. Những người
có tác phẩm đăng trong Chokusen wakashuu (Tuyển tập thơ ca của thiên hoàng) riêng ḍng
Houjou (北条),
ḍng họ giữ thực quyền trong chế
độ mạc phủ Kamakura, ít nhất cũng
có trên 50 người. Đó là chứng cớ cho
thấy vũ sĩ đă hết sức hâm
mộ văn hóa quí tộc.
Houjou Sanetoki đă lập văn khố ở
Kanesawa xứ Musashi (vùng Kantou ngày nay), ra sức thu
thập những cổ điển, và đă
truyền lại cho Kanazawa Shoumyouji (金沢称名寺)
(Kim Trạch Xứng Danh tự) ngày nay. Sách sao chép
cổ điển với ấn chứng Kanabunko (Văn
khố kana) vẫn c̣n lại và nhờ
những nỗ lực đó, vũ gia đă thay
thế được quí tộc công gia, lúc
bấy giờ đang trên đường diệt
vong, giữ địa vị đảm
đương việc bảo tồn văn hóa
cổ điển. Đây là một tỉ dụ
thực tế cho thấy văn hóa tuy không
thể tránh khỏi những tính cách của giai
cấp đảm nhiệm, đă có thể
được nối truyền đến một
giai cấp khác. THỂ
CHẾ TRANG VIÊN BỊ GIẢI TÁN VÀ THẾ
LỰC XƯA CŨ DIỆT VONG
Shugo (Thủ hộ) và Jitou (Địa đầu)
đă lần lần ăn ṃn chính trị công gia
cùng với trang viên, đào đổ dần
địa vị của quí tộc, những người
c̣n muốn giữ chỗ bám ở Kyouto. Loạn
Joukyuu (Thừa Cữu) do thượng hoàng Gotoba (後鳥羽)
gây ra bằng quân sự để t́m cách hồi
phục thế lực của phía Kyouto đă
bị thất bại. Thiên hoàng Godaigo (後醍醐)
một lần nữa đă lập kế
hoạch gây loạn và đă diệt được
Mạc phủ Kamakura, và chính trị “Trung hưng
Kiến Vũ” đă được thi hành vào năm
1334 (Kenmu (Kiến Vũ) nguyên niên). Nhưng trên
thực tế việc phục hồi chính trị
công gia đă không thành công v́ đă không
chận đứng được sự trưởng
thành của xă hội phong kiến đang diễn
hành một cách bất khả nghịch. Vũ sĩ
đă ly phản chính phủ Trung hưng, làm đổ
vỡ chính trị công vũ nhất thống (công gia và vũ sĩ là một). Vào thời
chiến loạn Nam Bắc triều[8],
những thế lực ở địa phương
đă lợi dụng hỗn loạn, cùng nhau bành
trướng thế lực của ḿnh. Cơ
cấu xă hội xưa cũ đă bắt đầu
đổ vỡ một cách hoàn toàn.
Sự biến chuyển từ xă hội xưa
cũ sang xă hội phong kiến đă là kết
quả của sự tiến bộ không ngừng
của sức sản xuất trong đáy sâu
lịch sử, kéo dài từ thế kỷ 13 đến
thế kỷ 15. Cùng với sự tiến bộ
của kỹ thuật canh nông như đă làm
phổ cập những nông cụ bằng sắt,
dùng ngựa ḅ để cày đất, dùng
rọ quay nước để dẫn nước
vào ruộng, đă làm cho thu hoạch tăng lên,
làm cho ruộng sản xuất
được 2 mùa, sinh hoạt của nông
dân tương đối tốt ra, và để
trao đổi hàng hóa với nhau, hoạt động
buôn bán đă làm thương măi của thương
nhân đến chỗ đáng chú ư. Kinh tế hàng
hóa đă mở những chợ định
kỳ ở mọi nơi, làm đổ vỡ
bức tường tự cung tự cấp có tính
cách bế tỏa của nền kinh tế trang viên,
và khu kinh tế đă trở nên rộng răi bao
gồm nhiều khu vực. Việc du nhập
tiền đúc của Tống, Nguyên, Minh qua
mậu dịch đă xúc tiến việc mở
rộng nền kinh tế hàng hóa.
Cùng với đà tiến triển của
lịch sử, thế lực của dân chúng ngày
càng mạnh ra, và việc thay cũ đổi
mới giữa các thế lực, được
biết với tiếng “Gekokujou” (下克上)
(hạ khắc thượng) đă được
diễn ra đại quy mô. Thế lực của
vũ sĩ đă trở thành hết sức
mạnh mẽ khi đánh bại “Trung hưng
Kiến Vũ”. Mạc phủ ḍng Ashikaga (足利) đă hết sức khôn khéo lợi dụng bất măn
của vũ sĩ, phá vỡ chính trị công vũ
nhất thống, nhưng cũng không thể
lập ra một chính quyền trung ương
mạnh mẽ được. Đối với
quí tộc công gia, địa vị của
mạc phủ có ưu thế hết sức
lớn lao, nhưng mạc phủ Muromachi (室町)
(mạc phủ ḍng
Ashikaga) cũng chỉ là ḍng lănh đạo chính
quyền liên hợp, những vũ tướng có
danh đă biến ra thành Shugo daimyou (守護大名) (Thủ hộ Đại danh : lănh
chúa địa phương) cai trị những
vũ sĩ ở địa phương. Mạc
phủ đă phải đem hết sức của
ḿnh để trấn áp những phản loạn
liên tiếp do Shugo daimyou gây ra.
Sau loạn Ounin (応仁)[9]
(Ứng Nhân) bắt đầu từ năm 1467
(Ounin nguyên niên), cả quốc gia bước vào
thời chiến quốc, uy lịnh của mạc
phủ mất đi. Các lănh chúa đă lấy khu
vực kinh tế rộng răi của ḿnh làm bàn
đạp, lập ra xă hội phong kiến,
trực tiếp nắm giữ nhân dân và đất
đai, quét sạch hoàn toàn những tàn tích
của thể chế trang viên, tạo ra xứ
của lănh chúa có chính trị xă hội độc
lập. Điều không thể quên được
là phần lớn những lănh chúa thời
chiến quốc, những lănh chúa phong kiến,
đă là những người xuất thân từ
thổ hào, qua nhiều năm loạn lạc,
họ đă đánh đổ những Shugo daimyou
cũ của những gia thế có từ thời
cổ, để trở thành một giai cấp
cai trị mới. Về mặt thể chế,
những tàng tích của của xă hội cũ xưa
bị quét sạch, về nhân sự cũng đă
có sự thay đổi trên dưới hết
sức rộng răi, sự đối lập
nhị nguyên (công gia và vũ gia) cuối cùng do
sức mạnh từ dưới lên, đă đến
lúc biến thành nhất nguyên đưa đến
việc hoàn thành trật tự phong kiến.
Sự tiến hành của việc thay cũ
đổI mới không nhất thiết chỉ do
một số nhỏ luồn lộn trong hàng ngũ
giai cấp cai trị để ngóc lên, trong
bối cảnh của nó, có sự trưởng
thành xă hội không thể coi thường
được của nhân dân đại chúng.
Những nông dân bị phân tán ra từng myou (名)
(danh) trong trang viên, đă lấy làng xă, những
xóm tự nhiên ở từng khu vực, làm trung tâm
để đoàn kết. Dân làng đă tuyển
Otona (長)
(trưởng), Toshiyori (年寄) (người lớn tuổi) làm đại biểu,
lập ra những quy ước tự trị
gọi là Jigeokite (地下掟)
(Địa hạ định), Gookime (郷置目)
(Hương tŕ mục), t́m cách điều hành
thôn chính một cách tự trị. Dân chúng không
chỉ đối kháng một cách tiêu cực
đối với những chịu đựng
nặng nệ từ trên bắt buộc, mà đă
đề kháng một cách tích cực qua hành vi
Doikki (土一揆)
(hành vi biểu t́nh
phản loạn), những hành vi nầy có
hiệu quả xúc tiến sự suy vong của
giai cấp cai trị, nay đương trên con
đường tan nát.
Giai cấp cai trị mới đă quét
sạch những di chế của xă hội cũ
xưa, lập ra được những xứ
của lănh chúa, cũng là nhờ có sự trưởng
thành của dân chúng nâng đỡ. Khi trật
tự phong kiến hoàn thành, giai cấp cai trị
mới đă dùng cường quyền đối
chọi với dân chúng và dân chúng đă một
lần nữa bị nô thuộc gắt gao. Nhưng
sự tiến triển từ xă hội cũ xưa
sang xă hội phong kiến chỉ có thể
xảy ra được là nhờ ở sự trưởng
thành có tính cách lịch sử của đại
chúng nhân dân. Sự thật nầy đă cho
thấy rơ rệt đường lối phát
triển căn bản của lịch sử.
Sự hoàn thành của xă hội phong
kiến, đánh dấu sự chấm dứt di
chế hôn nhân thăm vợ, một chế độ
nguyên thủy c̣n sót lại lâu dài trong sinh
hoạt gia đ́nh.
Quá tŕnh thay đổi hôn nhân từ “thăm
vợ” đến “làm dâu” chưa được
giải đáp rơ ràng cụ thể nên không
thể tŕnh bày tường tận được,
ít nhất ở gia đ́nh vũ sĩ việc
vợ sống chung với chồng ở nhà
chồng tương đối xảy ra rất
sớm, điều nầy có nghĩa là đă có
hôn nhân “làm dâu” từ lúc nầy. Ban đầu,
dù là ở trong gia đ́nh vũ sĩ đi
nữa, phụ nữ vẫn được
tiếp tục thừa kế tài sản, có
quyền nhận những phân phối về lănh
địa, có trường hợp được
bổ làm Jitou (Địa đầu). Nhưng v́
không thể buộc phụ nữ giữ nhiệm
vụ ở chiến trường nên việc phân
phối lănh địa cho phụ nữ sinh ra
bất lợi. Cùng lúc đó chế độ
thừa kế phân phối đang được
đổi sang chế độ thừa kế
đơn độc, chỉ có một nam tử
được độc quyền thừa kế
lănh địa, đă làm cho phụ nữ hoàn toàn
rơi vào trạng thái mất tất cả
quyền lợi. Ở đây một quan hệ
bất b́nh đẳng, trọng nam khinh nữ
đă có điều kiện nẩy nở ra trong
lịch sử.
Vợ của vũ sĩ ở chung với
chồng theo hôn nhân “làm dâu”, bắt đầu
có tự giác là người nội trợ
giữ ǵn nhà chồng, với quan niệm trinh
thục cứng cỏi. Đó là tiến bộ không
thấy trong phụ nữ quí tộc. Đồng
thời đây cũng là sự bắt đầu
của một quan hệ đơn phương,
bắt phụ nữ giữ trinh tiết một
chiều.Trong một thời gian khá dài phụ
nữ đă có một địa vị cao trong xă
hội, bây giờ địa vị đó bị
mất đi. Một cách tổng quát, xă hội
phong kiến, đáng lẽ ra đây là một
thắng lợi của giai cấp hạ tầng,
nhưng nhân dân đă bị giai cấp cai trị
bốc lột theo cách thức phong kiến nghiêm
khắc. Phát triển lịch sử đă sinh ra
một mâu thuẫn mới. VĂN
HÓA “HẠ KHẮC THƯỢNG”
Sự tiến hành “hạ khắc thượng”
đă gây ra việc thay cũ đổi mới
trong thế lực xă hội. Về mặt văn
hóa, sự đổ vỡ của văn hóa quí
tộc và sự thăng tiến của văn hóa
dân chúng đă đi đến chỗ quyết
định. Văn hóa quí tộc được tôn
trọng là cổ điển, đóng vai tṛ cung
cấp tài liệu cho sự sáng tạo văn hóa
mới, nhưng văn hóa quí tộc tự nó
đă không khai triển trong nội bộ
được nữa. Những sáng tác mô
phỏng cổ tích kiểu vương triều,
lấy “Genji monogatari” làm gương, đă
dừng lại, những khai triển mới
của “ḥa ca”, những biên tập tuyển thơ
của thiên hoàng cũng chấm dứt, những
truyền thụ cổ kim, những bí truyền vô
nghĩa chỉ c̣n sót lại đôi chút trong
truyền thống “ca đạo”. Kỹ
thuật của Yamatoe bị thoái hóa nhiều, và
đă chấm dứt ở tay vẽ Tosa Mitsunobu (土佐光信), nhường địa vị chủ lưu của
tranh Nhật Bản cho phái Kanou (狩野)
và tranh Suiboku (水墨) (mực nước).Tượng
phật cũng không có những điêu khắc nào
đáng để ư (tuy nhiên điều nầy do
ảnh hưởng hóa tục của đạo
Phật rất nhiều). Những hệ văn hóa
quí tộc có từ xưa đă mất đi
sức sống, theo cùng với địa vị
đang trên đà xuống dốc trong xă hội
của quí tộc.
Điều nầy cho thấy, tương
ứng với những thay đổi trong thế
lực xă hội, văn hóa cũng đă có
những thay cũ đổi mới đại qui
mô.
“Renga” (連歌) (Liên ca) bắt nguồn từ chỗ chia ḥa ca ra cho
hai người đọc với h́nh thức
vấn đáp, từ xưa đă có và được
coi như là một biến h́nh của ḥa ca, nhưng
từ khoảng thế kỷ 14, renga lan rộng ra
trong hàng ngũ vũ sĩ địa phương,
thần quan, và tăng lữ. Renga lưu hành trong
giới quí tộc được gọi là
“Doujou renga” (堂上連歌)
(Đường Thượng liên ca), đối
lại renga lưu hành trong dân gian được
gọi là “Jige renga” (地下連歌)
(Địa Hạ liên ca). Jige renga, qua những nghiên
cứu cổ điển xưa, đă đem
được những cảm giác về vẻ
đẹp hết sức điêu luyện của
văn nghệ quí tộc vào, nhờ đó renga
đă tiến triển được đến
hàng nghệ thuật, và đến thế kỷ
15 “Sougi” (宗祇)
(ca nhân thời nầy)
đă đưa renga đến lănh vực hoàn thành.
Tập “Shinsen Tsukubashuu” (新選兎玖波集)
(Tân soạn Thỏ cửu ba tập) được
biên tập vào năm 1495, đủ để cho
biết renga ở thời kỳ hoàn thành. Renga vào
thời nầy đă thừa kế và phát
triển quan niệm u huyền trong “Shinkokon shuu”
(新古今集) tạo ra một vẻ đẹp nhân tạo huyền
hoặc, và đă thành công trong việc tạo ra
một lănh vực nghệ thuật độc
đáo, trong đó những người tham gia
hội hợp đă đối ứng với nhau
một cách tinh tế để làm ra những bài
ca miêu tả những h́nh dáng của nhân sinh,
những cảnh tự nhiên với một cách nh́n
khách quan, thấu triệt, quét sạch chủ nghĩa
cảm thương mà ḥa ca không làm được.
Từ quan điểm nghệ thuật hiện
đại, coi trọng sáng tác cá nhân một cách
cực độ, h́nh thái nói trên rất khó
hiểu, cho nên có thể nói đây là một
sản vật văn hóa phát huy đặc tính
của thời đại nầy. Hơn nữa
Sougi đă kinh nghiệm rộng răi nhiều nơi
trong nước đi từ “Đông quốc
đến Kyuushuu”, điều nầy có nghĩa
rằng renga đă được nhiều người
trong toàn quốc ủng hộ, sáng tác và hưởng
thụ. Việc trưởng thành về mặt
nghệ thuật của renga phải được
coi là một hiện tượng nói lên sự tăng
trưởng của nghệ thuật nhân gian mà vũ
sĩ là trung tâm.
Điều nầy cũng có thể nói
được đối với “Sarugaku nou” (猿楽能)
(nhạc múa rối).
Sarugaku là những nhảy múa hề hài hoặc
những biểu diễn tài t́nh cho mọi người
xem, phân biệt với “gagaku” (雅楽) (Nhă nhạc), tiếng dùng để chỉ loại âm
nhạc ca vũ được truyền từ
đại lục qua, diễn tấu ở cung
đ́nh, hoặc là những nhạc của đại
lục đă được Nhật Bản hóa
(thật ra nhạc truyền từ đại
lục qua phần lớn không phải là Nhă
nhạc của đại lục mà là nhạc
của dân gian, nhưng ở Nhật đây là
nhạc của quí tộc nên được
gọi là Nhă nhạc để phân biệt
với nhạc của dân gian). “Sarugaku” do
những người dân thấp hèn, gọi là
“Sarugaku Houshi” (猿楽法師)
(Thầy pháp sarugaku)
diễn ra trong lúc làm lễ tôn giáo, tỉ dụ
như cúng tế ở chùa hoặc tế lễ
ở đ́nh. Ca múa dân gian nầy, vào thế
kỷ thư 13 đă bắt đầu có
những cấu tứ diễn kịch và đă phát
triển ra thành Sarugaku “nou” (能).
Vào thế kỷ 14, thời tướng quân
Ashikaga Yoshimitsu (足利義満),
2 diễn viên cha con Kan Ami (観阿弥
và Ze Ami (世阿弥)
đă đưa “Nou” (能)
(xem chú thích) lên hàng
nghệ thuật .
Kan Ami và Ze Ami vừa là diễn viên vừa là
nhạc sĩ, tác giả của những ca khúc,
bản kịch và đă để lại
nhiều công tích. Ze Ami là một thiên tài về
mặt nầy, ông đă viết “Fuushikaden” (風姿花伝) (Phong tư hoa truyền) luận về diễn Nou
với một kiến thức độc đáo.
Những người nầy đă được
giai cấp cai trị yêu chuộng, họ đă ḥa
“Dengakunou” (田楽能)
(nhạc nou ruộng)
vào với diễn nghệ dân gian, Sarugakunou, và
đă thành công trong việc nâng cao Nou lên thành văn
hóa dân tộc, được mọi giai cấp,
từ dân gian đến giai cấp cai trị thưởng
thức.
Sarugakunou (ngày nay được gọi là
Nougaku) có tính cách văn hóa đại chúng, và
diễn khúc “Okina (Ông)” (翁), một diễn khúc chiếm một địa vị
đặc biệt, đă chứng minh điều
đó. Okina được sinh ra từ bùa phép
của nghi lễ canh nông chúc mừng lúc trúng mùa,
và mặt nạ Nou giống với mặt quỉ
dùng trong những cúng tế bùa phép trong dân gian.
Vả lại ở thời Kan Ami, Nou có tính cách
đại chúng rất phong phú. Tác phẩm “Jinen
koji” (自然居士)
(Tự Nhiên cư sĩ) do Kan Ami sáng tác và thường
diễn, đă lấy nhân vật có thật, quen
thuộc với dân chúng làm mẫu. Diễn khúc
Nou có nhiều khúc lấy đề tài từ
cổ điển, nhưng trong đó cũng có
nhiều khúc lấy đề tài từ chuyện
thế gian đương thời, tỉ dụ như
khúc “Sumidakawa (隅田川)
(sông Sumida)” đă
nói lên nỗi đau khổ của bà mẹ
bị những tay buôn bán người, cướp
con.
Nhưng đến thời Ze Ami, những tác
phẩm lấy đề tài từ cổ điển
nhiều ra. Những
tác phẩm
nầy ngoài đặc sắc phóng khoáng kiểu
Kan Ami, lại có thêm tính cách điêu luyện, mài
dũa với phong cách trang nhă. Tỉ dụ như
Nou “Izutsu (井筒)
(Tỉnh Đồng)” đă biểu hiện
được tấm ḷng của một phụ
nữ nhớ thương người t́nh trong
quan cảnh tĩnh mịch của một ngôi chùa
cũ, hoặc Nou “Kin-ta (砧)
(Châm)” đă viết ra một bài thơ bi
kịch của một người vợ chết
trong đau thương trách móc việc chồng
biệt ly với ḿnh, hoặc Nou “Kiyo Tsune (清経) (Thanh
Kinh)” đă
vẽ ra nỗi khổ ải của một tướng
bại trận tự sát, phản bội lời
hứa rằng sẽ trở về với vợ.
Những diễn khúc “Nou” mà ngày nay được
coi là kiệt tác, đă
được
sinh ra từ đó. Đó là những hư khúc
được đẹp đẽ, điển h́nh
cho vận mệnh và thương oán của con người,
và đây là một nghệ thuật được
thành lập trên tổng hợp của nghệ
thuật triều đ́nh cùng với nhân sinh quan
thời trung thế. Nhạc Nou ngày nay là nhạc nghi thức của vũ gia thời Edo, có dạng thức cứng nhắc. Những diễn tấu “Nou” thời Muromachi nhanh hơn bây giờ nhiều. Điều nầy được suy ra từ thời gian biểu diễn của “Nou”. Cho nên không thể bàn luận Sarugaku nou vào thế kỷ 14,15 qua nhạc Nou này được. Nhạc Nou có hiệu quả diễn kịch ưu tú nhờ động tác và một sân khấu được tượng trưng hóa cực độ, tỉ dụ đưa tay mặt đến gần g̣ má sẽ cho khán giả một ấn tượng mạnh mẽ hơn là khóc ra tiếng, hoặc chỉ cần gật mặt trên dưới một chút (hành động nầy được gọi la “terasu” và “kumorasu”) cũng đủ để diễn tả những biến đổi của t́nh cảm tế nhị. Nhạc Nou đă trưởng thành trong t́nh trạng văn hóa có chiều hướng “hạ khắc thượng” vào thế kỷ 14,15. Sự thật nầy đă dạy cho ta biết điều kiện để một văn hóa ưu tú được sinh nở (h́nh 30).
Mặt nạ Nou Nou ngày nay
Kyougen (狂言) (Cuồng ngôn), những diễn khúc giữa những màn
sarugaku nou, có lẽ là những sản phẩm
xuất phát từ yếu tố bắt chước
sarugaku thời xưa. Sarugaku nou có chủ đề
cổ điển, lấy những bài ca lấp ráp
bằng những lời văn cổ điển
đẹp đẽ làm bản kịch, nên
hết sức trang nhă, ngược lại kyougen
đă được diễn bằng tiếng nói
đương thời, bộc lộ không một
chút do dự mặt trái của sinh hoạt
của giai cấp cai trị, như tăng lữ
và vũ sĩ. Sarugaku nou có yếu tố âm
nhạc ca vũ phong phú hơn yếu tố
diễn kịch, ngược lại kyougen đă
triệt để theo phương hướng
diễn kịch. Đây là một nghệ
thuật có tính cách dân chúng hơn cả
những nghệ thuật có từ trước
đến nay, ở điểm nó đă
được cấu thành từ những
kịch vui gây ra nụ cười từ ḷng ṭ ṃ
của thường dân, và đă lấy đề
tài từ mọi sinh hoạt của quần chúng.
Chỉ có điều là những châm biếm, phơi
bày nầy thiếu chiều sâu, cấu tứ
đều giống nhau, thiếu sáng kiến, nên
phải công nhận rằng kyougen thiếu
chiều sâu trong mặt nghệ thuật.
Togi zoushi (伽草子) (tập truyện), những truyện ngắn thờI
Muromachi cũng giống như vậy. Những
truyện hoài cổ mất đi, Gunki mono (軍記物)
(truyện quân kư) cũng
không c̣n sống sót. Togi zoushi đă thành chủ lưu
trong giới tản văn thời nầy. Togi
zoushi đă có những cấu tứ, lời văn
hết sức giống nhau, nên về mặt
nghệ thuật phải nói đây là một văn
nghệ ấu trĩ, hết sức mộc
mạc, và bị xem như là đồ chơi
của đàn bà trẻ nít trong thời đại
tới. Togi zoushi mang tính cách là một văn
nghệ đại chúng ở điểm là đă
nói đến những chuyện truyền
miệng trong dân gian hoặc đă lấy vận
mệnh của thường dân có thân phận
thấp hèn trong xă hội làm chủ đề.
Tập Bunshou zoushi (文正草子)
đă cho kẻ làm muối ở xứ Hitachi (常陸)
đóng vai chính, tập Sarugenji soushi (猿源氏草子)
lấy kẻ bán cá ṃi hạ tiện làm vai chính
v.v…Cần để ư ở đây là Togi zoushi
đă ghi lại nhiều chuyện truyền
khẩu trong dân gian, những chuyện đă
bị bỏ rơi từ những thần
thoại kể ra có hệ thống trong “Cổ
sự kư” và “Nhật bản thư kỷ” có
mục đích chính đáng hóa chế độ
thiên hoàng. Văn nghệ tiểu thuyết của
Nhật Bản phát khởi với tính cách là
một nghệ thuật cổ điển của
quí tộc, qua giai đoạn trung gian truyện
ngắn như đă nói ở trên và sau đó
được hồi sinh với tính cách là văn
chương của người thành phố
thời Edo.
Ngoài ra, thời đại nầy cũng
đă sinh ra được một văn hóa độc
đáo gọi là “Chanoyu” (茶の湯)
(nước trà)[10],
một văn hóa không thuộc bất cứ lănh
vực nghệ thuật thông thường nào.
Ở đây khuynh hướng văn hóa “hạ
khắc thượng” cũng được quán
triệt. Trà được “Eisai” (栄西) đem
từ Tống qua, coi đó như là một
thứ thuốc uống, sau đó lần lần
trà đă trở thành nước uống thưởng
thức, và vào thời Nam Bắc triều, hội
uống trà đă được bày ra trong
những hội đánh cá hào hoa giữa các tướng
vơ. Đầu thế kỷ thứ 16, ở Kyouto
đă có những tiệc “chanoyu” gọi là
“suki” (数奇)
lặng lẽ thưởng thức trà trong
những pḥng nhỏ khoảng 4 chiếu rưỡi
(khoảng 7.3m vuông),
im ĺm dưới bóng cây trong thành phố.
Những tiệc trà nầy có tính chất khác
hẳn với những hội uống trà hào hoa
trước đó. Đó là những tiệc trà
nối liền với cách thức “wabicha” (わび茶)
(trà buồn) sau
đó, và có lẽ đây là cách thức phát
khởi từ một nguồn gốc cá biệt nào
đó. Nguồn gốc của những loại
“chanoyu” nầy không được minh bạch
v́ thiếu sử liệu. Từ những tiệc
trà đạm bạc của quần chúng, cách
thức uống trà lần lần trở nên điêu
luyện ra và trở thành những tiệc
“suki” khác hẳn với những hội
uống trà hào hoa của giai cấp cai trị.
Giai cấp thượng lưu rồi cũng
mở những tiệc trà như trên. Ta cũng có
thể thấy được ở đây quá tŕnh
thăng tiến của văn hóa từ dưới
lên.
Văn hóa ở thờI đại nầy không
những đă làm tăng số người làm văn
hóa ở mọi giai tầng mà c̣n bành trướng
ra nhiều khu vực trong toàn quốc. Vũ sĩ
đă lập ra những thế lực mạnh
mẽ ở mọi nơi, nhất là sau khi có
những “lănh địa của lănh chúa” , thành
thị quanh lănh chúa có tiếng tăm đă
trở thành trung tâm văn hóa ở địa phương.
Quí tộc ở trung ương bị sụp
đổ cho nên Kyouto không nhất thiết là
trung tâm văn hóa nữa. Trong những tài sản
văn hóa tập trung ở địa phương
cùng với những sáng tạo mới trong văn
hóa, đă có nhiều chỗ đáng được
nh́n.
Uesugi Norizane (上杉憲実) đă mở ra trường “Ashikaga” ở
“Shimotsuke” (下野) (tỉnh Tochigi ngày nay).
Nhiều vũ sĩ đă đến đây
học hỏi nghiên cứu về binh thư .
Những môn học liên quan nhờ đó
được phát đạt. Ở “Yamaguchi” (山口) vùng
“Chuugoku” (中国)
có ḍng “Oouchi” (大内) phú cường, thu thập nhiều sách sao cổ. Chính
Oouchi đă xuất bản điển tích về
Nho giáo và Phật giáo. Và những họa sĩ
cao siêu như “Sesshuu” (雪舟)[11],
“Sesson” (雪村)[12]
đă tiếp tục sáng tác ở địa phương.
Tuy đây chỉ là những tỉ dụ nhỏ
nhưng cũng đủ nói lên khuynh hướng
của thời đó. Từ trước đến
nay văn hóa sử đă lấy sân khấu chung
quanh Kyouto, nhưng từ đây đă có khả năng
lấy sân khấu và khai triển khắp nơi
trên đất Nhật. VĂN
HÓA MỚI PHÁT ĐẠT TỪ VIỆC THẾ
TỤC HÓA CỦA TÔN GIÁO
Tinh thần tôn giáo cao trào thời Kamakura
đă sinh ra nhiều tôn phái mới trong giới
Phật giáo. Từ cuối thế kỷ 14 sang
đầu thế kỷ 15, những giáo đoàn
Phật giáo mới đă dựa theo những
biến động thời thế mở rộng
ảnh hưởng , đâm rễ sâu trong
quần chúng. Giửa thế kỷ 15 “Nisshin”
(Nhật Thân) đă truyền bá rộng răi
“Nichirenshuu” (Nhật Liên tôn) trong giai tầng thương
gia ở thành thị, “Rennyo” (Liên Như) đă
truyền bá “Joudoshinshuu” (Tịnh thổ chân tôn)
trong giới nông dân ở địa phương.
Đặc biệt là thế lực của giáo
đoàn “Honganji” (Bản nguyện tự” do
“Rennyo” (Liên Như) dẩn đầu đă
đứng lên yêu cầu, phản đối
ở mọi nơi, và đă trưởng thành
đến chỗ có thể đe dọa địa
vị cai trị của vũ sĩ. Nếu chia
những chùa chiền theo tôn phái riêng biệt vào
những năm đầu thời Shouwa (昭和)
(thế kỷ 20), thời mà những thế
lực tôn giáo tiền cận đại c̣n
tồn tại, ta có phái “Shinshuu” (Chân Tôn) đứng
đầu với 19 ngàn giáo dân, phái “Soutou” (Táo
Động) đứng nh́ với 14 ngàn, phái
“Shingonshuu” (Chân Ngôn tôn) có 12 ngàn, phái “Joudo”
(Tịnh thổ) có 8 ngàn, phái “Rinzai” (Lâm
Tề) có 6 ngàn, phái “Nichiren” (Nhật Liên) có 4
ngàn 9 trăm, phái “Tendai” (Thiên Đài) có 4 ngàn
5 trăm. Những tôn phái Phật giáo mới
chiếm đa số cho biết sự phát
triển mạnh mẽ của những giáo đoàn
Phật giáo mới thời nầy. Phật giáo cũ
là tín ngưởng của giới quí tộc,
đă sống nhờ vào trang viên lănh địa
do giới quí tộc ban cho. Đối lại,
Phật giáo mới đă thành công trong việc
lấy ḷng quần chúng một cách trực
tiếp, và đă khéo léo lợi dụng sự thăng
trưởng địa vị của quần chúng
để phát triển.
Nhưng sự phát triển của các giáo
đoàn không nhất thiết đưa đến
sự trưởng thành về tư tưởng
tinh thần của Phật giáo. Ngược
lại để khuếch đại thế
lực, giáo đoàn đă phải thỏa
hiệp với những hiện thực của xă
hội, làm phai mờ tôn phong nghiêm khắc do giáo
tổ đưa ra. Một chứng cớ rơ
rệt là có sự phát triển của giáo đoàn
nhưng không có phát triển về tư tưởng
Phật giáo từ sau thế kỷ 15. Từ
thời nầy Phật giáo đă mất đi
địa vị chủ động trong giới tư
tưởng Nhật Bản. Mỹ thuật
Phật giáo cũng bị xuống dốc có
lẽ v́ lúc nầy những công đức ngoài
mặt như cất chùa tạo Phật đă không
được coi trọng nữa. Vả lại
tinh thần tôn giáo nhiệt liệt của
thời cổ đă bị mất và năng lượng
để sinh ra những mỹ thuật cao siêu
bị khô héo.
Phật giáo sau đó tuy vẫn giữ
được một địa vị đáng
kể trong xă hội trong một thời gian dài,
nhưng không thể dấu được khuynh hướng
tục hóa của nó. Nội dung của văn hóa
thiền tôn cho ta biết điều đó.
Rinzaizen đă được tướng quân
Ashikaga và giai cấp cai trị bảo hộ
rộng răi, “ngũ sơn thiền tăng”,
một chế độ do Giman (義満)
bắt chước chế độ đời
Tống lập ra, đă là cố vấn chính
trị của Mạc phủ Muromachi, coi mậu
dịch, ngoại giao, chính trị v.v…và đă
giữ vai tṛ chỉ đạo trong lănh vực
học vấn, nghệ thuật. Mặc dầu văn
hóa thiền tôn đă có một tỉ trọng
rất lớn trong giới văn hóa thế
kỷ 14 và 15, nhưng đă không sử dụng
được trong việc làm cho tinh thần tôn
giáo trở nên sâu xa. Việc lưu hành văn hóa
thiền tôn, châm biếm thay, đă là một bước
đầu thực hiện việc biến
chuyển văn hóa tôn giáo đến văn hóa
thế tục.
Việc tu hành hằng ngày của thiền tăng
là t́m cách tái hiện đúng những qui luật
trong chùa thiền tôn của Trung Quốc từ cách
đi đứng ăn uống. Những thiền
tăng đi đi lại lại Trung Quốc
thời Minh đă hết sức nhiệt tâm trong
việc học hỏi văn hóa thời Minh,
nhờ đó những thiền tăng “ngủ sơn”
đă dính líu sâu xa được với giai
cấp cai trị. Việc đó đương
nhiên đă đưa ra một kết quả là
đă làm cho sở thích văn hóa thiền tôn
kiểu Trung Quốc tràn ngập trong xă hội thượng
lưu. Trong thời đại văn hóa quí
tộc xưa bị mất quyền uy, giai cấp
vũ sĩ, những quí tộc mới yêu
chuộng văn hóa thiền tôn hơn văn hóa
đại chúng đang lên, tuy văn hóa thiền
tôn có tính cách ngoại lai cao nhưng đă
xứng đáng là một văn hóa mới trang
điểm cho địa vị cao cả của
họ. Mặt khác, văn hóa thời Muromachi đă
có khuynh hướng dân chúng hóa hết sức
mạnh mẽ, trong t́nh trạng nầy, việc
một văn hóa có tính cách quí tộc như văn
hóa thiền tôn được tôn trọng, có
lẽ v́ lư do lịch sử đó.
Nói đến văn hóa thiền tôn, trước
nhất cần phải nói đến văn
học “ngũ sơn”. Có thể nói đó
chỉ là một tṛ chơi về trí, sinh ra
từ tâm lư muốn bày tỏ tâm t́nh của
những thiền tăng xa cách sinh hoạt
hiện thực của người Nhật
thời đó. Ta có thể thấy được
tâm t́nh độc đáo trong văn học
thiền tôn của Nhật Bản qua thơ
của Ikkyuu (一休)[13],
những bài thơ vừa cố ư miêu tả t́nh
dục một cách lộ liễu, vừa kết
hợp được văn nghệ và tôn giáo
một cách hồn nhiên. Nhưng việc dùng
kỹ thuật của văn học ngôn ngữ
để du hí chính nó đă trật đường
thiền tôn, cho nên việc phồn thịnh
của văn học ngũ sơn cũng chỉ là
một đo lường liên quan đến
việc thế tục hóa của văn hóa
thiền tôn. Nhưng như đă nói trước,
một phó sản phẩm của thiền tăng
trong việc nghiên cứu học nghệ Trung
Quốc, là việc nghiên cứu “Chu Tử
học” và trong thời đại nầy đă
có một vài trứ tác được sinh ra và
đó là một yếu tố quan trọng của
tiền đề lịch sử cho sự phồn
vinh của “Nho học” trong thời đại
sắp đến. Kế đến, văn hóa thiền tôn đă có một ảnh hưởng to lớn trong giới mỹ thuật tạo h́nh. Sự lưu hành “tranh mực nước” đă có một quan hệ sâu xa với thiền tôn. Tranh mực nước có đặc điểm là có cấu đồ (cấu tạo h́nh vẽ) với những nét vẽ trừu tượng, diễn tả đối tượng từ một khía cạnh tinh thần bằng một màu mực, thế chỗ cho Yamatoe, tranh có đặc điểm trong màu sắc và cách thưởng thức. Tranh mực nước đă đoạn tuyệt với lịch sử hội họa Nhật Bản thời quá khứ, và đă tạo ra một truyền thống mới.
Tranh Sơn Thủy Thu Đông của Sesshuu
Tranh Phong Đào của Sesson Tranh mực nước là một yếu tố của văn hóa thiền tôn v́ những họa sĩ hoạt động giữa thế kỷ 14, thời kỳ đầu của tranh mực nước, như Mokuan (黙庵) hoặc Kaso (可翁) đều là thiền tăng. Đề tài của tranh phần nhiều lấy từ tôn giáo, như tranh Phật Bồ Đề, tranh Ngũ tổ, Lục tổ. Vào thời Muromachi, ngay như Josetsu (如拙) (Như Chuyết), Shuubun (Chu Văn) (周文), những người đă giữ một vị trị hết sức quan trong trong việc phát triển tranh mực nước, tuy cả hai đều xuất thân từ thiền lâm, đă có những bức tranh để thưởng thức nghệ thuật, phai lạt ư nghĩa tôn giáo. Trong trường hợp Yamatoe, ḥa ca và tranh b́nh phong liên kết với nhau một cách mật thiết. Trong tranh mực nước, những quan sát khách quan về thiên nhiên trong văn học ngũ sơn, đă liên kết với hội họa qua h́nh thức tranh treo thơ họa, rồi lần lần phát triển đến tranh sơn thủy theo cách Tống Nguyên. Tranh mực nước đă đoạn tuyệt với hội họa Nhật Bản, và v́ xuất phát từ việc học hỏi kỹ thuật của tranh Trung Quốc, cho nên từ kỹ thuật đến đề tài, cấu đồ phần nhiều không thoát khỏi lănh vực mô phỏng, nên không thể t́m ra được những sáng tạo độc đáo của người Nhật ở đây.
Nhưng sau đó, Sesshuu, đă từ Minh
về nước vào năm 1469 (năm Bunmei nguyên
niên). Trong những tác phẩm của Sesshuu có
những tranh mực nước kiệt tác, đây
là những sáng tác đáng hănh diện của người
Nhật. Sesshuu, cũng giống như các họa sĩ
khác của Nhật, đă cố gắng học
hỏi tranh Hạ Khuê (họa sĩ Trung Quốc),
nhưng chỉ khác ở chỗ là Sesshuu đă không
những thành công trong việc diễn tả
sự hùng vĩ của thiên nhiên, mà lại c̣n sáng
tác ra tranh mực nước không có tính cách mô
phỏng tranh Trung Quốc, tranh mực nước
có con tim đúng là con tim của người
Nhật. Sesshuu làm được như vậy v́
ông ta đă lẩn tránh nhóm họa sĩ hóa
tục ở trung ương, sống ẩn
dật ở vùng Bungo (豊後) (Phong Hậu, tỉnh Oita (大分) ngày
nay), Suou (周防)
(Chu Pḥng, vùng phía
đông tỉnh Yamaguchi (山口) ngày
nay) v.v…
vừa giao thiệp rộng răi với mọi giai
tầng, vừa sáng tác. Yamatoe v́ quá lấy
việc thưởng thức văn nghệ làm
trọng n nên
đă thiếu tính độc lập về
mặt mỹ thuật tạo h́nh. Sesshuu lần
đầu tiên trong lịch sử hội họa
Nhật bản đă tạo ra được
một cái đẹp tạo h́nh độc đáo,
cấu tạo bằng những biểu hiện không
gian thuần qua thị giác. Với những tác
phẩm đại biểu như Shuutou sansuizu (秋冬山水図)
(tranh Sơn Thủy Thu
Đông) (h́nh 31), Sansui Nagamaki (山水長巻) (tranh cuốn dài Sơn
Thủy), Sesshuu xứng đáng là họa sĩ
có cá tính đầu tiên ở Nhật Bản.
Một họa sĩ khác tên là Sesson, sống
ở đông bắc Nhật, mùa đông tuyết
đóng đầy sâu đến độ
nghẹt thở, đă diễn tả một cách
sắc bén uy lực mănh liệt của thiên nhiên
qua bức tranh Fuutouzu (風とう図) (tranh Phong Đào) (h́nh
32). Tuy Sesson không thể sánh được
với Sesshuu trong cấu tạo to lớn của
tranh, nhưng đă là một họa sĩ đă
bước một bước to lớn vững
chắc trong việc Nhật Bản hóa tranh
mực nước.
Tranh mực nước tuy phát xuất từ
thiền tôn, nhưng ở một lúc nào đó
đă rời bỏ ư nghĩa tôn giáo của ḿnh,
để trực tiếp ca ngợi thiên nhiên và
từ đó tranh mực nước đă
đưa ra một vẻ đẹp tạo h́nh
mới. Vẻ đẹp nầy đă được
phái Kanou điều ḥa với chủ nghĩa màu
sắc của Yamatoe, tổng hợp kỹ
thuật của Hán và Nhật, tạo ra điểm
xuất phát của tranh Nhật Bản sau nầy.
Cách diễn đạt của tranh mực nước
nhắm vào chỗ loại bỏ những đối
tượng không có tính cách căn bản,
chỉ diễn tả những đối tượng
căn bản một cách tượng trưng qua
những h́nh tượng đơn thuần.
Một cách thức “vườn thưởng
ngoạn” độc đáo cùng chiều hướng
nầy, vào khoảng thế kỷ 15, đă là
một thí nghiệm tạo h́nh trong thiên nhiên
trong thời nầy. Những quí tộc thời cổ, đă đào hồ lập đảo ở vườn nhà trong cung điện, hoặc đă đào hồ, để đá trước ngôi A di đà để thưởng ngoạn vẻ đẹp của vườn hoa. Sở thích nầy được truyền đến thời Muromachi. Vườn thưởng ngoạn do tướng quân Ashikaga Yoshimitsu lập ra trong chùa Kinkaku (金閣) (Kim Các), một biệt trang ở Kitayama (北山) (Bắc Sơn), đă có cấu tứ cùng hệ thống với vườn thưởng ngoạn của những chùa tịnh thổ thời xưa
Sân lót đá ở chùa Ryouan Vườn
thưởng ngoạn ở Daitoukuji daisen-in Nhà cất có thư viện
Một hiện tượng giống như trên
đă hiện ra trong những kiến trúc nhà
ở, có quan hệ mật thiết sâu xa với
đời sống hằng ngày, hơn những vườn
thưởng ngoạn. Những xây cất căn
bản kiểu zashiki (座敷)[14]
trong nhà ở của Nhật bản như toko (床)
(sàn), tana (棚)
(kệ),
shoin (書院)
(pḥng sách) như ngày
hôm nay, đă không có trong nhà ở của vũ sĩ
thời Kamakura, và cũng không có trong “tẩm
điện” của quí tộc thời xưa mà
đó là những đặc sắc của
kiến trúc “nhà ở có thư viện” vào
cuối thời Muromachi. Nguồn gốc của cách
kiến trúc nầy phát sinh ra từ cách thức
cất pḥng đọc sách của các tăng
lữ trong chùa chiền. Ngày nay, một từ
ngữ rất quen thuộc để chỉ
chỗ để giày dép lên nhà như genkan (玄関) (cửa để đến
huyền, nơi kín đáo thanh tỉnh), đây
là chữ được sinh ra từ tiếng chuyên
môn của thiền tôn. Điều nầy đủ
để cho thấy ảnh hưởng to lớn
của thiền tôn
đối với kiến trúc. Kiến trúc chùa
chiền có thư viện đă được
đem vào trong cách kiến trúc nhà ở thông thường
(h́nh 35). Đây là h́nh thức thế tục hóa
của văn hóa tôn giáo.
Cách thức nhà cất có thư viện
được xác lập và từ đó đă có
nhiều h́nh thái văn hóa mới được
sinh ra, mà nếu không có cách thức nhà cất có
thư viện th́ không thể hiểu được.Từ
trước đến giờ nếu nói đến
hội họa để thưởng thức,
ngoại trừ tranh phật để lễ bái,
phần đông chỉ có tranh cuốn trải trên
bàn, hoặc tranh Shouji, b́nh phong. Nhờ sự phát
sinh kiến trúc nhà sàn, người sống trong
nhà có thể treo tranh kakejiku (掛軸) (tranh h́nh chữ nhựt dài
để treo trên tường) để thưởng
thức. Nhờ đó kakejiku đă trở thành
một h́nh thái quan trọng trong tranh Nhật
Bản. H́nh thái nầy đơn giản hơn
tranh cuốn hoặc tranh Shouji, b́nh phong, có khả
năng phổ cập rộng răi trong đại
chúng. “Hoa đạo” được sinh ra nếu bỏ quan hệ với kiểu nhà cất có thư viện th́ không thể nào hiểu được. Nhờ có toko (sàn), người thường dân mới bắt đầu đặt b́nh bông ở zashiki, cấm bông để thưởng thức. Cấm bông trong b́nh bắt nguồn từ nghi lễ cúng Phật. Trong nhà quí tộc thời Heian cũng có nhiều trường hợp đặt b́nh bông trong nhà và cấm bông trong b́nh, nhưng vào thời Muromachi, có người giỏi chuyên môn hiện ra, và “rikka” (立花) (lập hoa) (cắm hoa) (h́nh 36) được coi như một tài nghệ. Rikka không thể thiếu được trong việc trang trí chỗ ngồi trong pḥng đọc sách. Nh́n từ đại cuộc, ta sẽ thấy việc cắm hoa để cúng Phật, trong một thời gian nào đó đă bị quên đi ư nghĩa tôn giáo của nó, và nó đă biến thành một phương tiện cho việc nghệ thuật hóa đời sống hằng ngày. Có thể nói đây cũng là một hiện tượng thế tục hóa của tôn giáo. Rikka phái Ikebou
ĐỜI
SỐNG HẰNG NGÀY TRONG THỜI ĐẠI
MUROMACHI
Ngược lại từ thế kỷ
thứ 13 đến thế kỷ 15 khi mà địa
vị của dân chúng đă được lên
cao, văn hóa ngoại lai tuy ngoài mặt không hào
nhoáng nhưng đă có một ảnh hưởng
rộng lớn đến đời sống
thực chất của người Nhật.
Tỉ dụ ở Nhật từ thế
kỷ thứ 8, chính phủ luật lệnh đă
đúc hóa tệ Wadoukaichin (和同開珎)
(Ḥa Đồng Khai Trân) và lấy quyền
lực cưỡng chế lưu hành, nhưng v́
kinh tế lưu thông chưa được phát
đạt đến chỗ cần hóa tệ, nên
rốt cuộc kinh tế hóa tệ đă bị băi
bỏ. Nhưng từ thời kỳ Kamakura, kinh
tế lưu thông hết sức tiến bộ,
việc cần có hóa tệ trở nên thiết
thực. Tiền Tống, tiền Nguyên, tiền
Minh đă được du nhập rộng
lớn và nhờ ở hóa tệ ngoại lai
nầy, kinh tế Nhật đă đi được
vào thời đại kinh tế hóa tệ. Văn
hóa ngoại lai không c̣n là những vật
liệu tiêu phí xa xỉ của giai cấp cai
trị nữa.
Thời Kamakura, Katou Kagemasa (加藤景正)
đă được phái sang Tống học
kỹ thuật chế đồ sứ, đem
về nước, nhờ đó setomono yaki (瀬戸物焼き)
(đồ sứ) được bắt đầu
và lần lần setomono yaki được dùng
trong đời sống hằng ngày của dân chúng.
Trước đây ở Nhật chỉ có
những y phục dệt bằng chỉ gai
hoặc chỉ ró cứng nhắc, và những y
phục xa xỉ như lụa, nhưng đến
thời nầy, vải đă được du
nhập từ Minh và Triều Tiên sang, và đến
hậu kỳ thời Muromachi, bông vải đă
được trồng trọt ở vùng Mikawa (三河)
(Tam Hà, vùng phía đông
tỉnh Aichi (愛知)
ngày nay) và
xung quanh, và đă mở đường cho
vải vóc, một hàng hóa không thể thiếu
được trong đời sống hằng ngày
của dân chúng. Điều cần ghi đây là
hiện tượng văn hóa ngoại lai đă
đưa đến một tiến bộ trong
đời sống hằng ngày của người
Nhật.
Đến thời đại nầy, văn
hóa đại lục cũng đă bắt đầu
hiện ra một cách rộng răi trong sinh hoạt
thực phẩm của người Nhật. Trong
thức ăn, dầu được dùng nhiều
hơn. Trà, đường cũng trở nên thường
ra. Đậu hủ và bánh bao được làm
ra. Tất cả những thức ăn nầy
đă được di thực từ cách ăn
uống của Trung Quốc vào thời đại
nầy. (Nhưng bánh bao đậu ngọt là
một phát minh của Nhật, ở Trung Quốc
chỉ có bánh bao thịt). [1] Loạn
Hougen: loạn trong hoàng thất vào năm 1156
(Hougen nguyên niên). Một bên là thượng hoàng
Sutoku và nhiếp quan Fujiwara Yorinaga và một bên
khác là thiên hoàng Hậu Shirakawa và nhiếp quan
Fujiwara Tadamichi. Phía Hậu Shirakawa đă dùng quân
của các vũ sĩ Taira Kiyomori, Minamoto
Yoshitomo và đă đánh thắng phía thượng
hoàng Sutoku. Loạn nầy đă tạo ra cơ
hội để vũ sĩ tham gia vào chính
trị. [2] Loạn
Heiji: loạn xảy ra vào năm 1159 (Heiji nguyên
niên). Fujiwara Michinori tranh dành quyền lực
với Fujiwara Nobuyori, Taira Kiyomori tranh thế
lực với Minamoto Yoshitomo. Minamoto thua Taira và
Nobuyori bị hành h́nh. Yoshitomo trốn và bị
giết ở Owari (vùng Nagoya ngày nay). [3] Loạn
Joukyuu: năm 1221 (Joukyuu năm thứ 3) thượng
hoàng Gotoba t́m cách diệt mạc phủ Kamakura
nhưng thất bại, ngược lại
đă làm cho thế lực của hoàng tộc
suy vi và thế lực của vũ sĩ
trở nên cường thịnh. [4] Loạn
Zenkunen: cha con Minamoto Tomoyoshi và Tomoie chinh phạt
và b́nh định được cha con hào
tộc Abe Yoridoki và Sadatou vào năm 1062. Ḍng
Minamoto đă thành lập được
thế lực ở những xứ miền
đông cũng là nhờ ở việc dẹp
loạn nầy. [5] Gyouretsu:
một đám người xếp hàng đi
theo độI ngũ, thứ tự. [6] Loạn
Genkou: thiên hoàng Godaigo (Hậy Đề Hồ)
đă dùng binh đánh mạc phủ Kamakura vào
năm 1331 vớI mục đích khôi phục chính
quyền công gia, nhưng thất bại, bị
bắt và bị đày đi Oki, một đảo
trong tỉnh Shimane ngày nay. [7] Thời
Muromachi: thời mạc phủ Muromachi. Muromachi là
một con đường nhỏ giữa 2
đại lộ “Đông động viên” và
“Tây động viên” ở kinh đô Heian
(Kyouto). Ḍng Ashikaga đă đặt mạc
phủ ở đây. Thời Muromachi kéo dài
khoảng 180 năm, từ năm 1392 đến
năm 1573. [8] Nam
Bắc triều: thiên hoàng Godaigo muốn
lấy lại quyền lực từ mạc
phủ, đă tập họp vũ sĩ đánh
mạc phủ nhưng thất bại, bị dày.
Sau nhờ Ashikaga Takauji giúp và lật đổ
được mạc phủ Kamakura, nhưng
rốt cuộc bị Takauji ly phản, lập
mạc phủ mới ở Muromachi. Phía Takauji là
phía Nam triều, được coi là chính
thống. Mạc phủ Kamakura đă tôn
nhiều thiên hoàng, lập ra Bắc triều
để chống lại Nam triều, nhưng
cuối cùng đă phảI đầu hàng Nam
triều. [9] Loạn
Ounin: loạn từ năm 1467 (Ounin nguyên niên)
đến năm 1477. Mạc phủ Muromachi v́
không đủ sức khống chế các Shugo
Daimyou nên giặc giă nổI lên khắp nơi.
Rồi v́ trục trặc trong việc kế
thừa của 2 họ Hatakeyama và Shiba, các
Daimyou tranh dành thế lực với nhau gây
đạI loạn vào năm 1467. [10] Chanoyu:
nghệ thuật uống trà. Khách và chủ cùng
thưởng thức trà (khuấy từ trà
bột) và bánh trong pḥng trà có trang trí đặc
biệt. [11] Sesshuu
(1420-1506): Họa sĩ thời hậu kỳ
Muromachi. Ông là thiền tăng ở chùa Shoukoku
(Tướng Quốc) học vẽ từ
họa sĩ Shuubun. Năm 1467 ông qua Minh học
cách vẽ trang mực nước. Năm 1469 ông
về nước sống ở Shuhoyamaguchi. Ông
đă vẽ nhiều tranh nổI tiếng. [12] Sesson
(1504-?): tăng thời hậu kỳ Muromachi, người
xứ Hitachi tỉnh Ibaraki ngày nay. Ông là
họa sĩ địa phương có
nhiều tranh có cá tính mạnh mẽ. [13] Ikkyuu:
tăng phái Lâm Tề thờI trung kỳ
Muromachi, trụ tŕ ở chùa Daikoku, Kyouto, có
nhiều bài thơ hài hước hay, có tranh khéo
léo. Ông đă chống hủ bại của
thiền tự và đă đi du lịch
khắp nơi trong nước. [14] Zashiki:
pḥng lót chiếu có nệm nhỏ để
ngồi.
|
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương 6 : YY ]