|
CHƯƠNG
7 VĂN HÓA THỜI KỲ
PHONG KIẾN SUY SỤP VĂN
NGHỆ THÀNH PHỐ CHÍN RỤC VÀ TRẬT TỰ
PHONG KIẾN LUNG LAY
Kinh tế hàng hóa phát triển khiến độ
nghèo khổ của vũ sĩ và nông dân ngày càng
trở nên trầm trọng. Năm 1716 (Kyouhou nguyên
niên) Tokugawa Yoshimune (徳川吉宗) tựu chức tướng quân thứ 8,
cho thi hành Kyouhou no kaikaku (享保の改革) (cải cách thời Hưởng Bảo)
nhằm mục đích đè ém xu thế nầy
để lập lại trật tự phong
kiến. Dưới thời tướng quân
thứ 10 Ieharu (家治),
từ năm 1767 Tanuma Okitsugu (田沼意次) nắm thực quyền đă thông đồng
với những thương nhân được
đặt hàng, đưa ra chính sách mới. Chính
sách nầy ngược lại có chiều hướng
thích ứng với sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa. Qua việc ngầm
thỏa thuận nầy, thương nhân có
thể làm được mọi việc bằng
sức mạnh của đồng tiền,
việc nầy lộ rơ một cách công nhiên, nên
bị phê phán và Tanuma đă bị cách chức. Năm
1787 (Tenmei năm thứ 7), dưới đời tướng
quân thứ 11 Ienari (家斉), Matsudaira
Sadanobu (松平定信)
tựu chức “Lăo trung” (quan
nhiếp chính dưới tay tướng quân),
và vào năm 1789, ông nầy đă cho thi hành chính
sách Kansei no kaikaku (寛政の改革) (cải cách thời Khoan Chính). Chính sách
có tính cách phục cổ nầy nhằm chỉnh
tề kỷ cương, bổ sung tài chính,
khuyến khích cần kiệm, tránh xa xỉ,
cứu tế vũ sĩ, ngăn chận hoang
phế nông thôn.
Nhưng năm 1793 (Kansei năm thứ 5)
Sadanobu về hưu, Ienari lấy lại thực
quyền, chính sách chỉnh tề đổ
vỡ, trên dưới đua nhau hưởng
lạc. Thời văn hóa chín rục thường
được gọi là thời “Văn Hóa Văn
Chính”[1]
mở màn. Trong t́nh thế đó, dưới
thời tướng quân thứ 12 Ieyoshi (家慶),
Mizuno Tadakuni (水の忠邦) tựu chức “Lăo trung”, đă t́m cách
thi hành Tenho no kaikaku (天保の改革) (cải cách thời Thiên Bảo). Đây
là nỗ lực cuối cùng của mạc
phủ nhằm chấn hưng chế độ
phong kiến, ngoài khuyến khích cần kiệm,
chỉnh tề phong tục, chỉnh lư tài chính, c̣n
thi hành chính sách có tính cách trung ương
tập quyền như kiểm soát trực
tiếp đất đai trong ṿng 10 dậm xung
quanh Edo, đặt thương nhân mới ở nông
thôn dưới sự cai trị trực tiếp
của mạc phủ v.v…Nhưng chính sách
nầy đă bị phản đối từ
mọi mặt và năm 1843 (Thiên Bảo năm 14)
Tadakuni bị cách chức, từ đó Edo mạc
phủ bước lên đường suy vong.
Để đối ứng với những
mâu thuẫn càng ngày càng mạnh mẽ nầy, chính
trị đă thay đi đổi lại trong 2 chính
sách hoặc là can thiệp có tính cách phục
cổ đè ép đại chúng, hoặc là
bất can thiệp có tính cách hiện thực theo
chiều đại chúng. Trong trường hợp
chính sách phục cổ được thi hành, ngược
lại ư đồ của người
cải cách, nền kinh tế hàng hóa vẫn
tiếp tục phát đạt, và tiếp tục
làm cho xă hội phong kiến biến chất. Trong
những thời kỳ có cải cách phục
cổ, luôn luôn có những chính sách chỉnh
tề phong tục, và những quản lư nghiêm
khắc đối với
văn hóa thành phố. Dưới áp bức
của quyền lực, văn hóa đă không phát
triển theo hướng lành mạnh được.
Áp bức nầy đă không ngăn cản
được tính cách đồi trụy, chín
rục của văn hóa thành phố, ngoài mặt
giả vờ tuân theo quyền lực, thuận
theo chính sách, nhưng sau lưng lại t́m cách
thỏa măn dục vọng lén lút ở nơi khác,
và đă đưa đến kết quả có tính
cách không lành mạnh.
Người thành phố đă không có đủ
sức vạch ra một hướng đi mới
trong lịch sử. Sinh hoạt của họ
chỉ có thể làm cho văn hóa tiêu phí trong
thời thái b́nh chín rục, không thể trở
thành một điều kiện lịch sử
đủ để tích trữ năng lượng
tạo lập ra một thời đại
mới. Tuy vậy, như sẽ nói ở phần
sau, cũng cần phải đánh giá cao những
cải tiến trong văn hóa thành phố, đă
nâng đỡ những vận động của
giới tư tưởng, giới học giả,
những người t́m cách thoát ly lư thuyết
phong kiến. Nhưng khi so sánh với thời
Genroku, đặc biệt về nghệ thuật,
nghệ thuật thành phố của thời phong
kiến suy sụp mà “Văn Hóa Văn Chính” là
chính yếu, đă giống như nghệ
thuật quí tộc thời hậu kỳ Heian.
Nghệ thuật nầy tuy tinh tuư điêu
luyện về chất, nhưng đó chỉ là
những phát triển cực hạn trong ngơ
hẻm, không có liên kết trực tiếp
với đại lộ tiến bộ chính
yếu mạnh mẽ của lịch sử. Dưới
đây là những khảo sát cụ thể
về những lănh vực nghệ thuật
của thời đại nầy.
Về văn nghệ, sách Ukiyo thịnh hành
nhất thời Saikaku, nay đă biến thành
những truyện khí chất loại h́nh (viết
về đặc tính cảm t́nh của một
loại ngườI nào đó) rồi suy tàn
dần. Sau đó tiểu thuyết đă phân hóa
và lưu hành thành những sách như yomihon (読本) (sách đọc),
kusazoushi (草双紙) (sách có tranh),
sharebon (洒落本) (sách chơi
bời kiểu cách, buồn cười),
kokkeibon (滑稽本) (truyện
kỳ dị), ninjoubon (人情本) (truyện nhân
t́nh) v.v…
Yomihon thường là những truyện dài
lấy đề tài ở lịch sử. Nổi
tiếng là truyện “Nansou Satomi Hakkenden” (南総里美八犬伝)[2]
của Takizawa Bagin (谷沢馬琴), ông ta đă mất 28 năm để
viết sách có 106 quyển nầy. Nhưng nhân
vật trong chuyện đều có đặc tính
giống nhau, cộng với đạo đức
phong kiến, khuyến thiện trừng ác một
cách máy móc đă làm cho truyện mất tự
nhiên, chỉ cố t́nh thu hút đọc giả
ở những diễn biến phức tạp, nên
thiếu hấp dẫn. Ở điểm đó sách
kusazoushi tuy đă thoát ra khỏI lănh vực sách
tranh đỏ, đen, xanh, vàng ấu trĩ (sách
cho phụ nữ và trẻ em), nhưng cũng
vẫn có khuynh hướng giống như trên,
nhất là ở những sách tranh dài goukan (sách
gồm nhiều quyển). Kusazoushi đặt sinh mệnh ở tranh vẽ làm hấp dẩn đọc giả. Kusazoushi hấp dẫn v́ có tranh b́a và tranh kèm bên trong do những họa sĩ ukiyo nổi tiếng vẽ. Đây là một văn nghệ có tính đặc dị, giống như tranh cuốn thời xưa (nếu chỉ đọc bản văn trong kusazoushi mà không xem tranh th́ không thể hiểu chỗ nào là thích thú được) (h́nh 54). Nhưng mẫu truyện thường có tính cách hoang đường, nhất là sau khi lấy diễn kịch kabuki làm tranh vẽ, kusazoushi đă mất đi tính cách văn nghệ của ḿnh. Diễn
kịch búp bê Joururi Ninjoubon (人情本) cũng là sách được sinh ra từ sharebon, đại biểu có “Shunshoku Umegoyomi” (春色梅児誉美) (truyện luyến ái giữa một chàng đẹp trai với một kĩ nữ) của Tamenaga Shunsui (為永春水). Có thể nói truyện nầy đă thành công trong việc diễn tả một khía cạnh sinh hoạt chín rục của người thành phố, đă dùng tranh kèm (挿絵) (sashie) diễn tả một cách sâu xa bối cảnh và tâm t́nh của người trong chuyện, làm nổi bật những tâm lư bối rối của nam nữ trong thế giới hoa liễu. Có thể nói rằng, là văn nghệ của thời “Văn Hóa Văn Chính”, những sách nầy có tính nghệ thuật cao hơn những yomihon và kusazoushi. Nhưng tất cả đều có khuôn khổ nhỏ hẹp, thiếu độ sâu về mặt tư tưởng, thiếu phẩm cách, vừa có tính cách đồi trụy, đủ để cho ta thấy sự bế tắc của văn hóa thành phố. Truyện
dài goran, shiranu monogatari gồm nhiếu chuyện ma quái, giết
người rùng rợn
Ngoài văn nghệ bằng văn tự, văn
nghệ đại chúng mới, nghe bằng tai như
koudan (講談) (giảng đàm
: kể chuyện), rakugo (落語) (lạc ngữ
: kể truyện cười) được
diễn ra ở diễn tường “yose” (寄席)
(kỳ tịch : sân
khấu cho koudan và rakugo), nơi giải trí
mới của quần chúng. Đặc biệt là
rakugo, lấy đề tài từ những
chuyện đáng cười trong sinh hoạt
hằng ngày của dân chúng, rakugo lần lần
trở thành điêu luyện ra, và đă trở
thành một nghệ thuật cho đến ngày nay
vẫn c̣n đầy hấp dẫn.
Nghệ thuật búp bê Joururi, thời
Chikamatsu được diễn bằng một tay
nghệ sĩ, sau đó tăng lên đến 3 người,
nghệ thuật tŕnh diễn trở nên tỉ
mỉ công phu, cấu tứ của bài kịch
trở nên phức tạp hơn, thú vị hơn
(h́nh 53). Bài kịch “Sugawara denju tenarai kagami” (菅原伝授手習鏡)
(truyện của 3 anh
em Mai Vương, Tùng Vương, Đào Hoàn
đă khốn khổ trong việc bảo vệ
Quản Tú Tài, con của Quản Trọng),
“Yoshitsune senponzakura” (義経千本桜) (truyện t́nh
ái giửa danh tướng Yoshitsune và nàng Shizu
Gozen), “Kanadehon chuushingura” (仮名手本忠臣蔵)
(truyện 47 nghĩa sĩ
thành Akou(赤穂)
) là những bài kịch viết chung rất
nổi tiếng của Takeda Izumo (竹田出雲) và Namiki Sousuke (並木宗輔).
Tuy những bài kịch nầy thiếu tính
thống nhất trong toàn thể, nhưng những
màn tuyệt đỉnh, đă làm khán giả xúc
động thương hại cho những nghĩa
sĩ phải chết v́ t́nh nghĩa, vừa
biểu hiện được những phê phán
của dân chúng ẩn trong kịch, đối
với đạo đức vô nhân đạo
thời phong kiến, vừa giữ được
tính cách xúc động của nghệ thuật sân
khấu.
Búp bê Joururi lần lần suy vi, nhường
chỗ cho những phái mới như Shinnai bushi (新内節) (cách thức Joururi, có tính cách ai oán, vừa khóc
vừa kể chuyện), Tokiwazu bushi (常磐津節)(cách thức
Joururi, nửa ca nửa kể chuyện), Kiyomoto
bushi (清元節)(cách
thức Joururi có đệm Shamisen), nối
kết với kabuki hoặc thành tṛ diễn trong
những tiệc trên pḥng lót chiếu (zashiki).
Bản kịch kabuki thời nầy cũng có
nhiều tiến bộ trong mặt cấu tứ và
cuối thời mạc phủ đă có những
tay viết kịch xuất sắc tả được
những hiện thực của thời đại
như Tsuruya Nanboku (鶴屋南北),
Kawatake Mokuami (河竹黙阿弥). Kabuki, một nghệ thuật truyền
thống cho đến ngày nay vẫn c̣n được
nhiều khách ưa chuộng, đă hoàn thành
được cách thức vào thời nầy.
Kabuki là một ca vũ kịch lấy tài sắc
hấp dẫn của diễn viên để thu hút
khán giả, đến sau cùng vẫn giữ
được những đặc tính nầy.
Từ kết quả đó, những bản
kịch nầy về nội dung, h́nh thức
nghệ thuật không có được những
tiến bộ đáng kể, có tính ỷ lại
vào độ thâu khách của những diễn viên
đóng vai chính. Giống như trường
hợp của những kịch múa rối thời
hậu kỳ, trong những màn chi tiết có
những diễn xuất đẹp đẽ
hấp dẫn người xem, nhưng toàn thể
màn kịch ít khi làm cho người xem ngậm ngùi.
Kabuki bị coi như tṛ du hí và kịch trường
là những nơi chơi bời thiếu lành
mạnh, diễn viên bị coi như là kawara kojiki
(河原乞食)
(kẽ ăn xin ở
bờ sông), một thứ dân hèn mọn. Trong
khung cảnh đó đương nhiên không
thể nào có được một không khí
đưa nghệ thuật kabuki lên cao. Đến cận đại những nghệ thuật thành phố được đánh giá cao, nhưng cũng giống như những truyện kể thời xưa, đương thời, đó chỉ là những sản vật an ủi phút chốc. Những tác giả văn nghệ thỏa măn với tên gọi “gesaku sha” (戯作者) (tác giả du hí), không thấy xấu hổ khi chạy theo ư thích của đọc giả, thiếu những t́nh cảm nóng bỏng đứng đắn trong việc mô tả nhân sinh như những văn hào thời Genroku hoặc những tác giả của những truyện kể thời xưa. Những tác giả nầy có một tinh thần hiện thực, nh́n thẳng vào t́nh cảm sống động của con người, khẳng định luyến ái và t́nh dục, không bị câu thúc bởi những đạo đức ngụy thiện Nho giáo, nhưng điều đó không phải v́ họ chọn lấy con đường chống đối với đạo đức chính thống phong kiến, mà ngược lại bề ngoài họ tuân theo đạo đức phong kiến, lấy bản đề “khuyến thiện trừng ác” để tránh đàn áp. Kết quả từ việc không có những tư tưởng cao xa, lại thiếu dũng khí đấu tranh với hiện thực, là đă đưa đẩy văn hóa đến khuynh hướng trụy lạc, đó là điều không tránh được. V́ lẽ đó mà trong yomihon, kusa zoushi, kabuki có những cảnh giết người tàn nhẫn, những âm mưu xấu xa, những yêu quái rùng rợn, những chuyện chơi bời trai gái lộ liễu làm tê liệt cảm giác của người xem (h́nh 54). Ngay như Nanboku và Mokuami, những tác giả ưu tú trong mô tả chuyện đời thời nầy, cũng có những màn kịch như “Toukaidou Yotsuya kaidan” (東海道四谷怪談) nói về những ma quỉ kỳ quái, kịch “Benizara kakezara” (紅皿欠皿) có những màn tra tấn dă man, cho ta hiểu được đặc sắc nghệ thuật trong thời suy đồi nầy. Nhưng trong thời nầy cũng có những biểu biện đầy năng lượng có tính cách đối ngược với đạo đức ơn thù, với trật tự cố định của xă hội, như những tranh kabuki của Ekin (絵金), người vùng Tosa (土佐) được giới thiệu trong những năm gần đây (h́nh 55).
Tranh
kabuki "Thái Dương" của
Ekin
Ukiyoe của Hakuboku Ukiyoe
của Toushuusai Sharaku Tranh ukiyoe về phong cảnh đă được khai thác để đả phá những bế tắc xảy ra trong tranh miêu tả phong tục, nhân vật. Cuối thời mạc phủ có 2 thiên tài về tranh phong cảnh, một là Katsushika Hokusai (葛飾北斎) với tranh “Fugaku sanjuurokukei” (富岳三六景) (36 cảnh núi Phú Sĩ), hai là Andou Hiroshige (安藤広重) với tranh “Toukaidou gojuusantsugu” (東海道五十三次) (53 trạm dịch đường Đông Hải) “Edo meisho hyakukei” (江戸名所百景) (100 thắng cảnh ở Edo). Khác với Hokusai, một người sôi nổi mănh liệt, Hiroshige có ngọn bút mềm mại, tuy thiếu tính nghệ thuật về chiều sâu và phần bén nhọn, nhưng ông đă dùng mưa, gió, tuyết v.v…trong phong cảnh bốn mùa để diễn tả phong thổ Nhật Bản với một t́nh cảm hết sức đậm đà (h́nh 58).
Ukiyoe phong cảnh của Andou
Hiroshige Tranh của Ike no Taiga
theo cách Giới Tử Viên Nhưng ở đây trong lănh vực tạo h́nh có một điểm đáng được lưu ư là sự bắt đầu giao thiệp với mỹ thuật Tây phương. Ở thế kỷ thứ 16, thời văn hóa Nam man, đă có những du nhập tranh Tây phương, nhưng sau đó Nhật chỉ sinh ra được những tranh sơn dầu bắt chước vẽ lại những tác phẩm của Tây phương. Đến thời nầy có những tranh Tây phương do người Hoà lan đem đến, cùng với sự lưu hành của Lan học, họa sĩ tranh Tây phương như Shiba Koukan (司馬江漢) được sinh ra. Ngay trong lănh vực tranh truyền thống Nhật bản, kỹ thuật của tây phương như cách thức “viễn cận” và nhiều cách thức khác đă được du nhập, và đă được phản ánh rất nhiều trong tranh ukiyoe. Những tranh nhân vật của họa sĩ Watanabe Kazan (渡辺崋山) với phương pháp của Tây phương là những tranh tả thực ưu tú mạnh bạo. Tranh của Hokusai, Hiroshige có những dấu tích dùng phương pháp của tranh Tây phương. Goh
đă mô phỏng tranh của Hiroshige
Ngày xưa tranh Yamatoe được xuất
khẩu sang Tống và đă được đánh
giá cao, tranh b́nh phong Azuchiyama (安土山)
của phái Kanou đă được gởi
tặng giáo hoàng La Mă, nhưng những tranh
nầy không gây được một ảnh hưởng
nào trong giới hội họa của Trung Quốc
hoặc Ư. Tranh bản ukiyoe đă gây được
một ảnh hưởng sâu đậm trong
hội họa sử tây phương là một
việc đáng để ư v́ từ trước
đến nay Nhật Bản chỉ thu nhận
những văn hóa hải ngoại mà đây là
lần đầu tiên có cơ hội cống
hiến trong công tŕnh phát triển của văn hóa
hải ngoại (h́nh 60).
SỰ NẨY NỞ TINH
THẦN KHOA HỌC
Trong thế giới nghệ thuật truy
cứu hưởng lạc tiêu phí, đă không
nghe được tiếng chân bước
mạnh mẽ nhằm đến một thời
đại mới, nhưng trong lănh vực tư tưởng
và học vấn đă có những hiện tượng
theo hướng phát triển của lịch
sử.
Như đă nói ở trong chương trước,
Nho học đă thống chế giới tư tưởng
với tính cách là giáo học chính thống, nhưng
từ trong nội bộ của Nho học đă có
những tư tưởng t́m một đường
đi mới thích hợp với hiện thực
Nhật Bản, tự phủ định quyền
uy của Nho học. Đến thời nầy,
một h́nh thái khác với Nho học được
thành h́nh, và đă tạo ra hai học phái có
tổ chức. Điều nầy đă mở
rộng phạm vi của con mắt đến
chỗ không thể thấy được nếu
bị câu thúc bởi Nho học, và cứ coi
những giáo thuyết cổ điển của
Trung Quốc có quyền uy vô thượng. Hai
học phái đó là “Quốc học” và “Lan
học”.
Quốc học được sinh ra khi
“Keichuu” (契沖)
thời Genroku t́m cách nghiên cứu quốc ngữ
trong cổ điển Nhật Bản từ
những sách như “Manyoushuu”. Đến đời
“Kadano Azumamaro” (荷田春満),
nghiên cứu cổ điển làm rơ đạo
của thời cổ, được thêm vào, qua
“Kamono Mabuchi” (賀茂真淵) đến “Motoori Norinaga” (本居宣長)
về mặt tư tưởng và mặt học
vấn, quốc học đă đạt được
đến lănh vực chững chạc. Đặc
biệt là Norinaga, ông ta đă bỏ ra hơn 30 năm
để hoàn thành “Kojikiden” (古事記伝)
(truyện Cổ
sự kư), sách chú thích “Cổ sự kư” vào
năm 1798 (Khoan Chính thứ 10). Sách nầy là
một nghiên cứu tường tận thực
chứng cổ điển Nhật Bản, đến
ngày nay vẫn có một giá trị rất cao trong
học vấn, mà những nhà nghiên cứu về
“Cổ sự kư” cần có cạnh bên ḿnh.
Học giả mù Hanawa Hokiichi (塙保己一) đă sưu tầm nhiều cổ điển
Nhật Bản, đính chính, biên soạn ra
“Gunshoruijuu” (群書類従) gồm 530 quyển. Sách nầy và sách
của Norinaga là thành tích vĩ đại của
các học giả phái quốc học. Phương pháp của phái quốc học là làm rơ “đạo xưa” (古の道) (Inishie no michi) qua những hiểu biết văn kiện cổ điển Nhật Bản, giống như phương pháp “Cổ văn từ học” của phái Sorai (徂徠) làm rơ giáo nghĩa Khổng Mạnh qua những nghiên cứu cổ điển Nho giáo. Phái Sorai lấy giáo thuyết của thánh nhân Trung Quốc làm quyền uy tuyệt đối, ngược lại phái quốc học xem đạo lấy ra từ cổ điển Nhật Bản là tư tưởng vô thượng. Theo những học giả quốc học, việc đem hết tâm sức nghiên cứu cổ điển là để t́m ra đạo cổ thuần túy của Nhật bản, chưa bị tư tưởng Trung Quốc, tư tưởng Phật giáo tác động. Tranh
kèm trong sách của Sagae Masumi
Với h́nh
thức lật ngược tư tưởng sùng
bái Trung Quốc của phái Sorai, quốc họ
đă chủ trương chủ nghĩa lấy
Nhật Bản làm trung tâm, nhưng đây cũng
chỉ là một tư tưởng chủ trương
học vấn đạo đức tư biện
(đạo đức
nghĩ ra trong đầu óc, không qua kinh nghiệm)
có cùng tính chất với Nho giáo, nên không
thể nói là đă thoát hẳn cách suy nghĩ
của Nho giáo. Điểm tiến bộ của
phái quốc học là đă chủ trương
cần thiết nghiên cứu cổ điển
Nhật Bản, công kích những nhà Nho chỉ
ăn học cổ điển Trung quốc, mà không
biết ǵ về Nhật Bản, nơi ḿnh
sống. Nhưng quốc học đă không nghiên
cứu lịch sử hiện thực của
Nhật Bản, mà lại giới hạn cái nh́n
vào cổ điển xưa. Đây là kết
quả của ảnh hưởng Nho học,
một học vấn trên bàn giấy.
Quốc học đă không vượt qua
được khuôn khổ của giáo học
phong kiến. Tuy vậy quốc học đă
dạy phải tôn trọng chân lư hơn những
thuyết giáo của thầy, đă phá tệ
hại nhớ như con két lời dại của
thầy. Quốc học cũng nêu cao tinh thần
nghiên cứu thảo luận, chủ trương
sự thật quan trọng hơn những lư
luận đạo đức chỉ có trên văn
tự. Đó là một thái độ tiến
bộ chưa có từ trước đến nay.
Một khuyết điểm lớn của
những học giả phái Quốc học là không
vượt qua khỏi khung cổ điển, không
trực tiếp nh́n những hiện thực
sống động, chỉ t́m cách làm ra một
khung trời mới qua nghiên cứu cổ điển.
Trong phái Quốc học cũng có người như
Sugae Masumi (菅江真澄)
đă đi đến nông thôn, ngư thôn ở
Touhoku (vùng đông
bắc), và Shinshuu (信州) (vùng gần
biển Nhật Bản), quan sát tường
tận tập quán sinh hoạt của những người
dân vô danh, viết ra “Kikoushuu” (紀行集) (Kỷ hành tập) to lớn có tranh
phụ kèm (h́nh 61). Nhưng tiếc thay, ngay như
Sugae Masumi, ông nầy cũng không ra sức t́m
hiểu đời sống hiện thực của
dân chúng thay đổi theo chiều hướng
lịch sử, mà chỉ cố gắng t́m
kiếm những tập quán sinh hoạt cũ qua
những truyền thuyết trong dân gian.
Chủ lưu của Quốc học đă
tự ghép ḿnh trong những nghiên cứu văn
kiện cổ điển, tách rời hiện
thực, đôi khi chính ḿnh phản bội
lại tính cách khách quan của văn kiện, có
khi rơi vào chủ nghĩa thần bí, thiếu
hợp lư trên thế giới quan. Ngược
lại phái Lan học (hoặc Dương học)
đă có thái độ có tính cách khoa học
rất mạnh mẽ.
Bế quan tỏa cảng đă ngăn
chận con mắt của quần chúng từ
những biến chuyển trên thế giới, nhưng
đă không ngăn chận được ḷng ái
mộ nhiệt liệt và nhiệt ư học
hỏi đối với văn hóa Tây phương. Arai Hakuseki (新井白石)
quan tâm đến t́nh h́nh Tây phương từ
trước, đă viết quyển “Seiyoukibun”
(西洋紀聞)
(Tây phương kỹ văn) nói về địa
lư thế giới, sau khi tra hỏi t́nh h́nh
thế giới từ một người Ư tên
Sidotti bị bắt v́ tộI t́m cách vào Nhật
Bản. Trong t́nh cảnh bế quan tỏa
cảng, những nỗ lực và nhiệt tâm
học hỏi văn hóa Tây phương vẫn
được tiếp tục qua cửa ngơ duy
nhất là “mậu dịch với Ḥa Lan” ở
Nagasaki. Đi du học ở Nagasaki hoặc mỗi
năm một lần khi nhân viên buôn bán Ḥa Lan
đến chầu mạc phủ, là cơ hội
học hỏi của những người ái
mộ văn hóa Tây phương. Cho nên tuy chỉ
là một nhân viên buôn bán, những người Ḥa
Lan nầy đă phải trả lời những câu
hỏi về nhiều ngành học vấn.
Để củng cố xă hội phong
kiến, những người cai trị cảm
thấy cần phải lợi dụng kỹ
thuật và khoa học cận đại của Tây
phương. Tướng quân thứ 8, Yoshimune, coi
trọng học vấn thực tế, có quan tâm
đến lịch và thiên văn của Ḥa Lan,
đă khuyến khích Lan học nhằm mục
đích thi hành chính sách chấn hưng sản
nghiệp. Nhưng v́ cấm đạo Thiên Chúa,
nên đă có những khống chế mạnh
mẽ trong việc đọc sách Tây phương,
chỉ những người thông dịch ở
Nagasaki mới biết được chút ít
tiếng Ḥa Lan, nên việc học hỏi học
vấn Tây phương rất khó khăn.
Y sĩ Maeno Ryoutaku (前野良沢)
và Sugita Genpaku (杉田玄白), từ những thí nghiệm giải
phẫu người ta, đă biết rằng
những sách giải phẫu của Ḥa Lan hết
sức chính xác, và không thể tin được
những sách y học của Nhật Bản theo
kiểu Trung Hoa. Từ đó họ đem hết
tâm huyết học hỏi, dịch sách giải
phẫu của Ḥa Lan, và đă xuất bản
được sách “Giải thể tân thư”
vào năm 1774. T́nh trạng nầy được
Genpaku viết rơ trong “Rangaku kotohajime” (蘭学事始)
(bắt đầu Lan
học). Từ
đó con đường học hỏi học
vấn Tây phương qua nguyên văn sách Ḥa Lan
được mở ra.
Haruma Wage
Sau đó Ootsuki Gentaku (大槻玄沢)
đă viết ra sách nhập môn “Rangaku Kaitei” (蘭学階梯)
và Inamura Sanpaku (稲村三泊)
xuất bản tự điển Lan-Nhật
“Haruma Wage” (ハルマ和解) tạo ra
tiện nghi to lớn cho những người nghiên
cứu Lan học (h́nh 62). Hơn nữa, năm
1823, Y sĩ người Đức tên Siebold đă
đến thương quán Ḥa Lan mở ra
“Narutaki juku” ở ngoại ô Nagasaki để
giảng học thuật của Tây phương
một cách có hệ thống cho những học
sinh đến từ toàn quốc, và nhờ đó
đă nâng cao tŕnh độ của Lan học.
Cuối thời mạc phủ, không những
chỉ học ở Ḥa Lan, mà những học
tập về kỹ nghệ, học thuật
cận đại của những nước Âu
châu cũng đă lan rộng ra, và Lan học
xứng đáng với tên mới là “Dương
học”. Đối với những người
trong thế giới “ân thù”, Dương học
là môn học kỳ dị, không thích được.
Nhưng họ không thể phủ định giá
trị của Dương học, các phiên
trấn (xứ của
các lănh chúa) kể cả Mạc Phủ đă
tranh nhau học hỏi Dương học.
Học vấn Âu châu truyền đến
với tính cách là văn hóa Nam man (man
ri mọi rợ ở phương Nam) chưa
mọc rễ được th́ đă biến
mất bằng sự cấm đoán đạo
Thiên Chúa. Trí thức và khoa học cận đại
bắt đầu được chấp nhận
ở Nhật Bản nhờ ở kết quả
thành công trong việc học tập Dương
học. Như đă nói tường tận ở
những phần trước, mặc dầu
Nhật Bản có đủ tư cách hănh
diện v́ đă sinh ra được những tài
sản văn hóa cao độ trong lănh vực tôn
giáo và nghệ thuật, nhưng hoàn toàn không sinh
ra được một hệ thống trí
thức nào có tính cách hợp lư xứng đáng
với tiếng khoa học.
Nhưng vào thời Edo, thế giới quan có
tính cách siêu việt của tôn giáo bắt đầu
mất sức, và từ kết quả đó
những quan tâm về hiện thực mạnh
mẽ ra, ngay trong chính những nhóm học giả
thuộc hệ thống học vấn truyền
thống kiểu Trung Quốc, tinh thần t́m
hiểu thực chứng cũng lần lần lên
cao. Tỉ dụ như trước khi Ryoutaku
giải phẫu thân thể con người, năm
1754 ông Yamawaki Touyou (山脇東洋) đă cắt mổ thân thể con người,
ghi lại và tŕnh bày kỷ lục thí nghiệm
trong sách “Zoushi” (臓志) (Tạng chí). Những điều
kiện nghiên cứu khoa học đă đi đến
chỗ được hoàn chỉnh, ở đây
việc học tập Dương học xảy
ra, và người Nhật bắt đầu khám
phá ra cách nhận thức khoa học cho ḿnh.
Ryoutaku, Genpaku hoặc Siebold đă mở
đường cho y học Tây phương
với những thực chứng sinh lư học
dựa vào thực nghiệm, Shizuki Tadao (志筑忠雄) nghiên cứu vật lư và thiên văn,
viết sách “Rekishou Shinsho” (暦象新書) giới thiệu thuyết địa
động, Hiraga Gennai (平賀源内)
t́m cách chế máy phát điện và độ
kế ấm lạnh, Inou Tadataka (伊能忠敬)
đă đi khắp Nhật Bản, đo lường
đất đai vẽ ra bản đồ
Nhật Bản chính xác tinh mật, tất cả
những tỉ dụ thực sự trên là
kết quả thực tế của sự thành công
trong việc học tập khoa học cận đại
của Tây phương.
Điều đáng chú ư ở đây là
tất cả những tỉ dụ thực sự
nầy đều thuộc vào lănh vực ứng
dụng kỹ thuật của khoa học tự
nhiên. Trong thời đại giáo học phong
kiến chi phối nhân tâm một cách kiên cố,
việc học tập tư tưởng xă
hội hoặc khoa học xă hội Âu châu, có
cấu tạo khác hẳn với xă hội phong
kiến ở đây, là điều không thể có
được. Giai cấp cai trị, tích cực
trong việc áp dụng Dương học, chỉ
nhằm mục đích lợi dụng trong
việc củng cố cai trị phong kiến.
Những yếu tố có thể gây ra t́nh cảm
hoài nghi hoặc phê phán trật tự phong
kiến đều được chú ư bài
trừ một cách kỹ lưỡng. Cuối
thời mạc phủ, khi mà vấn đề
ngoại giao trở nên trọng đại
đưa đến chỗ cần băi bỏ chính
sách bế quan tỏa cảng th́ mạc phủ và
các phiên trấn lại càng ra sức học
hỏi kỹ thuật của Tây phương, nhưng
tất cả đều bị giới hạn
trong khoa học quân sự, cần thiết cho
việc làm mạnh lực lượng quân sự
của ḿnh.
Năm 1850 trong lănh địa của lănh chúa
Nabeshima (鍋島) (tỉnh Shiga
nay) đă có ḷ phản xạ dùng để
đúc đại bác, sau đó ở xứ Satsuma
(薩摩)
(tỉnh Kagoshima nay),
lănh chúa Shimazu Nariakira (島津斉彬) đă cho lập ḷ tinh luyện để
chế tạo cơ giới quân nhu. Sau khi mở
cảng, lănh chúa xứ nầy với sự
viện trợ của Anh Quốc, đă cho
lập công xưởng chế tạo máy dệt,
và mạc phủ với sự hiệp lực
của Pháp đă mở xưởng đóng tàu
ở Yokosuka (横須賀) (thị
trấn phía Nam Yokohama). Những điều
nầy cho thấy những t́nh trạng đặc
biệt trong lịch sử cần thừa nhận
kỹ thuật và khoa học cận đại.
Năm 1857 mạc phủ cho mở ra
“Banshoshirabesho” (蕃書調所) (sau đó
đổi tên là (開成所) Kaiseisho). Đây là cơ quan nghiên cứu chỉ
dạy khoa học Tây phương, nguồn
gốc của trường đại học
Toukyou ngày nay, và từ đó trường nầy
giữ một địa vị quan trọng trong
lịch sử học vấn của Nhật
Bản. Nhưng nghiên cứu và giảng dạy
ở đây trực tiếp hoặc gián tiếp
đều có mục đích phục vụ cho quân
sự. Tuy đây chỉ là một khía cạnh nhưng
điều nầy đủ cho thấy vai tṛ
lịch sử của Dương học trong
thời kỳ nầy là để cống
hiến cho việc củng cố chế độ
phong kiến.
Nhưng không thể bỏ qua một sự
thật là qua những học tập Dương
học, con mắt nh́n đối với thế
giới của người Nhật đă
được mở rộng nhiều. Kudou Heisuke
(工藤平助) đă viết sách “Akaezo fuusekkou” (赤蝦夷風説考)
đề nghị mở mậu dịch với Nga
và Tanuma Okitsugu (田沼意次)
theo ư đó đă cho khai thác vùng Ezo (Hokkaidou
ngày nay). Honda Toshiaki (本田利明) đă viết quyển “Saiiki monogatari”
(西域物語)
(chuyện Tây vực)
chủ trương phải làm quốc gia giàu
mạnh bằng cách đóng thuyền lớn,
mở cảng, tích cực giao thông, mậu
dịch với các nước Tây phương.
Những hiện tượng nầy có được
nhờ học hỏi ở Tây phương và
từ đó có được một nhận
thức thế giới rộng răi, thấy
được cái ngu muội của việc
bế quan tỏa cảng, đóng ḿnh trong một
thế giới nhỏ hẹp Nhật Bản.
Nhưng kẻ cai trị chẳng có một năng
lực nào ngoài việc nhắm mắt kéo dài chính
sách bế quan tỏa cảng cho đến khi
bị liệt cường áp bức. Hayashi Shihei (林子平) đă viết “Kaikoku Heidan” (海国兵談)
(Chuyện binh lính
quốc gia vùng biển) dự đoán sự xâm
nhập của các nước Tây phương.
Với sự cảnh cáo nầy ông đă bị
xử phạt (mổ bụng) v́ làm loạn ḷng
người, kẻ cai trị đă t́m cách ngăn
chận con mắt của nhân dân mở ra thế
giới bên ngoài. Những người như
Watanabe Kazan (渡辺崋山),
Takano Chouei (高野長英), những học giả Lan học đă
lập ra “Shoushikai” (尚歯会)
để trao đổi kiến thức. Kazan
viết “Shinkiron” (慎機論)
(Thận cơ luận), Chouei viết “Yume
monogatari” (夢物語) (chuyện mơ)
phê phán lệnh đánh đuổi thuyền
ngoại quốc. Cả hai đều bị
mạc phủ xử phạt (mổ bụng) và người
đời gọi sự kiện nầy là “Bansha
no goku” (蛮社の獄)
(Ngục Man xă).
Những mầm mống tư tưởng mới
có tính cách phê phán xă hội phong kiến đều
bị nhổ bỏ đi.
Sau đó Nishi Amane (西周)
đă đi du học ở Ḥa Lan học triết
học Kant (người
Đức), Katou Hiroyuki (加藤弘之) đă mê mẩn những sách kinh tế,
chính trị t́m được từ trong tủ sách
của các lănh chúa, biết được cái hay
của chế độ nghi viện, Fukuzawa Yukichi
(福沢諭吉) biết được ở Tây phương
mọi người đều b́nh đẳng, không
có trật tự giai cấp như ở Nhật
Bản và cảm thấy hết sức uất
ức. Người Nhật đă mở mắt ra
trước những tư tưởng xă hội,
và triết học Tây phương, nhưng đây
là chuyện ngay trước Minh Trị duy tân, v́
vậy có thể nói rằng trong lănh vực nhân
sinh quan và hiện tượng xă hội, Dương
học ở thời Edo đă không giúp ích
được việc mở rộng tinh thần
cân đại trong xă hội Nhật.
SỰ PHÁT TRIỂN NHỮNG
TƯ TƯỞNG XĂ HỘI TIẾN BỘ.
Những học giả Dương học
thờI Edo đă không theo đuổi những nghiên
cứu trong lănh vực tư tưởng xă
hội và triết học, hành động
thực tiễn trên nguyên lư vẫn tiếp
tục ủng hộ luân lư phong kiến, đó
chỉ v́ họ phải đáp ứng những
mong ước của giai cấp cai trị, t́m cách
lấy Dương học để củng
cố chế độ phong kiến. Lời
của Sakuma Shouzan (佐久間象山)
rằng “đạo đức của Đông dương,
nghệ của Tây phương”, điển h́nh
cho mục đích của Dương học,
lợi dụng kỹ thuật của khoa học
tự nhiên và ứng dụng trong lập trường
trọng luân lư phong kiến.
Nhưng xu thế lịch sử trong thời
đại xă hội phong kiến ở trong quá tŕnh
suy sụp của nó, qua kinh nghiệm của
những người Nhật sống trong thời
đại đó, đă không tránh được
việc nuôi dưỡng những phê phán đối
với chế độ mạc phủ hoặc xă
hội phong kiến. Cho nên dẫu không học
được tư tưởng xă hội
cận đại của Tây phương một cách
có tổ chức, tự nó cũng có thể sinh
ra được những tư tưởng
tiến bộ. Giai cấp cai trị dưới
hiến pháp Minh Trị đă chủ trương
“quan niệm quốc thể” (quan
niệm thể chế quốc gia trong “Nhật
Bản thư kỷ” và “Cổ sự kư”)
là tinh thần truyền thống cố hữu
của Nhật Bản, cho tư tưởng xă
hội và tư tưởng chính trị hiện
đại là những quan niệm lai ngoại tôn
sùng Tây phương cần bày trừ. Nhưng không
thể quên một sự thật rằng những
ư thức xă hội cận đại đă
được sinh ra trong thời kỳ xă hội
phong kiến sụp đổ, qua những kinh
nghiệm sinh sống hiện thực của người
Nhật. Dẫu rằng những tư tưởng
tiến bộ thời Edo, những đứa con
ưu tú của xă hội phong kiến về
mặt lư luận đă rất non nớt bất
thường, khác với chủ nghĩa xă
hội và chủ nghĩa dân chủ lấy xă
hội cận đại cổ điển
của Tây phương làm bào thai. Nhưng nhờ
đó những tư tưởng cận đại
của Tây phương sau Minh Trị được
mọc rễ. Khoảng năm 1752, tư tưởng của Andou Shoueki (安藤昌益) viết trong “Shizen Shin-eidou” (自然真営道) (h́nh 63) hoặc “Toudou shinden” (統道真伝) là một hệ thống triết học độc đáo, một điểm cao trong hàng ngũ tư tưởng nầy. Shizenshin-eidou
của Andou Shoueki
Ông đă không những vừa phê phán
cấu tạo xă hội, tổ chức chính
trị từ gốc rễ, vừa phủ định
những đối lập giai cấp, cai trị
của quyền lực, trật tự thân
phận phong kiến mà c̣n công kích kịch
liệt chế độ gia tộc nam tôn nữ
ti, cho rằng một nam lấy nhiều nữ là
đạo của cầm thú, một vợ
một chồng ngày làm việc, đêm giao
hợp với nhau, để tái sinh sản con người
cùng với vật chất để sống, dưới
một kết hợp b́nh đẳng không có trên
dưới nầy, mới chính là đạo
của con người.
Trong xă hội phong kiến, với điều
kiện lịch sử như thế nào để
có được một tư tưởng độc
đáo dứt khoát, phủ định chế
độ phong kiến từ gốc rễ nầy
được sinh ra. Đương nhiên tư tưởng
của Shoueki trong thời Edo có tính chất không
thể công bố công khai được, nên ít có
người biết đến. Đến
thời Minh Trị mới được phát
hiện ra, và những truyền thuyết về ông
ta cũng không rơ ràng lắm.
Là một y sĩ ở Hachinohe (八戸)
(tỉnh Aomori (青森) ngày nay),sau
đó về quê ở Akita (秋田) và chết ở đó, ngoài ra cũng có
một vài môn đồ của ông ta cũng
được biết tên. Là nhà trí thức
ở Touhoku (Đông Bắc Nhật), vùng nông thôn hậu
tiến nhất, có lẽ ông đă nh́n quá
nhiều thực trạng nghèo khổ của nông
dân, những lao động sản xuất đáng
kính, v́ bị bốc lột tồi tệ nên
chỉ có thể có được một đời
sống thấp kém nhất. Nghĩ đến nguyên
nhân của việc nầy, cuối cùng ông đă
đi đến những mâu thuẫn căn
bản của xă hội và từ đó ông đă
thành công trong việc khai triển những nghĩ
ngợi của ḿnh. Tất cả những tư tưởng
xưa nay, nếu không ủng hộ việc
bốc lột và cai trị của giai cấp, th́
cũng chỉ im ĺm coi đó là những sự
thực không thể tránh khỏi, lần đầu
tiên Shoueki đă đi thẳng đến vấn
đề căn bản nầy, lập ra một
triết học nói lên đúng đắn lập
trường của nhân dân cần lao. Có thể
nói Shoueki đă chiếm được một
vị trí hết sức to lớn trong lịch
sử tư tưởng của Nhật Bản.
Tư tưởng của Shoueki có tính cách quá
khích, vượt xa tiêu chuẩn của thời
đại, là một ngọn núi cao cô đơn
không có người nối dơi để phát
triển. Lại nữa Shoueki đă tiến hành
nghĩ ngợi của ḿnh với bối cảnh
nông thôn hậu tiến, cho nên chỉ nghĩ ra
được một trạng thái xă hội có tính
cách nguyên thủy, coi kinh tế tự cung tự
cấp là lư tưởng, trong đó không có
những bốc lột của giai cấp vũ sĩ
cũng như sự ăn ṃn của giới lái
buôn. Shoueki không thể nghĩ ra một triển
vọng lịch sử cận đại hóa, trong
đó sức sản xuất được phát
triển. Triết học nầy đă không phá
vỡ được bức tường v́ không
nắm được đúng quá tŕnh tiến hành
của lịch sử hiện thực, cho nên
chỉ có thể lấy một lư luận theo
chủ nghĩa phục cổ, nhằm đi đến
thế giới tự nhiên thời xưa.
Ở điểm nầy, hệ thống
triết học vĩ đại của Shoueki cũng
không thoát khỏi những câu thúc bởi thường
thức của xă hội phong kiến. Mặt khác,
tuy không thể nói là tiến bộ triệt để
như tư tưởng của Shoueki, nhưng cũng
đă có những tư tưởng hiểu rơ chính
xác sự tiến triển của lịch sử,
t́m cách đả phá thường thức của
lư thuyết phong kiến.
Trong thời Edo, sức sản xuất đă
được phát triển ở mọi lănh
vực, nhưng với t́nh trạng bế quan
tỏa cảng và với trật tự thân
phận phong kiến, sự nhảy vọt trong
sức sản xuất không thể có được
v́ khó có được một nhân sinh quan trong
đó mục tiêu hoạt động của con người
là khuếch đại sức sản xuất.
Đạo đức thông dụng trong dân gian thông
thường chủ trương kiềm chế tiêu
phí và tiết kiệm là một đức tính
quan trọng. Nhưng rồi những lối nghĩ
mới xem việc tích cực khai thác của
cải, tăng cường sức sản xuất
xă hội là sứ mệnh tối cao của con người,
đă được đề ra.
Hiraga Gennai (平賀源内),
một thiên tài về kỹ thuật khoa học và
văn nghệ, không có chổ dùng được
tài ḿnh, bị chết điên vào năm 1779,
đă nói rằng người ta thấy lông
cừu, chỉ t́m cách bán để kiếm
tiền liền nhưng ông đă nghĩ khác là làm
sao dùng nó để đan ra được áo
ở trong nước để khỏi phải du
nhập đồ ngoại quốc, nỗ lực
đem hết trí tuệ của ḿnh t́m cách phát
minh ra những dụng cụ có ích cho quốc gia.
Rơ ràng làm tăng trưởng của cải xă
hội đă là niềm vui sống của ông ta.
Đến Kaiho Seiryou (海保青陵),
hoạt động vào những năm “Văn Hóa
Văn Chính”, lối suy nghĩ trở thành có
hệ thống hơn. Ông cho rằng việc ca
tụng hiếu tử là việc không thể
hiểu được và vô ư nghĩa, ngược
lại việc ban thưởng cho những người
mua cây cỏ không có ở nước ḿnh đem
về trồng, hoặc đóng thuyền để
xuất khẩu những sản vật trong nước
ra nước ngoài để làm giàu quốc gia, có
ích hơn. Ông cho rằng vũ sĩ lấy
thực phẩm ăn không từ nông dân nên
đăm ra khinh miệt việc buôn bán, nhưng
đó chỉ là lối suy nghĩ cũ, ngay như
lănh chúa hằng năm cũng phải bán gạo
trưng thu từ nông dân để lấy
tiền chi thu mọi việc. Nếu không buôn bán
th́ một ngày cũng không sống được,
nên bây giờ không phải là lúc khinh miệt buôn
bán, không phải là lúc chê cười buôn bán. Cười
buôn bán mà đi buôn bán hóa ra vũ sĩ đă
tự cười giễu ḿnh. Nhận thức
nầy đúng với hướng phát triển
lịch sử không thể tránh được
của kinh tế trao đổi và kinh tế phân
phối.
Gennai và Seiryou đă đề ra chính sách phú
quốc với chủ nghĩa trọng thương
mà trong đó vũ sĩ giử vai tṛ chính
yếu, không phê phán bản chất của xă
hội phong kiến. Ở điểm nầy
những tư tưởng trên không có một quan
sát thông suốt sâu xa như tư tưởng
của Shoueki, nhưng có một tự giác
mạnh mẽ về phát triển lịch sử,
vượt qua chủ nghĩa trọng nông, tư
tưởng chính thống của xă hội phong
kiến, đưa ra hướng đi của xă
hội mới, đáng được đánh giá
cao.
Chủ nghĩa trọng nông cổ điển,
trên thực tế chỉ là một danh từ
để mỹ hóa chính sách mạt sát con người,
nhằm mục đích bắt nông dân làm việc
cùng cực, đồng thời khống chế
cải thiện sinh hoạt của nông dân,
thiếu một thái độ tích cực giúp
đỡ gây tiến bộ làm phát đạt
sức sản xuất nông nghiệp, để nâng
cao đời sống nông dân. Đối lại,
vào cuối thời mạc phủ, một học
giả nông học, Ookura Nagatsune (大蔵永常) đă nghiên cứu tường tận
kỹ thuật trồng trọt hoa mùa buôn bán,
nhằm giúp đở nông dân khổ sở trong
nền kinh tế hóa tệ, không ít th́ nhiều,
nâng cao đời sống của ḿnh. Thời
Genroku sách đại biểu nông học “Nougyou
zensho” (Nông nghiệp toàn thư) chính yếu nghiên
cứu kỹ thuật sinh sản lúa gạo, đối
lại sách “Kouekikoku sankou” (公益国参考) (Công ích quốc sản khảo) của
Nagatsune đă nghiên cứu cả đến
kỹ thuật trồng trọt cây nguyên liệu
cho công nghiệp trong nhà của nông dân, cũng chính
v́ lư do đă nói ở trên. Để làm
thức tỉnh nông dân chỉ quen với ân thù,
không t́m cách hấp thụ những kỹ
thuật mới, ông đă nghiên cứu thực
chứng nông cụ, làm giảm những nặng
nề trong lao động thể xác, tích cực t́m
cách tăng trưởng sản xuất. Cách suy
nghĩ của Nagatsune tuy thiếu những xem xét
kỹ lưỡng về vị trí của nông dân
trong xă hội phong kiến, nhưng so sánh với
tư tưởng của Ninomiya Sontoku (二宮尊徳), đă theo đúng con đường phát
triển của lịch sử hơn. Ninomiya
thiết kế phục hưng nông thôn dựa vào
ân t́nh của giai cấp cai trị, đẩy
mạnh lao động thể xác, khẳng định
kỹ thuật nông nghiệp thời ban sơ.
Gần cuối thời mạc phủ khí
thế của dư luận tôn vương và nhương
di[4] càng trở nên
mạnh mẽ và những tư tưởng như
đă nói ở phần trên, với một h́nh
thức nào đó đă được bao gồm
trong luận cứ nầy. Những tư tưởng
nầy đương nhiên không bao gồm
những lối nghĩ t́m cách thay đổi
chế độ phong kiến từ gốc
rễ. Trong lư luận tôn vương của
học phái Mito cho rằng không có mâu thuẫn
trong việc vừa tôn trọng thiên hoàng lại
vừa trung thành với mạc phủ. Nhưng
từ trước đến nay hoàng thất hoàn
toàn không được ngó ngàn, đột nhiên
lư do tồn tại của hoàng thất bắt
đầu được chủ trương
mạnh mẽ, điều nầy đối
với mạc phủ không phải là chuyện
tốt.
Năm 1767, Takenouchi Shikibu (竹内式部)
giảng luận lư tôn vương cho những công
gia (quan lại ở triều đ́nh) ở Kyouto
đă bị mạc phủ trách mắng đuổi
đi. Năm 1767 Yamagata Daini (山形大弐),
ngày thường hay than thở về việc suy
vi của hoàng tộc, đă bị ghép án tử
h́nh v́ đă nói về chiến thuật đánh
phá thành Edo và thành Koufu (甲府)
trong một bài giảng nghĩa ở trường
quân sự thành Edo, tuy có lẽ đây là kết
quả v́ coi quá nặng sự kiện đă qua.
Thực tế, thời cuộc ở lúc cuối
mạc phủ càng khẩn bách, luận lư tôn vương
càng được lợi dụng nhiều hơn,
và nó được coi như một chiến
thuật trong phong trào lật đổ mạc
phủ. Ngay như Motoori Norinaga một học
giả quốc học cũng phải có một thái
độ bảo thủ theo thời. Trong những
môn đồ của Norinaga, có người như
Ban Nobutomo (伴信友) chỉ
nối tiếp việc nghiên cứu học
vấn bằng thực chứng kiểu Norinaga, người
khác như Hirata Atsutane (平田篤胤)
qua những bài thuyết giáo hết sức
thực tiễn, đă làm cho khía cạnh Thần
đạo phục cổ của phái quốc
học được phát triển hơn, và
đă gây ra ảnh hưởng rộng răi trong
giới hào nông và hương sĩ địa phương.
Năm 1853 hạm đội Perry[5]
đến Nhật, Nhật phải mở cảng
dưới áp lực quân sự cận đại
của liệt cường Âu Mỹ trượng
trưng bằng “Kurobune” (黒舟) (thuyền
của Perry màu đen), và phải bắt đầu
mậu dịch với Âu Mỹ dưới
sức mạnh sản xuất khó chống của
chủ nghĩa tư bản. Từ đó phái nhương
di đă được sinh ra có lẽ v́ bị kích
thích bởi chủ nghĩa quốc gia đơn
thuần thời nầy.
Những giao thiệp giữa Nhật Bản
và ngoại quốc, ngoại trừ thời
cổ xưa không rơ lắm, có lúc quân Mông
Cổ đến, có lúc Hideyoshi đưa binh sang
Triều Tiên, nhưng đó là ngoại lệ, thông
thường chỉ là những giao thiệp
về văn hóa. Nhật không có kinh nghiệm
về quan hệ chính trị trên quốc tế. V́
lẽ đó, thái độ thu nhận văn hóa
ngoại lai một cách quảng đại đă
tự nhiên trở nên thông thường và
lối nghĩ bài ngoại, ngoại trừ lúc
cấm đạo Thiên Chúa, hầu như là không
có.
Nhưng v́ sợ “Thuyền đen” và v́
do mậu dịch nên vật giá lên thang, những
giận ghét nầy đă làm cho ngọn lửa bài
ngoại cháy bùng lên và trong ḷng người
Nhật quan niệm quốc gia, nước
Nhật đối với ngoại quốc, đă
được sinh ra. Nhưng hiện thực
quốc gia và dân tộc Nhật thời nầy không
thống nhất, đất đai bị phân chia
ra thành nhiều xứ và mỗi xứ hầu như
độc lập với nhau, và về dân
tộc, họ đă phân chia nhau theo trật
tự thân phận trên dưới hết sức
nghiêm khắc. Những người chủ trương
nhương di, để theo phương hướng
đó, trong đầu óc họ bắt đầu
hiện ra một mục tiêu là cần băi bỏ
những phân chia phong kiến để thống
nhất quốc gia dân tộc. Khi phái tôn vương
kết hợp với nhau theo hướng nầy,
một nhận thức quốc gia theo chủ nghĩa
tuyệt đối, lấy thiên hoàng làm quân
chủ để thống nhất dân tộc
được thành h́nh. Yoshida Shouin (吉田松陰)
(bị hành h́nh vào năm
1858) và những người có tư tưởng
tôn vương nhương di cuối thời
mạc phủ qua nhiều khúc chiết, rốt
cuộc rồi cũng bắt đầu t́m cách
theo đuổi phương hướng nầy.
Và như thế, phái tôn vương nhương
di với tính cách là một năng lượng
cải cách mạnh mẽ, đă phát huy được
vai tṛ của ḿnh, và ư nghĩa lịch sử
đó hết sức quan trọng. Nhưng nội
dung của tư tưởng nầy không nhất
thiết đă đi đúng theo chiều hướng
tiến bộ của lịch sử. Phong trào tôn
vương nhương di đă được
triển khai và được ủng hộ
bởi những vũ sĩ hạ cấp khi
họ bắt đầu cảm thấy bất măn
về những chèn ép trong trật tự thân
phận, cho nên việc đ̣i hỏi một h́nh
ảnh của một xă hội cận đại
không méo mó từ những người nầy có
lẽ là một việc khó.
Những chí sĩ thời cuối mạc
phủ đă quay lưng lại với năng lượng
quần chúng, t́m cách phục hồi quyền uy cũ
xưa của thiên hoàng, chính nó đă đi ngược
với hướng đi của lịch sử và
lư luận nhương di, t́m cách ngăn trở
sự phát triển của liệt cường Âu
Mỹ, từ ban đầu đă là việc không
thể thực hiện được và đó
chỉ là một lư luận trống không. Năng
lượng cải cách nầy với một quan
niệm ngược ngạo như trên, ngược
lại, trong hiện thực đă đóng một
vai tṛ lịch sử hết sức quan trọng. Mâu
thuẫn từ kết quả nầy đă
ngầm có một vấn đề quan trọng
nối liền với vận mệnh của
Nhật Bản sau Minh Trị duy tân. Nói tóm
lại, để sinh ra một Nhật Bản
cận đại, bụng mẹ đă bắt
đầu đau dữ dội.
Nhưng nếu chỉ bảo rằng tôn vương
nhương di là một sức lănh đạo duy
nhất trong những cải cách cuối thời
mạc phủ th́ có lẽ là không thích đáng.
Ngoài mặt tuy không hào hoa như tôn vương
nhương di, nhưng thời nầy đă có
những trào lưu tư tưởng nối
liền với gốc rễ lịch sử không
quên được, đó là tự giác về chính
trị của nông dân.
Những người thành phố được
xem là những phần tử phụ thuộc nên
nhờ vậy tương đối được
sinh sống trong điều kiện tốt đẹp
hơn, ngược lại nông dân là kẽ
trực tiếp gánh vác những mâu thuẫn
của xă hội phong kiến cho nên nông dân không
dễ dàng âu ca thái b́nh và cũng không thể an
thân đ̣i duy tŕ hiện trạng. Kinh tế hàng
hóa phát triển làm cho vũ sĩ túng thiếu
ra, và lúa gạo bị trưng thu nhiều hơn,
đời sống nông dân hằng ngày đă
khổ, lại càng bị khổ hơn. Khi thiên
tai địa biến (động
đất) thêm vào, những ảnh hưởng
đó trở nên khủng khiếp.
Nông dân đă bị phân tán ra trong những
nông thôn nhỏ hẹp, không có điều
kiện để tạo ra những tổ
chức giai cấp, hằng ngày làm lao động
vất vả, với một mức sống
thấp kém cho nên thiếu cả trí thức
lẫn tự giác, từ đó những tư tưởng
cải cách để đả phá t́nh trạng
khốn khổ của ḿnh đă không nẩy
nở ra được. Để chống
lại những đè nén áp bức nầy
nhiều lúc họ phải liều mạng gây ra
biểu t́nh nông dân hakushou ikki (百姓一揆) (Bách tính
nhất quỹ). Tuy mục tiêu của những
cuộc biểu t́nh chỉ nhằm đ̣i
giảm bớt trưng thu, những làn sống
biểu t́nh nầy nh́n toàn thể đă là
một động lực lớn thúc đẩy
việc giải thể trật tự phong
kiến. Trong đó, tên tuổi của những ngườI
bị hy sinh v́ đứng đầu biểu t́nh
(những người
đứng đầu các cuộc biểu t́nh
nầy thường bị giớI cai trị
bắt phải mổ bụng chết) tỉ
dụ như Sakura Sougorou (佐倉宗五郎) được truyền miệng trong
thế giới nông dân như gương mẫu
nghĩa dân. Và đến thời kỳ dao động
cuối mạc phủ những câu truyện
nầy đă được Choubokure (thầy
chùa ăn xin múa rối ngoài đường)
ca hát, hoặc được diễn trong kabuki và
đă là một niềm an ủi lớn lao cho
đại chúng.
Ngoài những việc biểu t́nh kịch
liệt nầy, ở mọi nơi nông dân đă
giám sát những quan chức thôn xóm, đ̣i cách
chức những người bất chính, công chính
hóa những phí tổn phụ trợ. Qua những
điều khiển, cải cách thôn chính gần
gủi hằng ngày, lần lần những tự
giác chính trị cao ra. Nông dân đă t́m ra nguyên
nhân nghèo khổ của ḿnh là do ở những
ăn xài không nề nếp của vũ sĩ,
từ đó đă
nhiều lần đ̣i hỏi những người
cai trị cải cách chính trị.
Trong bối cảnh tự giác của nông dân,
trong những cuộc biểu t́nh đă có
hiện tượng ôm ảo mộng cải cách
gốc rễ trật tự phong kiến như
“Yonaoshi” (世直し) (đỗi
đời). Và đến thời Minh Trị có
phong trào tự do dân quyền, tuy chỉ một
thời, nhưng đây là phong trào cải cách
lấy nông thôn làm cơ bản.
Nông thôn không có những văn hóa hào hoa như
thành phố, nhưng chỉ có nghĩa không có
những nghệ thuật có tính cách suy đồi
tiêu phí. Tinh thần đấu tranh trong điều
kiện khốn khổ khôn cùng là di sản
của phong trào dân chủ chủ nghĩa duy
nhất trong lịch sử văn hóa Nhật,
một truyền thống quí báu của Nhật.
VĂN HÓA LAN RỘNG RA KHU
VỰC VÀ XĂ HỘI
Lănh chúa thời chiến quốc đă
tạo ra nhiều xă hội chính trị manh
mẽ ở mọi nơi trong nước, nhờ
đó, văn hóa chỉ có ở vùng lân cận
Kyouto đă lan ra toàn quốc. Hideyoshi thống
nhất quốc gia, Kyouto được phục hưng,
thái b́nh đến và những vùng Kansai v́ có
một truyền thống văn hóa dài dặn nên
giữ được địa vị ưu
thế khó vượt qua. Ieyasu đă mở
mạc phủ ở Edo, nhưng v́ văn hóa
Kamakura và những nước ở phía đông
bị suy vi, nên ở Kantou (Quan đông) không khí văn
hóa vẫn có vẻ nghèo nàn. Là một đô
thị thương nghiệp nên Oosaka được
phồn vinh, và nhờ đó, cho đến
giữa thời Edo, Kansai đă là trung tâm
triển khai văn hóa. Thời nầy nếu ghi
sổ chỗ xuất thân của những người
xuất sắc, có công trong văn hóa tỉ
dụ như Soudatsu, Kouetsu, Bashou, Saikaku, Chikamatsu
hoặc Ninzai, Nakamoto, Keichuu v.v…th́ sẽ thấy
họ đều là những người ở
Kansai (Bashou sau đó đă đổi chỗ
ở đến Edo).
Nhưng từ giữa thời Edo về sau,
trung tâm văn hóa đă chuyển sang Edo. Đàn
em của Ninzai có Sorai lập căn cứ ở
Edo, mở ra một học phái cổ văn khác
để cạnh tranh với Ninzai. Năm 1738,
Kamono Mabuchi chuyển di trú sang Edo, xướng
“Quốc học” từ phương đông, và
đó là một hiện tượng tượng
trưng cho việc thay đổi trung tâm nầy.
Đến thời “Văn Hóa Văn Chính”,
những nghệ thuật gia như Santou Kyouden (người
viết sách kiểu cách), Bagin, Sanma, Juukyuu, Ryuutei
Tanehiko (người viết sách “Murasaki giả
hiệu, ông Genji nhà quê” nổi tiếng), Shunsui,
hoặc Kareki, Hokusai, Hiroshige, hoặc là Nanboku,
Mokuami đều là những người Edo, khác
hẵn với thời Genroku.
Đến thời nầy, tiếng Edo,
của địa phương Kantou đă giành
được địa vị trung ương
(tiêu chuẩn) thay thế cho tiếng địa phương
Kansai, tiếng trung ương có quyền uy trong
một thời gian dài. Trong Heikei monogatari (truyện
nhà Taira) có chỗ hài hước thái độ
một công gia quí tộc ở Kyouto khinh miệt
Kiso Yoshinaka (木曾義仲)
nói tiếng Kantou quê mùa.
Truyện “Ukiyo furo” (pḥng tắm ukiyo) nói
chuyện căi lộn của 2 người đàn bà,
một người nói tiếng Edo và một người
nói tiếng Kansai, người nói tiếng Edo cho
rằng những chữ như “Ikubei” hoặc
“kaerubei” trong vùng Kantou là tiếng mới
của “Ikubeshi” hoặc “kaerubeshi” dùng ở
Kansai, cho rằng ḿnh thắng thế hơn. Hai chuyện trên tượng trưng cho một điều đáng chú ư là Kantou, vùng văn hóa chậm tiến trong mấy trăm năm, nay đă trở nên trung tâm văn hóa. Một
trường kyougaku
Trung tâm văn
hóa đă chuyển sang Edo không có nghĩa là văn
hóa đă chuyển từ Kansai sang Edo, văn hóa
đă không bị giới hạn trong một
phạm vi hẹp tiền tiến vùng Kansai, mà
đă được bành trướng ra khắp
mọi nơi trong nước, và trong quá tŕnh
đó, Edo, một đô thị có dân số đông
nhất ở Nhật, lại là trung tâm của chính
trị, cho nên văn hóa Edo được
thịnh vượng. Trường của mạc phủ và các lănh địa là cơ quan giáo dục vũ sĩ, cơ quan giáo dục thường dân cũng bắt đầu phổ cập. Cơ quan giáo dục cao đẳng như “Kyougaku” (郷学) (Hương học) (h́nh 64) phần nhiều do những nhân vật có chí trong dân gian với sự trợ giúp của lănh chúa, lập ra. Tỉ dụ một lănh địa nhỏ như Isezaki (伊勢崎) cũng đă có 24 kyougaku, trong đó ngôi trường Kyougidou vẫn c̣n giữ được h́nh dáng đến ngày nay. Mát
gặt Senba
Terakoya (寺小屋)
(nhà chùa nhỏ), cơ
quan giáo dục sơ đẳng có rất
nhiều. Vào khoảng 1722, ở Edo đă có
khoảng 800 người dạy học, và có
điều tra cho biết cuối thời Edo đă
có khoảng 15 ngàn trường tư thục.
Ở toàn quốc chỉ có một hai lănh địa
đến nay vẫn chưa được xác
nhận là có terakoya. “Shingaku” (心学)
(Tâm học) lấy việc giảng dạy thông
tục làm nội dung để giáo hoá quần chúng
được Ishida Baigan (石田梅岩) đề xướng, Tejima Toan (手島堵庵)
v.v… phổ cập, lan rộng ra toàn quốc qua
trên 30 xứ từ Mutsu (陸奥)
(tỉnh Aomori ngày nay)
đến Chikugo (筑後)
(tỉnh Fukuoka ngày nay).
Ở nông thôn dấu tích tiến bộ trong
sức sản xuất đă có, nhưng đó
chỉ là những cải thiện về kỹ
thuật nhằm hợp lư hóa công việc sau
gặt hái, qua những phát minh máy gặt bằng
sắt (senba: ngàn răng) (h́nh 65) hoặc máy xay (sengokudoshi). Công
việc cấy lúa hoặc nhổ cỏ, những
phương pháp nguyên thủy vẫn được
tiếp tục dùng. Lao động sản xuất
của nông dân canh tác vẫn hết sức
nặng nhọc và dưới những bốc
lột không tha của giới cai trị, đời
sống của nông dân rất nghèo khổ. Họ
không có một chút dư dă nào để có
thể nâng cao đời sống ḿnh lên
được và v́ vậy nông thôn không có đủ
điều kiện để tiếp nhận
một nền văn hóa cao. So với đô thành, ở nông thôn từ chuyện cấy gặt, lợp nhà và ngay như hôn lễ, tang tế bất cứ trong chuyện ǵ, ư thức liên đới cộng đồng của thôn xóm hết sức mạnh mẽ, làm hoặc nghỉ hoàn toàn không có tự do, cho nên một nền văn hóa cao độ nuôi dưỡng bởi những trích trữ thường thức hoặc sáng kiến của cá nhân không thể mọc rễ trong nông thôn được. Trong những thôn xóm nhỏ hẹp, nông dân chỉ làm đi làm lại những lao động có tính cách nguyên thủy cho nên nông dân không có một cái nh́n rộng hoặc không có triển vọng trong đời sống là chuyện không ngạc nhiên. Áo
mưa của nông dân
Vai tṛ
lịch sử lớn nhất của nông dân không
phải sáng tạo ra những văn hóa có tổ
chức cao độ như tư tưởng,
nghệ thuật, học vấn mà vai tṛ của
họ là sản xuất nông nghiệp, một cơ
sở vật chất cho tất cả mọi văn
hóa. Và từ những phản kháng sống c̣n liên
hệ trực tiếp đến đời
sống, một tinh thần dân chủ mộc
mạc đă được bồi dưỡng
ra.
Một nghiên cứu phân tích giai tầng trong
môn đồ của Motoori Norinaga cho thấy có 116
người thành phố, 114 nông dân, 69 thầy
đ́nh, 68 vũ sĩ, 23 y sĩ, 22 phụ nữ,
và 2 khác. Đây là con số cho thấy rơ
Quốc học là một môn học của
mọi giới và điều đáng để ư
là số người thành phố đă đứng
đầu. Tư tưởng, học thuật
của Norinaga có tính cách bảo thủ, t́nh
cảm hợp với tính t́nh của những người
thành phố.
Việc nầy hoàn toàn khác hẳn đối
vớI môn đồ của Hirata Atsutane, phần
lớn họ là những người xuất thân
từ thầy đ́nh nhà quê và điền
chủ. Trong số học tṛ của Atsutane có
nhiều người như Miyaoi Sadao (宮負貞夫)
ở Shimofusa (下房) (vùng phía bắc tỉnh Chiba ngày nay)
đă thuyết về nhiệm vụ của quan
chức hương thôn, lư luận tường
tận về qui phạm sinh hoạt ở nông thôn,
nghiên cứu kỹ thuật nông nghiệp. H́nh thái
nầy được gọi là “Quốc học
dân gian” (草莽の国学) (Soumou no kokugaku) và đă là một
yếu tố quan trọng trong văn hóa sử
cuối thời mạc phủ.
Nhưng sự phổ cập văn hóa lan
rộng ra mọi giai cấp, mọi lănh vực không
có nghĩa là đă đưa đến một
tiến bộ về chất trong văn hóa. Ngay như
Tâm học, một học thuật phổ thông toàn
quốc, hoặc Quốc học dân gian, một
học thuật thấm nhuần trong giới hào nông
cũng chỉ là những tư tưởng
nhằm vận động quần chúng thuần
phục chế độ cai trị, nhằm
mục đích đối phó với những mâu
thuẫn ngày càng trở nên mạnh mẽ trong
chế độ phong kiến. Ở điểm
nầy khi so sánh với những hành động
trực tiếp của đại chúng bần nông
sinh ra từ vùng chẳng có ǵ đáng gọi là
văn hóa, th́ có lẽ những hành động
bản năng theo đúng hướng tiến
bộ của lịch sử nầy là quan
trọng hơn.
So sánh với thành thị, nông thôn có văn
hóa hậu tiến, nhưng văn hóa nầy
gắn liền với đời sống nông thôn,
lại c̣n có tính cách lành mạnh hơn văn hóa
đô thị. Những hàng thủ công như
vải vóc, đồ nhuộm, áo lốp,
những vật dụng hàng ngày hầu hết
được sản xuất ở nông thôn (h́nh
66). Những món hàng nầy khi so sánh với
những sản phẩm cao cấp ở thành
phố, ở một khía cạnh nào đó, nó có
một vẽ đẹp riêng biệt đầy t́nh. [1] Văn
hóa Văn chính: thời đại giữa 2 niên
hiệu Văn Hóa và Văn Chính, đầu
thế kỷ thứ 19, kỷ cương
lỏng lẻo, phong tục đồi
trrụy, dân Edo đua nhau hưởng lạc. [2] Nansou
Satomi Hakkenden: truyện thiếu nữ Fusehime con
của vũ tướng Satomi Yoshimi bị
hồn chó Yatsufusa nhập, sinh ra 8 khuyển
tử có 8 đức hạnh là nhân, nghĩa,
lễ, trí, trung, tín, hiếu và đễ giúp
ḍng Satomi lập sự nghiệp. Chủ ư
của truyện là “khuyến thiện
trừng ác”. [3] Maekuzuke:
loại thơ “ngũ thất ngũ, thất
thất”, làm 2 câu sau cùng “thất thất”
trước, sau đó thêm 3 câu trên “ngũ
thất ngũ” đẻ làm thành một bài
thơ có ư nghĩa. [4] Tôn
vương, nhương di: tư tưởng
chính trị phối hợp chủ nghĩa bài
ngoại phong kiến cùng với chủ nghĩa
coi quyền uy của thiên hoàng là tuyệt
đối. [5] Perry:
(Mathew Calbraith Perry) đô đốc Hoa Kỳ
đă dẫn hạm độI “Đông
Ấn Độ” đến Nhật (cảng
Uraga) tŕnh thư của Tổng thống Hoa
Kỳ đến mạc phủ Nhật, đ̣i
mở cảng mậu dịch. [6] Sankin
koutai: chế độ do mạc phủ Edo
lập ra. Các lănh chúa ở mọi xứ đều
phải lập dinh ở Edo và cách một năm
một lần phải đến đó để
chịu quyền khống chế của mạc
phủ. Số người của mỗi
xứ phải đến Edo nhiều hay ít tùy
thuộc vào lượng đất đai do
mạc phủ ban cho. Với chính sách nầy, lănh
chúa phải tốn nhiều chi phí cho dinh ở
Edo nên rốt cuộc không thể tích lủy tài
sản, lương thực đầy đủ
để có thể chống đốI mạc
phủ.
|
[ Trở về ]