|
CHƯƠNG 6 VĂN HÓA XĂ HỘI THỜI PHONG KIẾN VỮNG
MẠNH
MỸ THUẬT CỦA VŨ TƯỚNG VÀ HÀO
THƯƠNG
Từ việc thành lập lănh địa (lănh
thổ do các lănh chúa trực tiếp cai trị),
trật tự phong kiến đă được
tạo ra một cách tự nhiên trong từng khu
vực. Ba anh hùng Oda Nobunaga (織田信長),
Toyotomi Hideyoshi (豊臣秀吉), và Tokugawa Ieyasu (徳川家康)
chế độ hóa trật tự phong kiến
nầy, và thành lập chính quyền thống
nhất trên những lănh chúa phân tán khắp nơi
trong toàn quốc. Đặc biệt là Hideyoshi, ông
đă cho thi hành một chính sách gọi là
Taikoukenchi (太閤検地)
(Thái cáp kiểm địa)[1] để quét
sạch tàn tích của chế độ trang viên,
xác lập chế độ điền địa
theo thể chế phong kiến. Năm 1591 (Tenshou
“Thiên Chính” năm 19), ông đă nghiêm khắc
phân chia dân theo lí lịch xă hội thành 3 thân
phận là vũ
sĩ, đinh nhân (người
thành phố) và bách tính (nông
dân), và cấm mọi người không
được thay đổi thân phận nầy.
Hideyoshi đă cho tịch thu đao kiếm, cấm
nông dân giữ vũ khí, để chấm
dứt việc thay cũ đổi mới do
“hạ khắc thượng” gây ra, lấy
trật tự giai cấp sĩ, nông, công, thương
làm cơ sở, để xác lập chế độ
phong kiến do vũ sĩ cai trị. Trong thời
đại 3 anh hùng nầy, không khí tự do phóng
túng của thời đại trước vẫn
c̣n tồn tại. Về mặt quốc tế,
việc giao dịch với các nước trên
thế giới được triển khai linh
động, khí thế tích cực xoay xở công
việc vẫn c̣n mạnh mẽ, nên trong thế
giới văn hóa, thời nầy có những
đặc sắc hào hoa không thể thấy
được trong thời đại sau khi
bế quan tỏa cảng.
Nếu chia thời đại theo sở
tại của chính quyền, ta có thể gọi
thời Oda và Toyotomi cuối thế kỷ 16 là
thời Azuchi Momoyama (安土桃山)[2]
và thời Tokugawa từ thế kỷ 17 là
thời Edo. Nhưng về mặt văn hóa
sử, từ cuối thế kỷ 16 cho đến
những năm Kan-ei (Quảng Vĩnh) giữa
thế kỷ 17, khoảng thời gian dài 80 năm
nầy có thể gọi chung là thời Momoyama.
Những người cầm quyền trước
thời kỳ bế quan tỏa cảng, đă băi
bỏ những đặc quyền của “za” (座)
(tọa: những nhóm
thương, công nghiệp độc quyền
chế tạo, buôn bán sản phẩm), cho
tự do giao dịch trong nước, khuyến khích
mậu dịch với ngoại quốc, chế hóa
tệ Ooban (大判) (tiền
lớn), Koban (小判) (tiền
nhỏ), xúc tiến phát triển kinh tế phân
phối. Những hào thương mậu dịch
với ngoại quốc ở Sakai (境)(thị
trấn gần Oosaka), Hakata (博多) (thành phố
ở bắc Kyuushuu)
đă cộng tác với chính sách nầy. Ở
thời đại nầy, văn hóa thành thị
chưa được phát triển đầy
đủ để có thể được
định nghĩa một cách minh bạch.
Những tay chủ yếu trong văn hóa Momoyama là
những vũ tướng cai trị mới,
kế đó là những hào thương hợp tác
với vũ sĩ. Với tinh thần hào phóng,
hoạt bát không chịu bị ràng buộc
bởi những qui tắc, văn hóa thời đại
nầy có sức mạnh to lớn khác với văn
hóa quí tộc thời xưa, một văn hóa có
tính cách cao nhă nhưng yếu đuối, và cũng
khác với văn hóa thành thị thời Edo, kích
thước nhỏ lại suy đồi.
Với ư nghĩa đó, kiến trúc thành quách
đă phát huy được những đặc
trưng của văn hóa thời Momoyama. Lúc vũ
sĩ mới xuất hiện, họ c̣n ở
rải rác trong nông thôn, nên thành quách của
họ c̣n thô sơ, phía trước có nhà gác
cao, chung quanh nhà đào mương cạn. Họ
lấy chiến thuật lập thành tŕ trên núi
hiểm trở để có thể chiến đấu
trường kỳ. Nhưng khi lănh chúa dành
được lănh địa riêng cho ḿnh, họ
đă cho cất thành quách trong lănh địa
của ḿnh ở nơi bằng phẳng, có giao thông
tiện lợi, và chung quanh đó cho tập trung
kẻ dưới với nhà buôn, lập ra thành
thị. Quy mô của thành quách trở nên lớn
ra, mương vừa rộng lại sâu, quanh thành
đấp đá cao, nhà gác cất cao hơn,
cửa thành làm vững chắc, ở trung tâm có
nhà chính (本丸) (honmaru). Lại c̣n cất thêm Tenshukaku (天守閣)
từ 3 đến 5 tầng (Tenshukaku:
nhà gác cao tầng để từ đó có
thể nh́n xa, canh chừng bất trắc)
để dương cao uy thế quân chủ phong
kiến của ḿnh.
Trong những kiến trúc tự viện
từ trước đến nay, đă có
những kiến trúc cao tầng như tháp bà,
cửa chùa theo dạng thức đại lục,
nhưng một kiến trúc cao tầng không có liên
quan đến tôn giáo như Tenshukaku, hoàn toàn do sáng
chế của người Nhật, là một
hiện tượng không có từ trước
đến giờ. Quí tộc thời xưa đă
tự ḿnh cất chùa chiền có tháp cao vừa
để cúng bái, vừa để hănh diện
với tư cách lănh đạo của ḿnh,
vừa giác ngộ quyền thế bé bỏng
của ḿnh trước thế giới vô hạn.
Ngược lại những vũ tướng
ở thời phong kiến vững mạnh nầy,
những người đă đốt chùa Hieizan,
chùa Negoro (根来)
(chùa ở thôn Negoro,
một phần của xă Iwade, tỉnh Wakayama ngày
nay ), đă có một nỗi vui vô cùng to
lớn khi cất những Tenshukaku cao, để nêu
uy thế của ḿnh ra bốn phương.
Điều nầy cho ta thấy sự
thụt lùi của tinh thần tôn giáo xảy ra
từ thời đại trước đă đến
chỗ quyết định, đúng vào lúc
những kiến trúc thành quách trở thành
chủ lưu thay thế cho kiến trúc tự
viện. Những kiến trúc thành quách có qui mô
to lớn của thời nầy là thành Azuchi (安土)
của Nobunaga, thành Oosaka (大阪), thành Fushimi (伏見) của
Hideyoshi (vùng đất có thành Fushimi sau đó
được gọi là Momoyama. Tên thời đại
Momoyama có nguồn gốc từ đây, Momoyama không
phải là tên một địa phương có trước
khi Hideyoshi được sinh ra). Có kỷ lục
cho thấy thành Azuchi, có Tenshukaku cao 7 tầng. Ngày
nay những di tích thành quách sơ kỳ c̣n
lại rất ít. Thành Nagoya có tiếng tâm
lớn đă bị cháy mất trong chiến tranh
thế giới thứ 2. May mắn thay, thành Hakuro
(白鷺)
ở Himeji (姫路) (h́nh 37), một kiệt tác thành quách
vẫn c̣n sót lại. Tenshukaku của thành Haruko Trong thành quách, dinh của các tướng vơ đă được cất hào hoa theo dạng thức nhà cất có thư viện, ở cửa pḥng và vách trong nhà có vẽ tranh xanh vàng đẹp đẽ. Phái Kanou (狩野) với những nét tranh mạnh bạo, với màu sắc tráng lệ có cách vẽ hết sức xứng đáng với những yêu cầu nầy. Kanou Eitoku (狩野永徳), Kanou Sanraku (狩野山楽) là những họa sĩ đại biểu của thời đại nầy. Hasegawa Touhaku (長谷川等伯), theo cách vẽ của Sesshuu cũng có những tác phẩm có cùng khuynh hướng trên.
Bước vào thời đại nầy, phái
Kanou như đă được nêu lên ở chương
trước, đă cố gắng tổng hợp
chủ nghĩa màu sắc của tranh Yamatoe cùng
với chủ nghĩa cấu thành của tranh
mực nước, đă phát huy cách vẽ
hoạt bát tươi sáng đầy sức
sống, thoát khỏi cách thức giữa
chừng mất hồn. Như tranh cây cối
(Hinoki) (h́nh 38) của Eitoku, Eitoku đă vẽ cây
cối có thân h́nh mạnh mẽ trong b́nh phong to
lớn với màu sắc đậm đà. Tranh trên
vách ở Chishakuin có hoa hagi (萩) (xa trục thảo) và
hoa mồng gà nở rộ đẹp đẽ
quanh cây phong (kaede) (楓). Đây là những tác phẩm tối cao
của thời đại nầy. Nỗ lực mô
tả vẻ đẹp của bông hoa, thảo
mộc bằng một cảm giác tươi
trẻ mới, là sự t́m ra được
một hương vị mới, không có trong
Yamatoe cũng như trong tranh mực nước,
những tranh hầu như chuyên vẽ phong
tục hoặc sơn thủy. Tranh phái Kanou có
những cấu đồ to lớn từ trước
đến nay không có trong tranh Nhật bản luôn
luôn có đặc sắc phong nhă, tế nhị.
Hội họa thời đại nầy có
một địa vị độc đáo trong
lịch sử nghệ thuật.
Phái Kanou nhờ đó đă được
chính quyền mạc phủ Tokugawa bảo hộ và
các họa sĩ của phái nầy được
coi như là họa sĩ của tướng quân.
Rồi cùng với sự cố định hóa
trật tự phong kiến, tranh được
bảo hộ nầy lần lần mất đi
vẻ hào phóng quảng đại của thời
Momoyama, sau đó chỉ lập đi lập
lại những cách thức cũ kỹ thối nát
không có ǵ thú vị. Họa sĩ đại
biểu cuối thời Momoyama, đă không là
họa sĩ của tướng quân, mà là Tawaraya
Soudatsu (俵屋宗達),
một họa sĩ đột nhiên xuất
hiện như sao chổi trong những năm
Kan-ei.
Tranh cây cối ở b́nh phong
Thời Momoyama như đă nói ở trên,
vừa hănh diện được đó là
thời đại hào tráng, mặt khác lại có
khuynh hướng mâu thuẫn t́m thú trong yên
lặng, uống rượu tiêu buồn. Vũ tướng
và hào thương đă tập trung hết tinh
lực của ḿnh vào những hoạt động
thế tục, mặt khác lại muốn t́m
một hoàn cảnh khác có tính phản động.
Touhaku (等伯) người vẽ tranh trên cửa pḥng
của viện Chishaku (知積院),
có bản lănh trong tranh mực nước, đă
vẽ tranh rừng tùng ở kinh đô trong sương
mưa (h́nh 40), một kiệt tác đơn sơ
đạm bạc cho thấy rơ điều nói
ở trên.
Trang Genji Monogatari của
Sodatrsu
Tranh rừng tùng ở Tohoku
Vũ tướng và hào thương ở
thời đại nầy, trong những cuộc
đàm đạo về chính trị và thương
mại, thường mở ra hội trà, nghe
tiếng nước lách tách trong ḷ, ở
pḥng trà riêng biệt yên tĩnh, say đắm
trong tính cách phong lưu của chén trà. Người
trong thành phố Sakai (thành phố ở phủ
Oosaka) tên Sen Rikyuu (千利休)
được Hideyoshi bảo trợ, đă
tổ chức hóa nghi lễ uống trà, lập ra
“Trà đạo” được cũng nhờ
bối cảnh có nhu cầu xă hội như trên.
Hideyoshi đă cất ra pḥng trà bọc vàng, đúng
như sở thích của “người nghèo
gặp thế”. Tuy nhiên, thưởng thức
“wabi cha (trà tiêu
khiển)” (わび茶)
trong những pḥng trà gọi là yamazato (山里) (thôn núi) cách biệt với thế tục,
cất trong vùng cây cối lặng lẽ có
cảm giác như ở thôn núi, được thích
hơn. Đấy là một khuôn mặt khác
biệt của văn hóa thời Momoyama.
Sarugaku, tranh phái Kanou, cả 2, trong thời
đại Edo đă trở thành cứng nhắc,
theo cách thức cũ kỹ không có sinh khí như
thời trước. Trà đạo cũng
vậy, đă bị h́nh thức hóa ở
thời Edo dưới chế độ gia
truyền độc quyền. V́ thế ngày nay trà
đạo chỉ được coi là một phương
tiện tiêu khiển thời giờ của giai
cấp nhàn nhă. Ít nhất thời Momoyama, nước
trà không có tính chất đó. Những văn
kiện truyền lại nội dung của nước
trà phần nhiều do những ḍng gia truyền
độc quyền viết lại nên khó tin
được. Việc phục nguyên rơ rệt
lại cách thức uống trà thời sơ
kỳ thật khó, nhưng những kiến trúc nhà
trà, vườn trà c̣n lại, vẫn c̣n giữ
được h́nh dáng ngày xưa.
Pḥng trà của Rikyuu
Katsura Rikyuu
Tỉ dụ như Myoukian (妙嬉庵)
(Diệu hỉ am), nhà chờ lộp tranh (h́nh 41),
kiểu Rikyuu thích, ở Yamazaki (山崎)
có h́nh dáng bề ngoài như một nhà tranh
của nông gia, bên trong có pḥng trà khoảng 2
chiếu (khoảng 3.3m2) có vẻ thô sơ
chật hẹp, nhưng trần nhà có cấu
tạo phức tạp, cùng với những
sấp xếp tế nhị quanh pḥng. Cấu
tạo lập thể khéo léo nầy khiến người
đến, cảm thấy rộng răi như không
có bờ bến trong thế giới nhỏ bé 2
chiếu nầy. Đúng đây là một kiến
trúc đáng chú ư, v́ ở đó ta có thể
thấy được sáng kiến công phu
xuất sắc mà từ trước đến
nay không có. Trong những kiến trúc “thành Fushimi” (伏見) hoặc “Juraku no tei” (dinh thự tráng lệ do Toyotomi Hideyoshi cho cất ra ở Kyouto) được coi như là di tích của thời Momoyama, ta có thể thấy được sở thích những vật lộng lẫy của những người thời nầy. Những kiến trúc lưu hành thời nầy có nhiều điêu khắc trang sức cho mặt ngoài và mặt trong, cùng với những tranh vẽ hoa lệ ở cửa pḥng hoặc ở b́nh phong làm vui mắt người xem. Và cuối cùng một kiến trúc đầy trang sức như “Nikkou Toushougu” (日光東照宮), một kiến trúc quên vẻ đẹp cân bằng trong cấu đồ, đă được hoàn thành vào thời Tokugawa Iemitsu (徳川家光). Mặt khác, pḥng trà như đă nói ở trên cũng được tạo ra trong thời đại nầy. Đây là những kiến trúc đặt sinh mệnh trên cấu trúc thuần túy kiến trúc và trên tính thực dụng “để uống trà”. Tính cách 2 mặt của thời đại nầy là kết quả của một cân bằng kiện toàn, ngăn chận được trụy lạc toàn diện trong kiến trúc Nhật bản. Vườn hoa ở Shugakuin Rikyuu Hơn cả pḥng trà, một kiến trúc loại bỏ tất cả những yếu tố trang sức, để phát huy tối đa cơ năng và cấu tạo lực học mỹ thuật của nơi sinh sống theo cách thức xây cất thư viện, đó là Katsura rikyuu (桂離宮) (tên một biệt thự của hoàng thất) (h́nh 42).
Kiến trúc nầy được cất ra
hết sức công phu trong vườn hoa thưởng
ngoạn, là một tài sản văn hóa độc
đáo của Nhật bản đáng hănh diện
với thế giới. Đây là kiến trúc do thân
vương Toshihito (智仁)
và Toshitada (智忠) cho xây từ những năm “Genwa”
đến “Kan-ei” (đầu
thế kỷ 17) . Vẻ đẹp của văn
hóa quí tộc thời xưa đă được
sử dụng hết sức phong phú ở đây.
Điểm nầy giống với t́nh trạng
của tranh Soudatsu. Thêm vào đó, sơn trang
“Shuugakuin Rikyuu” (修学院離宮)
(h́nh 43) do thiên hoàng “Go Suibi” (後水備) cho cất
ra, để nh́n những núi vùng “Rakuhoku” (洛北) (Lạc Bắc)(vùng
phía bắc Kyouto), đă là một vườn
thưởng ngoạn có quan cảnh hùng vĩ,
hiếm có ở đất Nhật nhỏ hẹp
nầy. Đây có lẽ là những công tích
cuối cùng mà con cháu của quí tộc thời xưa
đă cống hiến được cho công tác sáng
tạo văn hóa Nhật Bản, bằng cách
tiết ra những tinh túy truyền thống
của văn hóa thời xưa. Nhưng những
điều nầy từ Katsura rikyuu đến
Soudatsu, những dạng thức trác tuyệt đó
chỉ có trong một đời, và đă không
phải là một khởi điểm cho một phát
triển cao hơn. Tính cách quí tộc xưa cũ
đă thiếu tính thích ứng để
được phát triển ra thành văn hóa
thời Edo.
NHỮNG TIẾP XÚC ĐẦU TIÊN VỚI VĂN
HÓA TÂY PHƯƠNG
Trang
b́nh phong vẻ thuyền Bồ Đào Nha
Văn hóa Momoyama như đă nói ở
phần trên có đặc sắc là đă sinh ra
dạng thức Nhật Bản theo những yêu
cầu trong sinh hoạt của người
Nhật. Văn hóa nầy đă thoát ra khỏi
những dạng thức Trung Quốc, du nhập
từ Tống, Nguyên, và Minh. Có một điều
không thể bỏ qua được là song song
với t́nh thế nầy đă có những du
nhập văn hóa Âu châu, những nơi mà
từ trước đến nay Nhật đă hoàn
toàn không có giao thiệp. Thế lực hướng
đông của Âu châu, chủ yếu là Bồ
Đào Nha, cuối cùng vào năm 1543, đă gây ra
việc tàu Bồ Đào Nha trôi dạt đến
Tanegashima (種子島)
(đảo ở phía
Nam Nhật Bản), và vào năm 1549 (năm
Tenmon (Thiên Văn thứ 18), nhà truyền giáo
Francisco Zaviel đă bước lên đất
Nhật. Đây là cuộc tiếp xúc đầu
tiên giửa Nhật với Tây phương.
Từ đó khoảng 100 năm, cho đến lúc
bế quan tỏa cảng, người Bồ Đào
Nha (thời đó gọi là người Nanban (người
man rợ từ phương Nam) ) qua mậu
dịch và truyền đạo, đă truyền bá
sang Nhật những văn hóa vật chất
của Tây phương trong đó có súng, cùng
với văn hóa tinh thần của đạo Thiên
Chúa (thời đó được gọi là
Kirishitan) (h́nh 44). Rồi sau đó tàu Tây Ban Nha, tàu
Ḥa Lan, Anh lần lược đến mở giao
thông với Nhật. Lúc nầy là lúc Hideyoshi
đưa binh sang Triều Tiên, lập kế
hoạch chinh phục đảo Luxon của
Philipine, đưa tàu Shuin (朱印)
(chu ấn)[3]
mậu dịch với vùng biển phía nam. Trong ṿng
một thế kỷ, Nhật Bản đă có
một không khí phóng khoáng có tính cách quốc
tế chưa có bao giờ.
Qua những giao thương với người
Âu châu, người Nhật được
biết rằng ngoài Đường (Trung
Quốc) và Thiên Vực (Ấn Độ) có
một thế giới văn minh gọi là Tây phương,
và từ đó người Nhật mới
bắt đầu đưa mắt ra toàn thế
giới. Nobunaga, Hideyoshi, Ieyasu đă nh́n địa
cầu giấy cùng với bản đồ
thế giới và biết được vị trí
của Nhật trên thế giới. Sau thời
đại nầy thế giới quan của ngườI
Nhật đă thay đổi hẳn ở điểm
nầy.
Nhiều yếu tố có tính cách Tây phương
một ngày nào đó đă xen vào đời
sống hằng ngày của người Nhật.
Những danh từ như Boushi (nón),
Zubon (quần), kappa (tơi),
Shindai (giường),
Isu (ghế), Gankyou (kính
mắt), Tokei (đồng
hồ), Tabako (thuốc
lá) tuy sau đó có một số đă biến
mất trong thời Edo, đă bám chặt vào đời
sống của người Nhật. Ngày nay trong
tiếng Nhật có những chữ như Sarasa
(vải màu), Pan (bánh ḿ), Rasha (nỉ), Birodo (nhung)
là những chữ có nguồn gốc từ
tiếng Bồ Đào Nha, những tiếng c̣n sót
lại từ thời đại du nhập văn
hóa Nam man.
Về mặt tinh thần cũng vậy, người
Nhật đă được dạy cho nhiều
điều mới lạ mà từ trước
đến nay chưa biết. Đạo Kirishitan
đă thuyết giáo tín ngưỡng đến thượng
đế duy nhất, tuyệt đối đă làm
người Nhật kinh dị, v́ người
Nhật tin ở đạo có nhiều thần
hoặc chỉ biết đạo cái ǵ cũng là
thần (Hanshinkyou (汎神教) (phàm Thần
đạo)). Cùng với việc đó người
Nhật cũng được thuyết về
đạo đức một chồng một
vợ, điều nầy đă gây ra xúc động
to lớn. Ngày xưa Phật giáo đă đến
từ Trung Quốc, nhưng Phật giáo đă
đến Nhật do những yêu cầu có tính
chủ thể của giai cấp cai trị, không có
quan hệ ǵ với giáo đoàn ở Trung
Quốc, cho nên đạo nầy đă được
tiếp thu từ trên đến dưới. Khác
lại, Kirishitan đă do những nhà truyền giáo
của giáo đoàn Thiên Chúa ở Âu châu, tích
cực từ ngoài đem vào. Những người
nầy đă truyền đạo trực tiếp
đến dân chúng, và trong một khoảng
thời gian ngắn đă có được
một số tín đồ đông đúc.
Những tín đồ nầy, để giữ
đúng nghi thức của tôn giáo, đă có
tập quán dùng tuần lễ và dương
lịch. Cùng với hoạt động truyền
giáo, giáo dục đạo Thiên Chúa đă
được thực thi ở trường
học hoặc ở nơi tu nghiệp. Chữ
Latin đă được dùng để dịch sách
Thiên Chúa, và Nhật Bản cổ điển cùng
với tự điển tiếng Nhật đă
được xuất bản ra (bản Kirishitan)
(h́nh 45). Tranh sơn dầu, tranh bản đồng
được giới thiệu đến,
kịch tôn giáo và nhạc Tây phương
được tŕnh diễn trong những buổI
họp của tín đồ. Tuy phạm vi nầy
không to lớn nhưng cũng đủ cho ta
thấy trong một góc nhỏ ở nước
Nhật thời nầy, xă hội Nhật Bản
đă tiếp xúc nhiều mặt với văn hóa
Tây phương. Từ điển tiếng Nhật Kirisitan Nhưng văn hóa tinh thần của Kirishitan đă không được tiếp thu giống như những phẩm vật thực dụng như súng ống, đồng hồ, kính mắt. Thành công trong truyền đạo Kirishitan phần nhiều do ở việc tuyên truyền dùng nước thánh trị bịnh, hoặc đeo thập tự giá như bùa phù hộ ở chiến trường. Kirishitan đă thành công trong việc thay đổi cấu tạo tinh thần của người Nhật là một nghi vấn. Mặc dầu vậy, dưới cặp mắt của giới cai trị, kết hợp tinh thần giữa tín đồ chung quanh nhà truyền giáo là một điều nguy hiểm đối với trật tự phong kiến vừa được xác lập. Với mục đích đề kháng tín đồ Phật giáo, Nobunaga đă công nhận Kirishitan, nhưng từ sau Hideyoshi, việc cấm đạo đă trở thành quốc sách, và với lư do đó năm 1639 (năm Kan-ei 16) tướng quân Iemitsu cấm tàu Bồ Đào Nha, và phát lệnh bế quan tỏa cảng. Kirishitan đă bị đàn áp mănh liệt, nhiều tín đồ đă tuẫn đạo. Về mặt tín ngưỡng, khác với thời kỳ lấy thực lợi để bành trướng truyền giáo, thời kỳ nầy việc truyền giáo đă bị tắt nghẹn, v́ những h́nh phạt tàn khốc đối với tín đồ. Kết quả của điều nầy không những đă làm Kirishitan diệt vong, mà văn hóa Nam man có quan hệ với Kirishitan cũng hầu như bị biến mất. Trong đời sống của người Nhật, ngoài thuốc lá, kính mắt, những vật đă có gốc rễ, văn hóa Nam man đă bị quét sạch ra khỏi văn hóa Nhật, và những giao thiệp hào hoa với văn hóa tây phương chỉ là một giấc mộng trong một đêm ngủ.
Giao thiệp với văn hóa Tây phương
tuy chỉ có trong một thời gian ngắn, cũng
đủ để tầm mắt của người
Nhật rộng ra, đó là một thu hoạch
lớn lao nhất của thời đại
nầy. Năm 1585 (Tenshou năm thứ13) Oomura (大村),
Arima (有馬), Ootomo (大友), 3 lănh chúa ở Kyuushuu đă được
phái sang Âu châu, những người nầy đă
mang tặng giáo hoàng Roma tranh b́nh phong của phái
Kanou vẽ phong cảnh núi Azuchi. Tuy không có
dấu vết rằng tranh nầy có ảnh hưởng
trong mỹ thuật Tây phương, nhưng nó cho
thấy việc giao thiệp văn hóa giửa
Nhật và Tây phương không nhất thiết
chỉ có một chiều. Có thể nói đây là
một ngoại tiến văn hóa trước khi
tranh Ukiyoe (浮世絵) của Nhật gây ảnh hưởng
đến phái ấn tượng vào hậu
kỳ thế kỷ 19.
SỰ CỐ ĐỊNH CỦA TRẬT
TỰ PHONG KIẾN, ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
ÁP ĐẢO GIỚI TƯ TƯỞNG
Cấu tạo căn bản của xă
hội phong kiến mặc dầu đă được
thiết lập, nhưng các lănh chúa (大名) (Daimyou)
từ thời chiến quốc vẫn c̣n có
thực lực chưa thể coi thường
được. Xă hội chưa được
cố định, không khí tích cực có tính cách
thời đại của thời Momoyama, đến
đời tướng quân thứ 3, Tokugawa Iemitsu,
đă bắt đầu có biến chứng.
Mạc phủ với tư cách chính phủ trung
ương, có quyền thế không lay động
được. Các lănh chúa, đồng liêu
của họ Tokuguwa ngày trước, giờ đây
đă trở thành thần hạ, phục tùng
mạc phủ. Khí phách “hạ khắc thượng”
không c̣n dấu vết. Trật tự căn
bản của xă hội được củng
cố không thể lung lay được, đại
diện bằng việc phân chia 4 giai cấp “sĩ
nông công thương”.
Trật tự giai cấp nầy đă
vẽ ra một ranh giới không thể vượt
qua giữa giai cấp cai trị “vũ sĩ”
với giai cấp bị cai trị “hyakushou” (百姓) (nông dân) và “chounin” (町人)
(người đô thành
làm công thương) để bảo đảm
thu hoạch của vũ sĩ qua niên cống,
thuế hiện vật có thuế suất cao đánh
lên nông dân, những người trực tiếp
sản xuất. Dưới hyakushou và chounin có 2
giai cấp hạ tiện gọi là Eta (uế
đa) và Hinin (非人) (phi nhân).
Quan hệ trên dưới nầy không những
chỉ có giữa các giai cấp, mà tất cả
mọi liên hệ con người đều có
trật tự trên dưới, tôn ti. Trong giai
cấp vũ sĩ đương nhiên có quan
hệ chủ tùng, ở thường dân có honkei
(本家) (nhà chính)
và bekkei (別家) (nhà chia),
ở thương gia có chủ và người làm
thuê, ở nông thôn có địa chủ và tá
điền, ở thành thị có chủ nhà và người
mướn tiệm v.v… bất cứ đâu cũng
có trên dưới, tôn ti, thậm chí trong gia đ́nh
giữa cha con, chồng vợ, anh em đều có
phân biệt.
Từ thời Muromachi địa vị
của phụ nữ lần lần bị tụt
lùi, đến thời Edo, sự tụt lùi đạt
đến mức cực đoan qua nguyên tắc hôn
nhân “làm dâu”. Về cấu tạo căn
bản của xă hội, thời đại
nầy được coi là xă hội phong
kiến cổ điển, nhưng về quan
hệ gia đ́nh, nên so sánh với chế độ
nô lệ cổ điển của Hy lạp và La
mă th́ đúng hơn. Trường hợp của
nông dân và thương nhân hạ tầng, hơi
khác v́ vợ chồng con cái đều phải cùng
làm việc th́ mới sống được.
Ở những gia đ́nh mà gia trưởng có
một tài sản cố định như vũ sĩ
có bổng lộc, thương nhân có tiệm, nông
dân có đất, gia trưởng có quyền uy
thừa kế duy nhất, quyền uy nầy có tính
cách tuyệt đối, cưỡng chế
mọi ngườI trong gia đ́nh lệ thuộc
vào.
Người vợ trong hôn nhân làm dâu, khi
kết hôn sẽ đến nhà chồng với thân
phận đáng tội nghiệp. Vợ không có
một quyền lợi nào đối với tài
sản của nhà chồng. Dâu không phải là
vợ của người chồng mà là dâu
của nhà chồng, không thể tránh khỏi áp
lực của cha chồng hoặc mẹ chồng,
những đại biểu quyền uy nhà
chồng. Những phóng túng về t́nh dục
của chồng được xă hội thừa
nhận, đôi khi được khuyến khích,
mặc khác vợ có nhiệm vụ giữ trinh
thục với chồng, tội gian thông của
vợ bị coi là trọng tội, đáng
chết. Kết quả của việc công
nhận “một chồng nhiều vợ” đă
tạo ra một thân phận là “thiếp” ngoài
vợ chính. Thiếp cũng như vợ chính
đều có nhiệm vụ trinh thục với
chồng, nhưng khác với việc nhiều
vợ thời xưa, thiếp bị khinh miệt
và có thân phận hạ tiện như kẻ
ở đợ.
Đó là cách thức của xă hội phong
kiến nhằm duy tŕ quan hệ căn bản
giữa vũ sĩ và nông dân, để vũ sĩ
có thể thu hoạch từ nông dân một cách trường
cửu qua quan hệ phục tùng vô điều
kiện của người dưới đối
với người trên. Trật tự trên dưới,
tôn ti nầy đă được tổ chức
hóa ở mọi tầng lớp trong xă hội.
Quan hệ chủ tùng trong giai cấp vũ sĩ,
so sánh với thời vũ sĩ có chân đứng
ở nông thôn, không có thay đổi căn
bản trên quan hệ giữa “ơn” của
chủ quân với “bổng công” (trả ơn)
của gia thần. Nhưng sức quản lư
của chủ quân đă trở nên hết
sức mạnh mẽ v́ đại đa số vũ
sĩ ngoài lănh chúa ra, sống ở thành thị,
họ đă biến thành những người tiêu
phí có lương bổng bằng lúa gạo, do
đó họ đă mất đi thực lực
đối kháng với chủ quân.
Như sẽ nói ở phần sau, do tích lũy
dư dă của dân đô thành và sự thiếu
thốn tài chính của vũ sĩ, trên thực
chất quan hệ tôn ti giữa vũ sĩ và thường
dân giảm đi. T́nh cảm gia đ́nh được
bảo tŕ dưới quan hệ thân ḥa, vượt
qua quan hệ quyền lực. Trật tự trên dưới,
tôn ti của thời đại nầy không
nhất thiết đă chi phối mọi việc
trong sinh hoạt con người. Nhưng cấu
tạo căn bản của xă hội phong
kiến rốt cuộc đă giới hạn
hoạt động của con người trong
một khung hẹp. Tư tưởng để chính
đáng hóa quan hệ xă hội nầy là Nho giáo,
nhất là đạo đức của phái Chu
Tử, đă chiếm một địa vị to
lớn trong giới tư tưởng của
thời đại nầy.
Giới cần lao dân chúng vừa mới
lập được tổ chức hương
thôn, chưa kịp bắt đầu hướng
sang việc nâng cao địa vị xă hội, th́
đă bị giai cấp cai trị mới đóng
đinh dưới một chế độ
quản lư mănh liệt, nên rốt cuộc chỉ
biết tiếp tục tin vào Thần Phật như
từ xưa đến nay. Những lănh chúa
thời chiến quốc, những người
từ dưới leo lên giai cấp cai trị, mà
trên đỉnh là 3 anh hùng, đă là những người
không tin vào quyền uy của Thần Phật, cũng
không có ḷng tôn trọng đạo đức trên
giấy của Nho giáo. Tokugawa Ieyasu mời Fujiwara
Seika (藤原惺窩),
học giả phái Chu Tử, dùng Hayashi Razan (林羅山) của phái
đó, cho thiền tăng Suuden (崇伝), và tăng Tenkai (天海) đạo
thiên đài làm cố vấn, chỉ v́ theo
tập quán của những người cai trị
có từ thời Muromachi, và từ đó đă dùng
những học giả ngũ sơn[4],
chớ không phải v́ tin ở Thiền tôn
hoặc Nho giáo.
Trật tự phong kiến đă được
cố định. Cùng với những đ̣i
hỏi về học vấn trong xă hội đang
lên cao, Nho giáo nhất là học phái Chu Tử
đă được ư thức là một học
thuyết hữu hiệu trong việc duy tŕ xă
hội phong kiến về mặt luân lư. Từ
thời tướng quân thứ 5, Tsunayoshi (綱吉),
chính sách văn trị được áp dụng,
bỏ cách chính trị vũ đoán như từ
trước đến nay. Từ đó mạc
phủ đă tích cực khuyến khích Nho
học, cho Nobuatsu (信篤),
cháu của Razan (ḍng Hayashi), làm tổng trưởng
đại học, dời tư thục của ông
ta sang Shouheizaka (昌平坂), vùng Yujima (湯島), Toukyou để
đào tạo học sinh. Nhưng điều
nầy chỉ là một bảo hộ đặc
biệt cho ḍng Hayashi. Trường Shouheizaka
trở thành học phủ của giới quan
lại sau khi Matsudaira Sadanobu[5]
(定信) ra lịnh cấm học những học
thuyết khác với Chu Tử học vào năm
1790 (Kansei năm thứ 2). Từ đó Chu Tử
học được công nhận là học
thuyết duy nhất của giới quan lại
mạc phủ. Chu Tử học, đại
biểu cho Nho học, đă được coi là
triết học chính thống trong xă hội phong
kiến.
Lư luận của Chu Tử học đặt
trên nguyên lư vô biện chứng (h́nh nhi thượng)
lấy đối lập hai chiều (nhị nguyên)
của thiên địa, âm dương làm căn
bản cho trật tự trên dưới, tôn ti
trong xă hội con người. Lư luận nầy,
đối với giới cai trị thời phong
kiến là tư tưởng hết sức
tiện nghi. Hayashi Razan công kích Kirishitan với lư
do là Kirishitan bảo rằng trái đất tṛn, và
nếu trái đất tṛn làm ǵ có quan hệ trên
dưới giữa thiên địa. Trường
hợp có hai người, nếu không có tôn ti
giữa họ, th́ họ sẽ nắm biếu
nhau và trật tự không thể duy tŕ được.
Quân thần, phụ tử, phu phụ tất
cả đều phải theo trật tự trên dưới,
tôn ti và người dưới vâng theo người
trên th́ thiên hạ mới được thái b́nh.
Chu Tử học đă có một nội dung đáp
ứng được những yêu cầu chính
trị của giới cai trị phong kiến.
Văn kiện về đạo đức
trong sinh hoạt hằng ngày, điển h́nh là
quyển Yamato zokukun (大和俗訓) (Đại ḥa tục huấn) của
Kaibara Ekiken (貝原益軒)
và những sách thông tục giáo huấn khác.
Những sách nầy đă dạy rằng không có
tội bất trung nào hơn là phê phán quân
chủ, ngoài những người ở địa
vị đặc biệt không ai có quyền phê phán
chính trị quốc gia. Lại có chỗ dạy
rằng hết ḷng hiếu thảo với cha
mẹ, nâng giúp huynh trưởng là căn bản
của đạo đức con người. Đặc
biệt đáng chú ư nhất là giáo huấn liên
quan đến phụ nữ.
Ở phụ nữ có 7 điều gọi là
“thất khứ”, nếu phụ nữ phạm
1 trong 7 điều nầy, bị ly hôn cũng không
oán trách được. Không con, hoặc bịnh
tật là những điều ngoài ư muốn,
phụ nữ được giáo huấn lập
đi lập lại rằng không được
ghen ghét, nhiều lời, phận làm dâu phải
coi trọng và nghe lời cha mẹ chồng hơn
cả cha mẹ ḿnh, dẫu cha mẹ chồng không
thương yêu ḿnh chăng nữa cũng không
được hận thù, coi chồng như
chủ nhân của ḿnh, dẫu chồng có sai
lầm, cũng không được hận thù ghen
ghét. Những giáo huấn nầy đă giảng
dạy phụ nữ tùy thuộc, nô lệ vào gia
đ́nh chồng. Sách Onna Daigaku (女大学)
(Nữ Đại học) một sách có tiếng,
do một người nào đó mượn giáo
huấn của Ekiken viết ra, không những
chỉ có tính cách giáo huấn phụ nữ, mà
đă đề ra đạo đức phụ
nữ, tượng trưng lập trường
lệ thuộc của phụ nữ ở mọi
giai cấp trong xă hội phong kiến.
Tóm lại, những giáo huấn của Ekiken
trong đạo đức hằng ngày, không
phải là cách suy nghĩ đặc biệt
của Chu Tử học hoặc một học phái
nào đó, mà là một quy phạm đạo
đức chung, tổng quát trong giáo dục,
học vấn phong kiến, gồm chung Nho học
và Quốc học. Tư tưởng nầy, ít
nhất ngoài mặt đă công nhiên chi phối
giới tư tưởng thời nầy, là điểm
khác biệt lớn của xă hội phong kiến
khác với xă hội cũ xưa.
Nhưng tất cả tư tưởng
của xă hội phong kiến không nhất
thiết được thành h́nh theo tiện nghi
của giai cấp cai trị. Ở xă hội phong
kiến, có mâu thuẫn, có phát triển. Giới
tư tưởng cũng vậy, không phải lúc
nào cũng bị đ́nh trệ. Những phản
kháng với chủ nghĩa nghiêm trang, phi nhân
của Chu Tử, trước nhất xảy ra
trong nội bộ Nho học. Học phái phục
cổ nổi lên, t́m cách quay lại những
dạy bảo của Khổng Tử, Mạnh
Tử, bỏ đi lư luận có tính cách
triết học Phật giáo của Chu Tử.
Trước hết, Yamaga Sokou (山鹿素行)
đă viết Shougyou youroku (聖教要録) (Thánh giáo yếu lục) phủ định
Chu Tử học, kế đến Itou Jinsai (伊藤仁斎), xuất thân ở Kyouto đă đề
xướng triết học “nhất nguyên
luận” (một
chiều) thay thế cho thuyết “lư khí
nhị nguyên” của Chu Tử học, và lập
ra học phái Horikawa (堀川).
Sau đó Ogyuu Sorai (荻生徂徠) đề xướng Kobunjigaku (古文辞学)
(Cổ văn tự học), lập ra học phái
Ken-en,chống lại với học phái Horikawa.
3 học phái phục cổ nầy tuy có lư
luận triết học khác nhau, nhưng đă cùng
tôn trọng sự thực hơn những lư
luận không không. Sokou đă lập ra “Vũ sĩ
đạo học” dạy những điều vũ
sĩ cần tu dưỡng trong xă hội thái b́nh.
Jinsai sống hào hoa trong giới hào thương
Kyouto, Sorai làm cố vấn cho tướng quân
đời thứ 8, Yoshimune (吉宗), hợp tác
với chính sách củng cố trật tự phong
kiến. Những người nầy tuy có khác
nhau trong lập trường xă hội, nhưng
giống nhau ở chỗ có chủ trương tư
tưởng, đă là mầm móng cho cách thức
suy nghĩ hiện đại.
Những người khác như Nakae Touju (中江藤樹),
học giả chuyển từ Chu Tử học
sang “Dương Minh học” hoặc Kumazawa Banzan
(熊沢蕃山),
người cùng môn, đă chủ trương tính
đặc thù của phong thổ Nhật Bản,
từ đó luận về sự cần thiết
của một nền giáo dục, học vấn
đặc thù của Nhật Bản. Và Tominaga
Nakamoto (富永仲基) đă là một học giả triệt
để theo hướng của Banzan dạy.
Nakamoto là học giả Nho giáo, học ở
Kaitokudou (懐徳堂) (ở Oosaka)
đă lớn tiếng rằng Nho giáo là đạo
của Trung Quốc xưa, Phật giáo là đạo
của Ấn Độ xưa, Thần giáo là
đạo của Nhật xưa, không phải là
đạo của Nhật ngày nay. Những học
giả phục cổ và học giả phái Dương
Minh tuy đă thoát ra khỏi uy lực của Chu
Tử học nhưng vẫn ở trong khung
khổ của Nho giáo, một ḿnh Nakamoto đă có
tự giác cần phải sáng tạo ra một
triết học mới, hợp với hiện
thực lịch sử, bỏ những thành
kiến cũ. Tuy chủ trương nầy không
có nội dung tích cực, nhưng đă là
một lư luận dọn đường cho tư
tưởng mới, phi Nho giáo.
Thần đạo thời nầy, phái
kết hợp với Nho giáo gọi là “Nho gia
thần đạo” có ưu thế. Tuy vậy
vẫn có người từ một lập trường
đặc thù, phê phán kịch liệt tư tưởng
Nho giáo.
Masuho Zankou (増穂残口),
có kinh nghiệm trong sinh hoạt dân chúng b́nh dân,
đă chỉ trích đạo đức Nho giáo
đặt nặng trên nghi lễ h́nh thức, không
tôn trọng nhân t́nh, điển h́nh là những
hôn nhân không có yêu đương đă làm cho
nhiều người trở nên bất hạnh, và
chủ trương hôn nhân cần đặt trên
yêu đương. Zankou c̣n chủ trương
rằng dẫu bị giết v́ tội gian thông
đi nữa, cũng nên quán triệt với t́nh
ái chân thật của ḿnh, và cho rằng tư tưởng
nam tôn nữ ti là tư tưởng của Trung
Quốc, trong Thần đạo Nhật Bản nam
nữ có lập trường b́nh đẳng. Nhưng
tiếc là ư thức nầy, lấy sinh hoạt
tập quán thời xưa làm quy phạm để
phê phán đạo đức phong kiến, có
nhiều chỗ giống nhau với tư tưởng
của các học giả quốc học phục
cổ Thần đạo về sau.
Một thủ đoạn dùng để
cấm chế Kirishitan là chế độ
“terauke” (寺請), bắt toàn dân bố thí chùa chiền.
Kết quả của việc nầy đă cho
Phật giáo một địa vị như là
quốc giáo. Bảo hộ chính trị nầy
đă làm tăng lữ trụy lạc, gây ra
đ́nh trệ trong tư tưởng. Thời Edo,
Phật giáo có thế lực to lớn trong xă
hội, nhưng trong giới tư tưởng
đă hoàn toàn vô lực, biến thành một tín
ngưỡng ngu dân. Vào thế kỷ 17, tăng
Ẩn Nguyên người Minh, phái Thiền tôn
đến truyền Oubakushu (黄檗宗) (Hoàng bích tôn), ngoài ra không một tôn phái
nào khác được lập ra. Cùng với
việc biến tín ngưỡng trở nên
thấp hèn, mỹ thuật Phật giáo hầu như
không có một tác phẩm nào có giá trị. Duy
nhất vào thời nầy, những tượng
phật đầy cá tính với một số lượng
to lớn đă được khắc ra ở
mọi nơi trong nước Nhật khi tăng
Enkuu (円空) đi du lịch qua đó, là những tác
phẩm sáng lạng trong lịch sử mỹ
thuật Phật giáo Nhật Bản (h́nh 46). Thịnh
vượng của Nho học đă hiện ra
với h́nh thái là làm thay đổi vị trí mà
Phật giáo đă giữ từ trước đến
nay. Phật giáo dạy về hậu thế
hoặc về xuất gia (trong thực tế
cầu những lợi ích hiện thế), ngược
lại Nho giáo thuyết về đạo đức
và triết lư của hiện thế, thực
chất có tính chất chủ nghĩa hiện
thực. Nho giáo đối với kẻ bị cai
trị, giảng việc phục tùng vô điều
kiện, đồng thời đối với
kẻ cầm quyền, thuyết những điều
cần phải giữ của người cai
trị. Cùng với việc thịnh vượng
của Nho học, học môn “kinh thế tế dân”,
ngành chính trị học và kinh tế học ngày
nay, cũng trở thành phổ thông. H́nh tường Phật của Enkuu Đặc biệt là học phái Sorai có quan tâm mạnh mẽ đến chính trị và đă soạn ra nhiều sách về chính trị, kinh tế. Quyển “Chính đàm” của Sorai và quyển “Kinh tế lục” của Dazai Shundai (太宰春台), môn hạ của Sorai, rất nổi tiếng. Những người nầy không thỏa măn được với những triết lư trừu tượng, đă luận thẳng đến những vấn đề hiện thực của xă hội. Mặc dầu những mâu thuẫn của xă hội phong kiến đă bắt đầu xuất hiện nhưng v́ không dự đoán được con đường phát triển của lịch sử để khắc phục mâu thuẫn đó, nên kinh tế chính trị luận của thời đại nầy, so với những sách đồng loại ở thời hậu kỳ Edo, không hiện thực lắm. Sorai đă bảo rằng để lập lại trật tự xă hội cần phải nghĩ đến lợi ích của vũ sĩ và nông dân trước nhất, dẫu thương gia bị vỡ tiệm cũng không màng. Đứng trên lập trường lấy vũ sĩ làm trọng tâm để củng cố chế độ phong kiến, đương nhiên có lời nói như trên, nhưng với cách làm, đưa vũ sĩ về nông là điều không thực tế, ngược lại với thời thế, chỉ có tính cách không không. Giống như Sorai, chính trị kinh tế luận thời nầy được lập ra với mục tiêu duy tŕ trật tự phong kiến. Chủ nghĩa trọng nông coi trọng nông dân và nông nghiệp là nguyên tắc v́ nông nghiệp là sản nghiệp căn bản của xă hội phong kiến, cho nên cần phải giữ vững sức sản xuất nông nghiệp, duy tŕ thu hoạch, bảo hộ địa vị cai trị của vũ sĩ. Ở đây chủ nghĩa nầy không phải nhằm mục đích coi nông dân là những người đáng tôn trọng, cần phải cải tiến sinh hoạt. Trên thứ tự “tứ dân”, nông dân ở trên những người đô thành, nhưng trên thực tế họ phải chịu đựng nặng nề nhất. Có tục ngữ “nông dân và khăn vắt”, càng vắt th́ nước càng ra là biểu ngữ của những người thu thuế.
Trong xă hội phong kiến mà chủ nghĩa
trọng nông có ư nghĩa như trên, đời
sống của nông dân đă bị kềm
chế ở mức độ thấp kém chỉ
vừa đủ để duy tŕ sức sản
xuất trở lại. Những người
cầm quyền đă không ngừng can thiệp vào
đời sống hằng ngày của nông dân, như
ra huấn thị không được ăn
mặc đồ lụa, phải bỏ vợ
nếu vợ uống trà v.v… Dẫu không bị
người cầm quyền cưỡng chế
đi nữa, với những bốc lột
từ trên, để sinh hoạt không bị đổ
vỡ trong nền kinh tế hàng hóa, nông dân
phải chịu một mức sống thấp kém
tàn tệ, trong khi phải làm việc như súc
vật. Thời Edo văn hóa thường dân
rất thịnh vượng, nhưng đây
chỉ là văn hóa của dân đô thành.
Những người cần lao đầu tắt
mặt tối ở nông thôn, không có một phát
triển văn hóa mới nào đáng kể. Trong
thời xă hội phong kiến bành trướng, văn
hóa không tập trung ở thành thị, và năng
lượng thúc đẩy lịch sử tiến
bộ có thể nói là xuất phát từ nông thôn,
nhưng đến thời Edo khoảng cách
giữa nông thôn và thành thị đă rộng ra.
HỌC VẤN THỊNH HÀNH VÀ GIÁO DỤC
PHỔ CẬP
Không những chỉ Nho học,học
vấn thời nầy cũng rất thịnh hành.
Một là sử học, sử học lúc nầy
có 2 chương tŕnh tu sử đại qui mô
trong ḍng Hayashi và ḍng Tokugawa ở Mito (水戸).
Sự nghiệp tu sử của ḍng Hayashi
bắt đầu từ thời Razan, đến
đời con Shunsai, 310 quyển “Honchoutsuugan” (本朝通鑑)
(Bản triều thông giám) được hoàn thành.
Công việc tu sử ở Mito do lănh chúa Mitsukuni (光圀) lập kế hoạch, dùng nhiều quan
sứ biên soạn và đến năm 1699 (Nguyên
Lục năm thứ 12) , một phần của
bản kỷ (本紀)
(Hongi) và liệt truyện (列伝) (Retsuden) đă được chuẩn
bị xong. Sau đó sự nghiệp nầy
vẫn được tiếp tục, đến
năm 1906 (Minh trị 39) tập “Dai Nihonshi” (大日本史)
(Đại Nhật Bản sử) được
hoàn thành, bao gồm 397 quyển. Đây là một
sự nghiệp văn hóa dài hạn, to lớn chưa
có từ trước đến nay. Sách do học
giả Nho học viết nên có nhiều luận lư
đặt căn bản trên danh phận Nho giáo.
Tuy vậy thái độ viết sử dựa vào
điều tra sử thật, rất quán
triệt. Ngoài phần thần thoại không có căn
cứ, những phần kư thuật căn cứ vào
tài liệu lịch sử đều được
chú kư. Điều nầy cho thấy rơ rệt
đă có tinh thần nghiên cứu lịch sử
với tính cách khoa học vào thời nầy.
Arai Hakuseki (新井白石),
bộ hạ thi hành chính sách văn trị
của 2 tướng quân đời thứ 6,
Ienobu (家宣),
và đời thứ 7, Ietsugu (家継), là một sử gia để lại
nhiều thành quả xuất sắc. Trong Tokushi
yoron (読史余論) (Đọc sử dư luận), Hakuseki
lần đầu tiên đă chia lịch sử
Nhật ra nhiều thời đại một cách
hợp lư. Tác phẩm Koshitsuu (古史通)
(Cổ sử thông) t́m cách giải thích hợp lư
những chuyện thần thoại, bằng cách
coi những chuyện nầy là những tỉ
dụ lịch sử, tác phẩm Hankanfu (Phiên hàn
phổ) viết về sử của các phiên (lănh
địa của các lănh chúa) là những tác
phẩm xuất sắc.
Sau sử là nông học. Để duy tŕ và
tăng cường sức sản xuất nông
nghiệp, ngoài những nâng đỡ bằng chính
sách, cần có những nghiên cứu kỹ
thuật canh nông hợp khoa học. Quyển
“Nougyou zensho” (農業全書)
(Nông nghiệp toàn thư) của Miyazaki Yasusada (宮崎安貞)
là một thành quả của những nỗ
lực về học vấn theo nhu cầu của
xă hội. Giáo dục sơ đẳng Teragoya Mặt khác, sự phát triển của toán Nhật (Ḥa toán) là điều đặc biệt đáng chú ư. Nghiên cứu về toán Nhật của Seki Takakazu (関孝和) (mất vào năm 1708) được coi như đạt tới lănh vực vi, tích phân. Trước khi Newton và Leibniz nghiên cứu về số học cao đẳng, toán Nhật đă phát đạt một cách dị thường. Nhưng toán ở Âu châu đă tiến bộ hợp lư để trở thành cơ sở cho khoa học tự nhiên và kỹ thuật ứng dụng, trong khi toán Nhật chỉ là tṛ du hí để giải những đầu đề khó hiểu, nên không thể phát đạt thành một môn học có hệ thống. Điểm nầy cho thấy, với sự thiếu thành thục tinh thần khoa học hợp lư của Nhật Bản, toán Nhật có vận mệnh đáng thương v́ đó chỉ là một tiến bộ dị h́nh cô lập có tính cách thợ khéo tay (職人芸) (Shokunin gei).
Học vấn thời nầy thịnh hành là
kết quả của những yêu cầu về văn
hóa cao lên trong lúc thái b́nh. Thời trước,
chỉ có chùa chiền là cơ sở giáo dục
có tổ chức, nên muốn giáo dục con cái
phải gởi con cái vào chùa. Thời nầy có
thầy ở terakoya (寺子屋) (giáo dục
sơ đẳng) dạy đọc sách, viết
chữ (h́nh 47). Nhờ đó, giáo dục
được phổ biến trong dân gian.
Ở Nhật, từ trước đến
nay tuy có một số sách về Phật điển
hoặc một vài sách khác đă được
xuất bản bằng ấn loát ở Heijoukyou
hoặc ở “ngũ sơn” vùng Kyouto nhưng
hầu hết sách được sao bằng tay
để đọc. Đến thời Edo,
xuất bản trở thành công việc doanh
lợi, ở thành phố có nhiều tiệm sách
được mở ra, sách
ấn loát trở nên phổ thông, giúp cho
việc phổ cập trí thức. Một điểm
khác với những thời đại trước
là văn nghệ thường dân đă được
sản xuất để buôn bán. Tuy những người
trong giới cai trị thời phong kiến không
muốn trí thức của dân chúng được
khai thác, nhưng tiến bộ của nhân trí
đă đi đến chỗ không chận
lại được nữa.
SỰ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT CỦA
NGƯỜI THÀNH PHỐ
Khuynh hướng phát triển kinh tế hàng
hóa cùng với địa vị xă hội lên cao
của người thành phố đă là căn
nguyên lịch sử đưa đến việc
khai thác trí thức rộng răi trong giới thường
dân. Duy tŕ sản xuất nông nghiệp để
từ đó có trưng thu tối đa từ nông
dân là điều kiện trọng yếu để
xă hội phong kiến sinh tồn. Phát triển
kinh tế hàng hóa ngược lại là một
hiện tượng có hại có thể phá tan cơ
cấu căn bản nầy của xă hội.
Thế nhưng tiến triển kinh tế hàng hóa
đă lập ra những vùng kinh tế rộng răi,
làm xă hội phong kiến vững chắc. Khi thái
b́nh đến, mâu thuẫn có từ xưa
nầy trở thành trầm trọng. Nông dân và vũ
sĩ, những người sống dựa vào
vật sinh sản của ruộng đất,
trở nên nghèo khốn. Thương nhân,
những người có tư bản thương
nghiệp, tương đối mạnh ra. Trong toàn
thể, địa vị xă hội của dân thành
phố nầy lần lần được lên
cao.
Nhân khẩu tập trung vào thành phố.
Thời trước, Kyouto có khoảng 100 ngàn dân,
Sakai có 30 ngàn, Kamakura có 10 ngàn. Vào khoảng
giữa thời nầy, Edo có 500 ngàn dân, Oosaka có
300 ngàn. Do đó những yêu cầu của dân thành
phố đă được phản ánh rơ
rệt trong giới văn hóa. Văn hóa của dân
thành phố phồn vinh. Ngay trong lănh vực
học vấn, một lănh vực phản ánh
những yêu cầu của vũ sĩ, đă có
những học giả ưu tú xuất thân
từ dân thành phố như Itou Ninzai, Tominaga
Nakamoto như đă viết ở phần trước.
Trong giới nghệ thuật, dưới sự
bảo hộ của vũ sĩ, Sarugaku nou và tranh
hội họa phái Kanou tiếp tục giữ
những dạng thức cũ kỹ, mất
sức sống nghệ thuật. Mặt khác, phía
vũ sĩ, họ đă bị kiềm chế
bởi những h́nh thức lễ nghĩa,
luật pháp của Nho giáo và của vũ sĩ
đạo nên họ đă không biểu hiện
được những chân t́nh mặt trong
của ḿnh.
Từ trước đến nay, thường
dân không bao giờ nắm được quyền
chủ đạo trong giới văn hóa, đến
đây, lần đầu tiên họ có một
địa vị chủ đạo toàn diện
trong giới văn hóa. Văn hóa thường dân,
nói đúng hơn nghệ thuật, văn hóa
của người thành phố toàn thịnh.
Nói đến nghệ thuật của dân thành
phố thời Genroku (元禄)[6],
đầu tiên phải kể haikai (俳諧) (thơ đùa,
thơ châm biếm). Vào năm 1681 (Tenwa nguyên niên)
ẩn sĩ Matsuo Bashou (松雄芭蕉),
đă lập ra phái haikai chính thống mới,
đưa haikai từ một liên ca có tính cách hài
hước thành một nghệ thuật sâu xa.
Haikai của Bashou phát huy đặc sắc
nhất ở điểm diễn tả cảm giác
buồn bă, lặng lẽ của thiên nhiên
với tinh thần thoát tục, cao nhă với tâm
trạng tôn giáo của thời trước. Haikai
có nguồn gốc ở ḥa ca nên đề tài thường
có một h́nh thức nhất định,
giới hạn trong thiên nhiên và nhân t́nh. Nhưng
Bashou, đă lấy đề tài cho nghệ
thuật của ḿnh từ những sự việc
hằng ngày xung quanh với cái nh́n ấm áp.
Haikai của Bashou đúng là nghệ thuật đại
chúng của thời đại nầy.
Câu đầu trong haikai lần lần
được ngâm độc lập ra, tạo ra
một h́nh thức thơ ngắn với 17 âm
đọc, hiếm trên thế giới. Hiện tượng
quan trọng ở đây là haikai đă là một
nghệ thuật phổ cập, không chỉ
một số ít thi sĩ, mà cả đại chúng
rộng răi ai cũng có thể ngâm được.
Tuy nhiên v́ là thơ đại chúng, ngắn
gọn dễ ngâm nên thơ nầy dễ đi
đến chỗ trụy lạc mất tính cách
điêu luyện về nghệ thuật. Nhưng
haikai của Bashou đă giữ được
một cân bằng thích thú giữa tinh thần
nghệ thuật cùng tính cách đại chúng
giản dị, khai thác được một tâm
trạng nghệ thật sâu xa.
Thư hai phải kể đến những
tập truyện Ukiyo (浮世)
(Phù thế)[7].
Truyện Ukiyo biến h́nh từ những tập
truyện chữ kana (katagana), có nguồn gốc
truyện cổ tích thời trước. Ihara
Saikaku (井原西鶴),
nhà thơ haikai đă khéo léo dùng phương pháp
của haikai, diễn tả h́nh thái sinh hoạt
của dân thành phố, qua những tả thực
bén nhọn. Có thể xem đó là một h́nh
thức độc đáo, tạo ra một phong trào
trong văn nghệ sử. Tác phẩm của
Saikaku có tính cách haikai mạnh mẽ, thời sơ
kỳ có truyện dài “Koushoku Ichidai otoko” (好色一代男)
(Một đời đàn ông háo sắc) và
“Koushoku Ichidai onna” (好色一代女)
(Một đời đàn bà háo sắc), tuy
yếu về mặt phân bối cấu tứ,
giống như truyện mẫu Genji monogatari, nhưng
trong truyện có những quan sát bén nhọn
về thực trạng dành dụm, kiếm
lời, khoái lạc của dân thành phố.
Thời văn niên có truyện “Seken munesanyou” (世間胸算用) (Chuyện tính
toán của thế gian) “Saikaku Okimiyage” (西鶴置土産) (Quà để lại của Saikaku) đă nói lên t́nh
trạng khốn cùng, chạy ăn từng ngày
của mọi người. Những tác phẩm
nầy cho ta thấy điểm cao của văn
nghệ tả thực của Nhật Bản.
Thứ ba phải kể đến “Kịch
búp bê Joururi” (人形浄瑠璃).
Thời xưa trong dân gian đă có những tṛ múa
dùng búp bê. Búp bê đă được dùng như
bùa chú trong nghi thức tôn giáo. Nhưng lần
lần những tṛ múa nầy trở thành tṛ
giải trí. Mặt khác, thời chiến quốc
người ta đă dùng Joururi (浄瑠璃)[8]
ḥa với Shamisen (三味線) (đờn
được chế biến từ đờn
“tam huyền” nhập từ Ryuukyuu (琉球) (Okinawa) ) gọi là “nhạc Joururi” để kể
truyện. “kịch búp bê Joururi” là một ḥa
hợp giữa diễn nghệ nhạc Joururi
với múa búp bê. Kịch trường Kabuki Thời
Edo sơ kỳ, người ta thích những
kịch búp bê Joururi có những động tác hào
hoa dùng bùa phép. Nhưng đến cuối
thời Genroku, Takemoto Gidayuu (竹本義太夫)
đă làm ra những khúc nhạc Gidayuu, đồng
thời Chikamatsu Monzaemon (近松門左衛門)
đă sáng tác nhiều kịch búp bê Joururi
nổi tiếng kiểu Gidayuu và đă đưa
nghệ thuật nầy đạt đến
mức cao thượng. Tranh mỹ nhân của Moronobu Thứ tư
phải kể đến Kabuki (歌舞伎)[9].
Kabuki có gốc từ “Okuni kabuki” (阿国歌舞伎) do ni cô tên “Izumo no Okuni” (出雲阿国)
hợp tác với “Nagoyasan Saburou” (名古屋山三郎) tŕnh diễn, lưu hành ở thời
Ieyasu. Sơ kỳ, kabuki chỉ là tṛ múa
đơn thuần, nhưng sau đó lần
lần có cấu tạo của kịch và trở
thành diễn kịch. Đến thời Genroku, có
những kép hay như “Ichikawa Danjuurou” (市川団十郎),
Sakata Toujuurou” (坂田籐十郎) ra đời, và nội dung lần
lần lên cao. Kịch trường cũng
vậy, lúc ban đầu, chỉ là những dàn
kịch ngoài trời bắt chước kiểu dàn
kịch Nou, khách ngồi dưới đất xem
kịch. Sau đó lần lần kabuki được
diễn trong những dàn kịch có mái nhà, có hai
tầng ngồi cho khán giả, có đường
ra vào sân khấu (gọi
là đường hoa) cho diễn viên, có trang bị
màn kịch (h́nh 48).
Sự xuất hiện của những ṭa nhà
cho công chúng như kịch trường kabuki, là
việc chưa có từ trước đến
nay, đă là một biểu tượng nói lên
sự phát đạt những thiết bị văn
hóa đại chúng thường dân của
Nhật trong thời nầy.
Thời trước, ta có Yamatoe điêu
luyện trong tranh phong tục. Phái Kanou cũng
đă vẽ rất nhiều tranh về phong
tục hiện đại. Lần lần cách
vẽ nầy đă được truyền ra
trong giới thợ vẽ dân gian thành phố.
Nhiều tranh phong tục đă được
vẽ ra trong đó có những tranh như “Yuna no
kyoutai” (湯女の嬌態)
(Uyến rủ của
du nữ). Với truyền thống nầy,
Ukiyoe thích vẽ tranh du nữ. B́nh trà của Nonomura Ninsei Đặc sắc của ukiyoe là có thể in ra hằng loạt và bán với giá rẻ, nhờ vậy dân chúng dễ mua. Đây là hiện tượng song song với sự phổ cập của sách văn nghệ ấn loát ukiyo. Ukiyoe đáng được đánh giá là nghệ thuật dân chúng, không phải v́ ukiyoe vẽ mặt của du nữ, đào kép, lực sĩ, những đề tài quen thuộc đại chúng, mà c̣n đáng đánh giá ở h́nh thái phân phối của nó. Kỹ thuật dùng bản để in tranh nầy ban đầu chỉ in được tranh một màu, sau đó dùng màu đơ làm màu in chính, kế tiếp, màu vàng và lục được in thêm lên tranh, tranh nầy được gọi là Shuzurie (朱摺絵) (tranh in châu).B́nh phong của Ogata Kourin Sau hết phải kể đến công nghệ. Đời sống của dân chúng được phát đạt nên mức tiêu thụ tăng lên. Nhờ đó nhiều sản phẩm công nghệ, mỹ thuật được sản xuất và được phân phối rộng răi trong dân gian (nói đúng hơn là giai cấp giàu có ở thành phố) và không c̣n bị độc quyền chiếm hữu bởi giai cấp cai trị nữa. Ở thời đại chưa có máy móc để sản xuất, chưa có công xưởng công nghiệp, trong việc sản xuất những sản phẩm như sơn mài, đồ gốm, nhuộm dệt v.v…thời nầy cũng có đầy đủ điều kiện sinh ra những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, v́ đă được chế biến tỉ mỉ bởi những tay thợ lành nghề. Tỉ dụ như sơn mài phết vàng của OgataKourin
(緒方光琳) hoặc đồ gốm của Ogata
Kenzan (緒方乾山),
của Nonomura Ninsei (野々村仁清) (h́nh 50) là những mỹ thuật công
nghệ xuất sắc. Kourin đă là một tác
giả nổi tiếng về tranh trang sức, có
địa vị độc đáo trong lịch
sử hội họa, đă xúc tiến cách
vẽ của Soudatsu thành tranh mẫu (h́nh 51). Cách
nầy có được v́ ông ta là một nhà công
nghệ mỹ thuật.
ĐẶC SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN THÀNH
PHỐ THỜI GENROKU
Đời sống của dân thành phố
đă phát đạt ở mọi mặt. Từ
thờ Momoyama, thành phố lớn có nhiều
tiệm buôn hai tầng. Đến thời Edo,
nhiều nhà kho vách đất (土蔵造) (dozouzukuri) (h́nh 52) được cất
ra với mục đích tránh hỏa hoạn. Phong
cảnh của những căn nhà liên tục có vách
đất, mái ngói hiện ra ở Edo.
Thời Genroku phong tục trên dưới
đều trở nên hoa mỹ, trang phục hào
hoa thành mốt. Phong tục của dân thành
phố, nh́n mắt có vẻ xa xỉ hào hoa, nhưng
y phục không nhất thiết đă phát đạt
một cách hợp lư. Sinh hoạt “ngồi trên
chiếu” thịnh hành, nhất là ở đô thành
đôi lúc ngồi trên chiếu suốt ngày, đă
đưa ra một h́nh thái g̣ bó, bất tiện
trong phục sức. H́nh thái căn bản của
áo Nhật (ḥa
phục) ngày nay có suso (裾) (chân áo) dài và tamoto (袂) (tay
áo) rộng, được hoàn thành thời
nầy, thiếu tính sản xuất, phù hợp
với sinh hoạt của dân thành phố. Trang
phục nầy không thể nào phù hợp với
đời sống nông thôn nơi lao động
chân tay từ sáng đến tối. Nông dân canh tác
cho đến cận đại vẫn tiếp
tục mặc áo chân ngắn, tay ống chật,
quần bó, những y phục có tính sản
xuất. Kho nhà vách đất của nhà buôn Tính bất hợp lư của ḥa phục có một h́nh thái cực đoan trong trường hợp phụ nữ, có tay áo thùng th́nh, lưng thắt to. Điều nầy liên quan đến hiện t́nh nói trước cộng với địa vị thấp kém của phụ nữ thời nầy. Phụ nữ không có vai tṛ sản xuất, mất tự do hoạt động tự chủ, đă rớt xuống địa vị chỉ là đối tượng t́nh dục của nam giới. Phụ nữ trong tầng lớp vũ sĩ hoặc dân thượng lưu thành thị, những người không cần sản xuất, cũng đă phải cam nhận những trang phục thiếu tự nhiên để bày tơ vẻ thùy mị (女らしさ) (onnarashisa) như búp bê của ḿnh. Không thể bảo “ḥa phục” ngày nay là trang phục truyền thống của Nhật v́ những đặc sắc của ḥa phục ngày nay đă được thành h́nh trong t́nh trạng đặc biệt của xă hội thời nầy.
Nói một cách tổng quát văn hóa đô
thành vừa có tính cách lành mạnh dân chúng
vừa có tính cách hưởng thụ khoái
lạc. Tinh thần truy cứu tự do b́nh đẳng,
phản kháng đạo đức ngụy
thiện phi nhân của giai cấp cai trị đă
được bày tỏ mạnh mẽ, cho
thấy văn hóa đô thành đă giữ
một vai tṛ lịch sử có tính cách tiến
bộ, tiền phong trong thời đại
mới, nhưng đồng thời chính như
Saikaku người đă cho nhân vật trong tác
phẩm ḿnh chủ trương tự do luyến
ái chống lại đạo đức chính
thống cố giữ quan hệ phu phụ ở t́nh
trạng trên dưới tôn ti, coi tất cả
những quan hệ ngoài phu phụ là bất nghĩa,
cũng đă để cho luyến ái trong
truyện kết thúc ở chỗ khẳng định
bản năng thỏa măn nhục dục.
Chữ ukiyo trong sách hoặc trong tranh như
đă nói ở phần trước có nghĩa là
phong tục hiện đại, nhưng sự
thật lại c̣n có nghĩa là háo sắc. Hơn
30% tranh của Moronobu (師宣) đă
vẽ việc giao cấu và truyền thống
đó vẫn được giữ trong ukiyoe
hậu kỳ. Tính cách phóng khoáng về t́nh
dục là một truyền thống của
Nhật từ xưa, nhưng không phải không
quan hệ với khuynh hướng văn hóa nêu
trên của dân thành phố thời nầy.
Tín ngưỡng tôn giáo của người
thành phố mất đi tính cách lo sợ
việc hậu thế, chỉ hướng về
lợi ích, cầu nguyện Phật, Thần để
được làm ăn phồn thịnh. Điều
nầy biểu hiện nhân sinh quan có tính cách
hiện sinh tổng quát của thời đại,
nhưng đó cũng là v́ họ đă thiếu
giác ngộ đứng đắn về bản
chất của đời người.
Tính cách văn hóa thành phố nầy nói cùng
v́ nó mọc rễ từ địa vị
lịch sử của người làm văn hóa. Nói
rằng địa vị xă hội của người
thành phố lên cao, nhưng đó chỉ có
thể nói được trong khung cảnh xă
hội phong kiến. Người thành phố
thời nầy sống kư sinh vào thể chế
phong kiến, lấy giai cấp vũ sĩ làm khách
chính của ḿnh, khác với tư sản Âu châu,
những kẽ đă đấu tranh với phong
kiến, dẫn xă hội đến chủ nghĩa
tư bản hiện đại. Khó hy vọng văn
hóa thành phố có những yếu tố mới
mẽ, ngoài việc dung ḥa những méo mó của
văn hóa phong kiến.
Lời nói của nhân vật trong kịch búp
bê Joururi, cho thấy người thành phố có
tự giác là vũ sĩ và người thành
phố đều b́nh đẳng là con người.
Người thành phố tuy hănh diện với “đạo
thành phố” của ḿnh, đặc lư tưởng
trên doanh lợi, sinh tiền đối lập
với “đạo vũ sĩ”, nhưng họ
đă không thể nghĩ được đến
việc thay đổi khách quan trật tự giai
cấp hiện tại. Họ biết rằng tuy
họ có thực lực về kinh tế, nhưng
nếu vũ sĩ dùng vũ lực, họ không
thể đương đầu được,
Người thành phố không có hoạt động
sản xuất, hoặc những hoạt động
tiến bộ nào, chỉ đi đi lại
lại trên đường dành tiền và tiêu phí.
Để phát huy sức mạnh của đồng
tiền, họ đă đi vào hướng t́m khoái
lạc xa xỉ không lành mạnh. [1] Taikoukenchi:
đo lường, phân cấp ruộng vườn.
Toyotomi Hideyoshi đă cho đo lường, phân
cấp ruộng vườn ra thành 4 loại: thượng,
trung, hạ, hạ hạ, định số lúa
có thể thu được theo đơn
vị “goku” (khoảng 180 lít) và lấy đó
làm tiêu chuẩn phân chia đất đai cho lănh
chúa. [2] Thời
Azuchi Momoyama: Azuchi Momoyama là một thị
trấn ở tỉnh Shiga, Oda Nobunaga đă cho xây
thành làm căn cứ của ḿnh ở đó và
thời đại Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi
nắm quyền (1573-1598) được gọi
là thời Azuchi Momoyama. [3] Thuyền
shuin: thuyền có h́nh dạng giống như
ấn chỉ (chu ấn: ấn của vũ tướng
thời Muromachi) được cấp phép
đi mậu dịch ở hải ngoại,
đặc biệt ở miền Trung VN và đảo
Lu-xông của Phi-Líp-Pin. [4] ngủ
sơn: một cách thức thiền tự
bắc chước chế độ ngủ sơn
của nhà Tống. Chính phủ định 5
thiền tự tối cao, bổ nhiệm
chức vụ “Trụ tŕ”, tập họp
những cao tăng và học giả vầo
đó. [5] Matsudaira
Sadanobu: người giữ chức “Lăo trung”
(quan nhiếp chính trực thuộc tướng
quân giữ nhiệm vụ quản lư các lănh
chúa) thời hậu kỳ Edo. [6] Genroku:
niên hiệu của thiên hoàng Higashiyama. Thời
Genroku dưới sự thống trị của
tướng quân Tokugawa đời thứ 5, là
thời thái b́nh, chính trị an định,
học vấn, văn hóa thịnh hành, đời
sống và văn hóa dân thành phố lên cao. [7] Ukiyo:
tiếng tạo ra từ chữ 憂き世 (ukiyo: thế giới
ưu sầu) và 浮世(ukiyo:
thế giới nổi) để chỉ
một thế giới vô thuờng, lấy
sự sống làm khổ sở. Ở đây có
nghĩa là chuyện trần tục. [8] Joururi:
thời Muromachi mạt kỳ, có chuyện
kịch nói về “cô gái Joururi” kể theo
nhịp quạt giấy và đàn t́ bà,
được nhiều ngườI ưa thích.
Sau đó chuyện kịch kiểu nầy phát
triển ra thành diễn kịch múa rốI búp
bê với tiếng đàn ba dây (Shamisen). [9] Kabuki:
diễn kịch nhảy múa của Nhật
Bản, có âm nhạc, có khán đài. Chuyện
kịch thường viết về lịch
sử, truyền thuyết hoặc chuyện xă
hội.
|
[ Trở về ] - [ Xem tiếp chương 7 ]