Cải
cách Giáo Dục Nhật Bản dưới thời Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn Sau một loạt những hiệp ước bất b́nh đẳng, đầy nhục nhă mà Nhật Bản đă phải kư với các đế quốc Tây phương dưới thời Tướng quân Tokugawa Keiki của thời đại Mạc Phủ Tokugawa ( với Hoa kỳ 1854; với Anh, Pháp,Hoà Lan, Hoa kỳ 1864 ). Đă dấy lên phong trào yêu nước, đặc biệt được hỗ trợ từ các lănh chúa (Daimyo) và các Samurai trên khắp mọi nơi với mục đích lật đổ chế độ Mạc phủ, phục quyền hành cai quản đất nước cho Thiên hoàng mà đă bị các chế độ Mạc phủ tiếm quyền gần 700 năm ( 1192- 1868). Ngày 30 tháng Giêng năm 1867 Thiên hoàng Komei, vị thiên hoàng thứ 121 của Nhật Bản bị bệnh chết. Ngày 3 tháng 2, triều đ́nh tôn hoàng tử Mustuhito lên ngôi thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản với niên hiệu là Minh Trị. Lúc lên ngôi ông chỉ là chú bé 14 tuổi rưỡi, hoàn toàn c̣n ngờ ngệch với chính trị cũng như kiến thức trị nước. Nhưng ông đă may mắn hưởng thụ được sự ủng hộ của đại đa số dân chúng, các lănh chúa, các samurai cũng như các sĩ phu tài năng, ái quốc … Họ đă tận long giúp đỡ, huấn luyện để ông trở thành một vị Minh quân hạng nhất trong lịch sử và cũng là vị thiên hoàng được ái mộ nhất của Nhật Bản. Ông đă thay đổi môt nước Nhật nghèo đói loạn ly thành một quốc gia cường thịnh làm cho thế giới kính phục với những cải cách thần kỳ trong 44 năm cầm quyền của ông. Khi chú bé 14 tuổi lên ngôi (1868) t́nh h́nh Nhật Bản lúc đó rất lộn xộn. Trong Triều đ́nh phần lớn quan đại thần có tinh thần yêu nước, tôn vinh Thiên hoàng nhưng không thể tránh được những khác biệt về đường lối cai trị quốc gia nên t́nh trạng phe nhóm tranh chấp xẩy ra. Ngoài biên th́ một số lănh chúa, Samurai làm loạn. Đặc biệt với bang Satsuma, Choshu và Tosa ở miền cực Nam Nhật Bản. Thế lực của Mạc phủ Tokugawa kéo lên phía Bắc (Hokkaido) lập lên một quốc gia riêng biệt gọi là nước cộng ḥa Ezo (1868). Trong t́nh trạng biến loạn đó Minh Trị đă may mắn được sự giúp đỡ của các đại thần và ủng hộ của toàn dân nên cuối cùng tất cả đă được dẹp yên và an ninh quốc gia được thu về một mối. Khoảng 11 năm đầu tiên lên ngôi, v́ c̣n quá trẻ nên Minh trị chưa có khả năng điều hành đất nước, công việc này hoàn toàn nhờ vào một cơ quan gọi là “ Thái Chính Quan “ gồm các sĩ phu, các quan lại, samurai và cả các phiên vương lập ra nhằm mục đích giúp Thiên Hoàng cai trị đất nước. Cơ quan này gồm 5 phân bộ : Nghị Chính quan, Hành Chính quan, Quân Vụ quan, H́nh Pháp quan và Hội Kế quan. Tất cả những cải cách ban đầu của Nhật Bản từ Triều đ́nh ( Thái chính quan) đă làm nền tảng rất quan trọng cho những cải cách thần kỳ sau này của Minh Trị khi ông trưởng thành và thực sự chấp chính (1878). Dĩ nhiên sự phát triển vượt trội của Nhật đă làm cho Âu Mỹ ngẩn ngơ, kính nể phải có sự canh tân đồng bộ trên mọi lănh vực. Nhưng từ những tài liệu lưu trữ, cho thấy trong suốt 44 năm cầm quyền của ông (1868-1912 ). Sự canh tân Giáo dục cùng với 2 lănh vực khác là Quân sự và phát triển kinh tế kỹ thuật là 3 lănh vực được coi là quan trọng nhất trong chương tŕnh canh tân. Dựa vào mức sống người dân trong xă hội và những đổi thay trong cải cách giáo dục, có thể chia công cuộc canh tân giáo dục của thời đại Minh Trị, ra làm 2 thời kỳ : Thời kỳ canh tân cơ bản ( 1968 -19885 ) và thời kỳ canh tân đổi mới ( 1985- 1912 ). Thời kỳ canh tân giáo dục cơ bản ( 1868-1885 ) Như đă đề cập ở trên, giai đoạn chuyển đổi quyền cai trị đất nước từ Mạc phủ (tương tự như phủ chúa Trịnh ở VN) sang Minh Trị Thiên hoàng đă có rất nhiều biến cố. Nền giáo dục xưa cũ thời Mạc phủ Tokugawa, dù có đôi điều tích cực nhưng cũng không che dấu được quá nhiều khuyết điểm đem đến những thua thiệt nhục nhă của Nhật Bản trong thời kỳ mà các quốc gia Âu Mỹ đang đua nhau dùng vơ lực đi chiếm thuộc địa. Chính v́ vậy ngay sau khi lật đổ Mạc phủ đă có những chương tŕnh cải cách giáo dục cấp thiết cho hợp với hoàn cảnh xă hội mới. Những cải cách này dù chỉ đạt được kết quả không như kế hoạch đề ra nhưng đă tạo ra những bậc thang vững chắc cho thời kỳ cải cách ngoạn mục sau này. Nh́n chung chương tŕnh giáo dục Nhật Bản dưới thời đại Minh Trị luôn luôn có những thay đổi theo hoàn cảnh sống xă hội cũng như từ những áp lực của các phong trào cấp tiến. Sau đây là những sự kiện quan trọng xẩy ra trong thời kỳ cải cách giáo dục cơ bản: 1.- Xoá bỏ và sửa đổi nền giáo dục cũ: Ngay trong năm đầu tiên ( tháng 6 năm 1868), khi t́nh h́nh tạm ổn việc xoá bỏ chương tŕnh giáo dục lỗi thời, thiếu tính cách quần chúng của Mạc phủ được xoá bỏ! Hệ thống trường học chỉ dành riêng cho tầng lớp giàu có, tướng quân, Sứ quân, Samurai … được băi bỏ và dành cho toàn dân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản trường công lập nhận học sinh không phân biệt địa vị và giai cấp xă hội. 2.-Thành lập bộ giáo dục ( Mombusho) : Năm 1869 Chính phủ thành lập văn pḥng điều tra học đường tại các phủ huyện để nắm rơ t́nh h́nh xă hội trước khi thiết lập các trường tiểu học tại địa phương. Ngay năm sau đó (1871 ) bộ giáo dục được thành lập, trực tiếp điều hành bởi chính phủ trung ương có nhiệm vụ trông coi, tham khảo những chương tŕnh do các văn pḥng điều tra học đường đề xuất để đưa ra những cải cách trong ngành giáo dục. Mùa Thu năm 1872 Bộ giáo dục soạn thảo quyển sách chỉ nam : “Chế độ giáo dục học đường quốc gia”. Trong đó đưa ra những chính sách giáo dục mới cũng như chương tŕnh học cho hợp với thời đại và được áp dụng cho toàn quốc. Sau đây là những điểm chính : a.-Khu vực giáo dục: Đây là môt kế hoạch giáo dục được coi là rất vĩ đại của Minh Trị trong sự việc canh tân Nhật Bản. Từ một quốc gia nghèo đói, nền giáo dục c̣n thu nhỏ trong giai cấp thượng lưu của xă hội mà ông dám đưa ra một chương tŕnh đầy tham vọng: Toàn quốc được chia ra 8 khu vực Đại học riêng biệt. Mỗi đại học quản lư 32 trường trung học. Mỗi trường trung học quản lư 210 trường tiểu học. Theo chương tŕnh này th́ toàn quốc phải có 8 trường đại học, 256 trường trung học và 53,760 trường tiểu học. Trong đó bất cứ địa phương nào có khoảng 600 nhân khẩu phải có một trường tiểu học. Các môn học phải thiên vào thực tế sát với sự phát triển khoa học, xă hội nhưng không quên giáo dục đạo đức, tự tôn giống ṇi dân tộc cũng như ḷng yêu nước, nhất là trung thành và sẵn sàng hy sinh cho thiên hoàng. V́ t́nh trạng xă hội c̣n khó khăn nên việc chi phí cho giáo dục phần rất lớn do chính cha mẹ học sinh đài thọ. b.-Cấp độ giáo dục: Học đường được chia ra làm 3 cấp : tiểu học, trung học và đại học. -Tiểu học : Thời gian học của tiểu học là 8 năm cho trẻ nhỏ từ 6 tuổi đến 14 tuổi và có 6 loại tiểu học là: Phổ thông tiểu học, Nữ nhi tiểu học, Nông thôn tiểu học, Bần nhân tiểu học, Tiểu học tư thục và Ấu nhi tiểu học. -Phổ thông tiểu học: có 2 cấp là Sơ đảng và Cao đẳng tiểu học. Sơ đẳng với 3 năm đầu tiên cho trẻ từ 6 đến 9 tuổi và được coi là nghĩa vụ Gáo dục, bắt buộc tất cả trẻ con trong làng xă ít nhất phải hoàn tất nghĩa vụ này. Chương tŕnh học là dậy đánh vần, tập viết, văn phạm cũng như phải học các môn về luân lư, toán pháp,vệ sinh, địa lư, thể dục và âm nhạc. Cao đẳng tiểu học với 5 năm kế tiếp, trẻ nhỏ được học sử học, h́nh học, thiên nhiên học, hoá học và sinh vật học cùng với các môn học của cấp sơ đẳng đươc đi sâu hơn. Ngoài ra tuỳ theo nhu cầu của từng địa phương c̣n có thêm các môn học khác như ngoại ngữ ( Hán tự ), thư viện học, thiên văn học..v..v.. -Nữ nhi tiểu học: Ở các địa phương đông dân cư có trường tiểu học dành riêng cho nữ sinh, trong đó có những môn học đặc biệt như gia chánh, thêu may, thủ công mỹ nghệ… -Nông thôn tiểu học: Ở các vùng quê hẻo lánh, trường học co giăn các môn học cũng như thời gian đến trường cho trẻ con để không bị khó khăn cho cha mẹ cũng như cho trẻ con trong việc đồng áng, nhất là vào thời gian thu hoạch nông nghiệp. Tuy nhiên vẫn bị bắt buộc ít nhất 16 tuần lễ đến trường cho một năm. -Bần nhân tiểu học: Trường dành riêng cho trẻ con nhà nghèo. Chính quyền địa phương chu cấp tất cả từ quần áo, sách vở, cả việc ăn uống và cư trú cho trẻ trong thời gian theo học.( các trường tiểu học khác th́ học phí đều do cha mẹ cung cấp ). -Tiểu học tư thục: Đó là những trường học do các ông thầy giáo hay tu sĩ mở ra, nhưng thầy giáo vẫn phải theo chương tŕnh giáo dục của chính phủ và phải có bằng cấp sư phạm. -Ấu nhi tiểu học: Trường dành riêng cho trẻ nhỏ dưới 6 tuổi, dậy cho đứa trẻ quen thuộc với việc học cũng như giúp trẻ con có căn bản lễ phép trước khi lên tiểu học. (dạng thức trường mẫu giáo) Tất cả các thầy, cô giáo của cấp tiểu học phải trên 20 tuổi, tốt nghiệp trung học phổ thông và qua một khoá học chuyên môn về sư phạm. -Trung học: cũng được chia ra làm 2 cấp: Trung học Sơ đẳng ( cho trẻ từ 14 đến 17 tuổi ) trung học Cao đẳng ( từ 17 đến 19 tuổi ). Trường chia thành nhiều ngành chuyên môn như: Công nghiệp, Thương nghiệp, Thông tin, Nông nghiệp..v..v.. Ngoài các môn học chuyên môn, học sinh phải học các môn chung như : Quốc ngữ, Sử học, Địa lư, Toán học, Thiên nhiên học, Hoá học, Sinh vật, Vật lư, Âm nhạc, Thể thao, Luân lư, khoáng chất học..v..v.. Tóm lại sau khi tốt nghiệp trung học đứa trẻ có tŕnh độ kiến thức tổng quát khá vững vàng kèm theo chuyên môn. Đặc biệt các ngành học liên quan đến kỹ thuật, công nghệ được chú trọng và nâng đỡ rất nhiều. Giáo viên của cấp trung học phải trên 25 tuổi và tốt nghiệp bằng đại học trong chuyên khoa môn dậy học. -Đại học: nơi đào tạo ra những chuyên viên lănh đạo cho đất nước trong các ngành nghề, kể cả những nhành học thuộc về nghệ thuật, âm nhạc và cả thể thao. Những ngành học như luật học, Kinh tế học, Khoa học, Y Dược học, Vật lư, Hoá học … được coi là rất quan trọng và được nâng đỡ cũng như kích thích sinh viên học lên cấp cao ở trong nước hay du học tại các quốc gia tiến triển Âu Mỹ. Những thành phần ưu tú này đều được trọng dụng như là nguồn cung cấp giới lănh đạo cho quốc gia. Bên cạnh ngành Đại học thiên nhiều về lư thuyết cao cấp trên. Chính phủ c̣n có thêm một hệ thống giáo dục khác, chuyên môn về thực hành. Sinh viên theo ngành này phải trên 16 tuổi, tốt nghiệp ít nhất mức trung học Sơ đẳng trở lên. Thời gian học dài hơn ban Đại học trên, thường khoảng 6 năm, so với ban đại học chỉ có 4 năm ( một dạng thức cao đẵng của VN ?). Khi ra trường họ cũng được coi như tương đương với ban đại học. Những người này có chuyên môn trong thực hành rất cao và rất được trọng dụng trong xă hội ! Hướng đi này có rất nhiều ngành như Công học, Nông học, Thương nghiệp, Điện học, Y học chuyên khoa, Dược học chuyên khoa..v..v.. Ngoài 3 cấp giáo dục căn bản trên, trong giai đoạn canh tân giáo dục căn bản này c̣n có những trường học chuyên môn khác như trường sư phạm tổng quát, trường sư phạm nữ công gia chánh, trường sư phạm âm nhạc..v..v.. Ngoài ra chính phủ c̣n kích thích những gia đ́nh giàu có cùng với chính phủ giúp đỡ gửi sinh viên ra hải ngoại du học. Năm 1873 tổng số sinh viên du học ở hải ngoại là 373 người trong đó học bổng của chính phủ là 250 người, số c̣n lại do tự túc. Chính phủ cũng hô hào việc viết và dịch sách chuyên môn, nhất là sách liên quan đến kỹ thuật và khoa học, luật pháp… ra tiếng Nhật. Chỉ riêng năm 1873 có 123 cuốn sách chuyên môn của ngoại quốc được dịch ra tiếng Nhật và dùng làm sách tham khảo và giáo khoa cho sinh viên. Năm sau ( 1874) lại có thêm 133 cuốn nữa. Đặc biệt trong đó có cả sách về nghệ thuật, triết học, quân sự học..v..v.. Thời kỳ canh tân Giáo dục đổi mới ( 1885 – 1912 ) Sự canh tân giáo dục của Minh Trị thiên hoàng trong giai đoạn cơ bản ở phần trên đă mang đến những kết quả rất đáng khích lệ cho việc phát triển xă hội Nhật Bản. Nó đă phá tung nền giáo dục chỉ dành riêng cho giới quan lại, tướng quân, Samurai và thành phần giàu có trong xă hội phong kiến thời Mạc phủ để mang đến cho toàn dân Nhật Bản. Tất cả những đứa bé dù nghèo hay giàu. Dù ở nông thôn, miền núi hay đô thị đều được quyền đi học và có dịp vươn lên, thoát khỏi thân phận nghèo hèn mà cha ông chúng chẳng bao giờ có dịp may bước ra khỏi. Nhưng kết quả đó không có nghĩa là không có tiếng kêu than, phản đối của dân chúng. Chẳng hạn việc thu học phí không phải dễ dàng cho giới nghèo, điều kiện giáo dục không công bằng giữa nông thôn và thành thị. Bên cạnh đó những đoàn thể chính trị, như phong trào xă hội chủ nghĩa, phong trào cấp tiến dân chủ, gồm những người đă có dịp học hỏi, tiếp cận với nền văn hoá Tây Phương. Những người này họ phản đối chính sách quá cường điệu mang tinh thần quốc gia cực đoan của Minh Trị. Họ làm áp lực và đ̣i hỏi những chính sách đổi mới mang tính dân chủ và xă hội trong tất cả lănh vực và ngành giáo dục cũng không được loại trừ. Năm 1885 Minh Tri băi bỏ “Thái Chính Quan “ để xây dựng một nội các mới theo khuôn mẫu của các quốc gia Tây Phương. Đứng đầu nội các là Tổng lư đại thần ( như chức thủ tướng ) kế tiếp là Quốc vụ đại thần sau đó là các vị bộ trưởng. Vị bộ trưởng Giáo dục đầu tiên của Nhật là ông Mori Yurei. Một nhà giáo dục tài năng và có công rất lớn trong việc canh tân nền Giáo dục Nhật bản trong giai đoạn này. Chương tŕnh canh tân của ông đă được coi là nền tảng không những trong thời Minh Trị Thiên Hoàng mà c̣n là một chiếc khung giáo dục cho những thời đại của các vị thiên hoàng sau này nữa. Trong thời kỳ đổi mới này có những sự việc đáng chú ư là tháng 2 năm 1886 ngay khi nắm quyền bộ trưởng, ông Mori Yurei đă qui tụ các người có tài năng và kinh nghiệm trong ngành giáo dục để thành lập văn pḥng Đốc học. Văn pḥng này có nhiệm vụ soạn thảo một chương tŕnh giáo dục mới cho tất cả các cấp độ giáo dục : tiểu học, trung học, đại học và sư phạm. Đưa ra những kế hoạch canh tân ngành giáo dục vào thực tế để hoà hợp với hướng phát triển của quốc gia Nhật Bản văn minh và cường thịnh trên thế giới. Ngay sau khi bản Hiến pháp đầu tiên của Nhật Bản được ban hành ( tháng 2 năm 1889), Minh Trị thiên hoàng đă đích thân ban bố sắc lệnh giáo dục (1889), trong đó đưa ra những tiêu chuẩn làm căn bản cho nền giáo dục ( sẽ đề cập trong phần Tinh thần quốc gia trong giáo dục ). Sau đây là những thay đổi quan trọng trong thời kỳ canh tân giáo dục đổi mới: 1.-Tiểu học: Sơ đẳng tiểu học vẫn được xem là nghĩa vụ giáo dục, nhưng được kéo dài từ 3 năm lên 4 năm rồi lên 6 năm ( 1907 ). Chế độ đóng học phí trong nghĩa vụ giáo dục được băi bỏ (1890). Những môn học phải được nâng cao tŕnh độ hiểu biết và đi sát với thực tiễn. Bắt buộc thêm vào và nâng cao các môn địa lư, khoa học, thủ công ... Dĩ nhiên môn quốc ngữ, môn lịch sử và luân lư luôn luôn được nhấn mạnh để học sinh có lư tưởng phục vụ quốc gia và ǵn giữ tinh thần Trung Hiếu. Với cấp tiểu học cao đẳng kéo dài 2 đến 4 năm tuỳ theo ngành học mà thay đổi. Các môn học của cấp này gần giống với cấp sơ học nhưng chuyên sâu hơn. Năm 1894 bộ giáo dục bắt buộc cơ quan giáo dục của huyện phải có một sở y tế để giữ ǵn sức khoẻ và kiểm soát định kỳ cho học sinh tiểu học. Ngoài ra môn thể dục, thể thao cũng được đưa vào học đường như một môn học. Tuy nhiên măi đến năm 1925 cuối thời đại Thiên hoàng Đại Chính ( 1912 – 1926) v́ t́nh h́nh sôi động của phong trào tranh dành thuộc địa nên những môn vơ cổ truyền như Nhu đạo, Karate, Kiếm đạo, Bắn cung và cả quân sự đă được đem vào trường học coi như môn thể thao bắt buộc. Học sinh được tổ chức theo đoàn nhóm như quân đội. Thống kê cho biết năm 1890 tỷ lệ nam sinh theo học tiểu học là 65%, nữ sinh là 31%, nhưng đến năm 1910 đă tăng vọt lên 97% (nam sinh) và 94% (nữ sinh). Tỷ lệ này nói lên mức độ trẻ con đến trường cả nam sinh và nữ sinh của Nhật Bản không thua kém bất cứ một quốc gia Tây phương nào và có tỷ lệ trẻ con đến trường vào hàng cao nhất thế giới. 2.-Trung học: Thời gian học của cấp này không thay đổi là 5 năm, trong đó trung học sơ đẳng là 3 năm và cao đẳng là 2 năm. Các môn học cũng được nâng cao tŕnh độ và thực tiễn, nhất là với trung học cao đẳng, các môn chuyên môn được nâng cao để chuẩn bị cho học sinh bước vào đại học. Vào khoảng năm 1894 một số trường trung học cao đẳng được đổi thành cao đẳng học hiệu, trường này hướng học sinh vào chuyên môn, chẳng hạn như trường cao đẳng sư phạm nữ đào tạo giáo viên tiểu học, trường cao đẳng nghệ thuật hướng học sinh vào các ngành nghệ thuật ..v..v..Năm 1899 bộ giáo dục bắt buộc mỗi huyện phải có ít nhất một trường trung học nam và một trường trung học nữ. 3.-Đại học: Các ngành học cũng như trước nhằm mục đích đào tạo ra các chuyên viên cao cấp trong mọi lănh vực, những nhà chính trị, kinh tế tài năng để phục vụ đất nước. Rất nhiều giáo sư trong nước được gửi ra ngoại quốc tu nghiệp và ngược lại cũng thỉnh mời giáo sư ngoại quốc vào giảng dậy. 4.-Trường Sư phạm: Ông Mori Yurei là một nhà giáo kỳ cựu, tài năng, với ông vần đề giáo dục quốc dân được coi là điều cần thiết mang sự phát triển và văn minh đến cho quốc gia. Dân trí cao, biết tôn trọng luật pháp, có lư tưởng phục vụ quốc gia, xă hội và biết lấy “chí trung, chí hiếu” làm căn bản, những điều đó theo ông chỉ có nền giáo dục đúng nghĩa mang lại mà thôi. Chính v́ vậy ông Mori rất chú tâm vào ngành sư phạm, nhằm mục đích đào tạo ra những người thầy gương mẫu nhiều khả năng. Mỗi huyện phải có ít nhất một trường sơ cấp sư phạm ( giáo viên tiểu học ), tổn phí của trường này do huyện sở đài thọ. Ở Tokyo và vài thành phố lớn có trường cao đẵng sư phạm ( giáo viên trung học ) do công quỹ quốc gia đài thọ. Năm 1893 trường sư phạm kỹ thuật được thành lập ở Tokyo, đây là ngôi trường đă đào tạo các chuyên viên kỹ thuật cho quốc gia và cũng là một thành công rất lớn của ông Mori trong lănh vực phát triển kỹ nghệ Nhật Bản. Ngoài ra chính phủ cũng có chính sách nâng đỡ đời sống cũng như tôn vinh vai tṛ của giáo viên theo tinh thần Nho giáo. Họ được trọng vọng trong xă hội, h́nh ảnh thầy cô giáo luôn luôn được coi là gương mẫu trong cuộc sống và chính họ truyền đạt tư tưởng ái quốc, trung thành với Thiên hoàng. 5.-Hệ thống hoá quốc ngữ: Để phát triển dân trí cũng như truyền dậy khoa học, kỹ nghệ tân tiến cho việc phát triển đất nước việc hệ thống hoá và đồng nhất chữ quốc ngữ được coi là việc làm không thể chậm trễ và lơ là được trong thời Minh Trị. Trước hết là hệ thống hoá việc xử dụng tiếng Nhật trong việc giảng dậy, muốn vậy giới sư phạm phải được đào tạo chính thống và đồng nhất. Năm 1902 bộ giáo dục lập ra ủy ban nghiên cứu tiếng Nhật để đưa ra hệ thống chuẩn mực cho ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Xác lập bảng chữ cái tiếng Nhật và hệ thống phiên âm những chữ chuyên môn hay có nguồn gốc từ ngoại ngữ. Ủy ban cũng giúp bộ giáo dục tuyển chọn hay biên soạn các sách giáo khoa liên quan đến việc giảng dậy quốc ngữ. Đặc biệt với cấp tiểu học dậy căn bản cho học sinh viết và đọc tiếng Nhật đúng tiếng Nhật chuẩn được coi là rất quan trọng, chiếm nhiều giờ nhất trong các môn học. 6.-Thu nhập trong lựa chọn văn hoá và công nghệ Âu Mỹ: “ Học Tây phương, Đuổi kịp Tây phương và Vượt qua Tây phương ” đó là câu mà Minh Trị Thiên Hoàng đă nói trước quốc dân ngày 14 tháng 3 năm 1868 ở điện Shishinden (Kyoto), câu này đă được coi là khuôn mẫu cho quan và dân tộc Nhật Bản trong việc thực hành chương tŕnh cải cách của ông. Đặc biệt trong sự học hỏi cũng như thu nhận nền văn minh và kỹ nghệ tân tiến của Tây phương, người Nhật đă khôn ngoan biết chọn lựa để không bị ngoại lai, làm mất đi cái gốc văn hoá Á châu cổ xưa vẫn được dựa trên nền tảng đạo lư của Khổng giáo. Sau đây là những việc quan trọng mà ngành giáo dục đă thực hiện: a.-Gửi sinh viên, học giả đi du học: Năm 1872 Bộ giáo dục thành lập một cơ quan chuyên về quản trị sinh viên du học và cho xuất bản một cuốn sách “ Qui tắc cho sinh viên xuất ngoại”, sinh viên muốn du học phải được chọn lựa tài năng, ngành học bởi đại học trước khi được xét duyệt bởi bộ giáo dục. V́ tài chánh của bộ giới hạn nên chính phủ ủng hộ sinh viên du học dưới dạng tự túc, nhưng vẫn phải qua qui tắc thẩm định và xét duyệt trên. Chính nhờ chính sách này mà chính phủ đỡ tốn kém và số lượng sinh viên du học tự túc càng lúc càng nhiều hơn sinh viên du học do chính phủ đài thọ. Gần như hầu hết sinh viên du học đều thành công và trở về nước phục vụ v́ chính sách rất ưu đăi dành cho họ. Quốc gia có số sinh viên du học nhiều nhất là Mỹ, Đức, Anh, Hoà lan và Pháp. Bên cạnh đó những giáo sư, kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật… trong nước cũng được gửi đi tu nghiệp Âu Mỹ rất nhiều. Đây là những thành phần cốt cán, được nâng đỡ đặc biệt trong tất cả lănh vực, không chỉ trong ngành công kỹ nghệ mà cả về kinh tế, văn hoá nghệ thuật nữa. b.-Mời gọi chuyên viên, những nhà thông thái ngoại quốc đến giảng dậy: Chính phủ cũng dành riêng tài khoản cũng như các điều kiện sinh sống ưu đăi (an ninh, lương bổng, nhà cửa …) để mời gọi những người chuyên môn và các giáo sư tài năng trong mọi lănh vực, kể cả ngành nghệ thuật, văn hoá, nhưng nhiều nhất trong lănh vực biến chế kỹ thuật ( cơ khí, hoá học, y học, đóng tàu …) là những ngành nghề mũi nhọn, tinh xảo của từng các quốc gia Âu Mỹ. Số giáo sư, chuyên viên thỉnh mời này thay đổi tuỳ theo nhu cầu trong nước, tuy nhiên theo thống kê th́ mỗi năm có khoảng 70 đến 100 vị và chính sách này vẫn được Nhật Bản áp dụng cho đến ngày nay. Các chuyên gia và giáo sư này họ được tận dụng từ lư thuyết trên giảng đường đến thực dụng tại nhà máy, họ c̣n được yêu cầu truyền bá cả tư tưởng, lối quản trị trong sản xuất và thương mại của quốc gia họ nữa. c.-Phiên dịch tài liệu, sách báo thành tiếng Nhật: Để thâu nhận kiến thức nhanh nhất và đỡ tốn kém nhất từ các quốc gia phát triển, bộ giáo dục lập hẳn một ban thông dịch các sánh giáo khoa, kỹ thuật cũng như văn chương, triết học….của Âu Mỹ đem phổ biến cho dân chúng cũng như giúp đỡ các thầy cô giáo làm tài liệu giảng dậy và viết sách giáo khoa cho nền giáo dục Nhật Bản. Chính sách này được duy tŕ không những thời Minh Trị mà c̣n các thời Thiên hoàng sau này nữa. Có thể nói ngày nay không một cuốc sách nào nổi tiếng nào trên thế giới trong tất cả lănh vực mà không được dịch ra tiếng Nhật một cách rất kỹ lưỡng v́ phải qua sư thẩm xét của ban thông dịch. Trong môi trường giáo dục, đặc biệt với ngành nghề chuyên môn và các môn học của đại học người ta có thể dễ dàng t́m thấy bản dịch ra tiếng Nhật ở trong thư viện. Theo tài liệu cho biết năm 1873 bộ giáo dục Nhật Bản đă dịch ra tiếng Nhật 123 cuốn sách chuyên môn của ngoại quốc. Năm sau (1874) học dịch thêm được 133 cuốn trong đó có cả sách về văn hoá, chính trị, nghệ thuật quân sự..v..v.. Hiện nay Nhật Bản được coi là một quốc gia có số lượng sách dịch ra quốc ngữ cầm đầu thế giới. Đă thế ngành thư viện cũng được cải tiến rất mạnh về danh mục, số lượng địa phương lưu trữ.v..v.. tất cả được các chuyên viên ngoại quốc cũng như trong nước làm rất khoa học và đồng bộ. Tinh thần Dân tộc chủ nghĩa trong cải cách giáo dục: Sau khi lật đổ Mạc phủ dành được quyền cai trị đất nước cho Thiên hoàng, các phiên vương và quan lại trong triều đă khôn ngoan đem tinh thần dân tộc chủ nghĩa và thần thánh hoá Thiên hoàng làm sách lược yên dân và nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của toàn dân cho những chương tŕnh canh tân đất nước. Cải cách nền Giáo dục học đường và nâng cao dân trí đă được các quan lại trong triều đ́nh cũng như chính Minh trị Thiên hoàng xem là rất quan trọng trong việc tân tiến hoá quốc gia. Chính sách thần thánh hoá, hy sinh và bảo vệ Thiên hoàng được đồng hoá với ḷng yêu nước được thể hiện rất rơ ràng trong bản Hiến Pháp đầu tiên và trong sắc lệnh giáo dục do chính Minh Trị thiên hoàng ban bố cùng năm 1889. Môn lịch sử được giảng dậy rất kỹ lưỡng trong trường trường học. Ngoài xă hội, trên đường phố, trong sách báo, truyền thông cũng như trong hăng xưởng, văn pḥng các cơ quan hành chánh, h́nh ảnh của Thiên hoàng được kính cẩn treo ở vị trí trang trọng nhất và được toàn dân kính trọng, tôn vinh. Đặc biệt trong trường học hàng ngày học sinh phải qú lạy trước h́nh ảnh Thiên hoàng mỗi khi đến lớp. Phải nghe và học những bài lịch sử nói về ḍng giống hào hùng của dân tộc mà Thiên hoàng là ḍng nguyên thuỷ. Tham vọng của cải cách giáo dục thời Minh trị là “phú quốc cường binh”. Muốn đạt được mục đích đó toàn dân Nhật Bản luôn luôn phải có 3 ư niệm sau đây: Tôn vinh giống ṇi, Thần phục Thiên hoàng và Tổ quốc thiêng liêng. 1.-Tôn vinh giống ṇi cao quư: Theo cổ sử th́ thời vũ trụ chưa thành h́nh, một cặp thần linh trai gái ( Izanagi và Izanami) từ trời xuống, tạo ta nước Nhật rồi sinh con cháu đầy đàn trong đó có nữ thần mặt trời ( Thái dương thần nữ: Amaterasu Omikami ) vị nữ thần tượng trưng cho nhan sắc và ánh sáng. Rồi trải qua biết bao nhiêu thế hệ tiếp nối cho đến khoảng năm 660 trước Tây lịch một vị hoàng tử ḍng dơi của Thái dương thần nữ lên ngôi, xưng là Thiên hoàng Jinmu( Thần Vũ). Đó là vị Thiên hoàng đầu tiên của quốc gia gọi là Yamato tức là nước Nhật ngày nay và cũng là năm lập quốc dân tộc Nhật. Ḍng dơi Thiên hoàng Thần Vũ cứ tiếp nối nhau làm thiên hoàng nước Nhật cho đến ngày nay. Minh trị là Thiên hoàng thứ 122, cai trị 44 năm (1868 – 1912 ). Theo sau là Thiên hoàng Đại Chính, thứ 124, cai trị 14 năm ( 1912- 1926 ) rồi Thiên hoàng Chiêu hoà, thứ 125, cai trị 63 năm (1926 – 1989 ) và hiện nay là Thiên hoàng B́nh Thành, thứ 126 (1989 - ? ). Với cổ sử như vậy, lại thêm lư do từ ngày lập quốc trải qua gần 3000 năm nước Nhật chỉ có duy nhất một ḍng họ tiếp nối làm vua cho nên người dân Nhật tin ḍng giống của họ vượt trội trên thế giới v́ họ là con cháu của Thái dương Thần nữ ( như con Rồng cháu Tiên của VN ) mà Thiên hoàng là người thay tổ tiên để cai trị, nên họ phải có nhiệm vụ tôn vinh và thần phục. 2.-Thần thánh hoá và qui phục Thiên hoàng: Với môn học lịch sử như vậy, Thiên hoàng đương nhiên là h́nh ảnh của vị thần, đại diện cho giống ṇi của họ và họ phải có nhiệm vụ tôn vinh và bảo vệ. Ngay trong bản hiến pháp năm 1889 có đoạn văn ghi nhận: ” Thiên hoàng có quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm và ở vị trí tối cao. Người dân Nhật là thần dân của Thiên hoàng nên phải có nghĩa vụ thi hành mệnh lệnh và không có quyền cản trở hay phản đối. Nếu có những trường hợp bất ngờ xẩy đến phải can đảm hiến ḿnh để bảo vệ và duy tŕ sự thịnh vượng của Quốc gia và ngôi vị của Thiên hoàng được bất tử như trời và đất.” Trong bản sắc lệnh giáo dục được chính Minh Trị ban bố cũng như trong tập “ Giáo dục cơ bản” của bộ giáo dục xuất bản ghi rơ: ” Mọi người hăy gạt bỏ ư nghĩa mục đích của giáo dục là phát triển bản chất cá nhân mà trái lại phải hiểu giáo dục là nâng cao tŕnh độ văn hoá của toàn dân, bảo tŕ sự thịnh vượng của quốc gia và giữ vững ngôi vàng cho Thiên hoàng “ Trong trường học, học sinh ngoài những cảnh phải qú lạy, hát suy tôn Thiên hoàng c̣n phải nằm ḷng những bài học có những câu như sau : “Đất nước Nhật Bản do tổ tiên của Thiên hoàng khai sáng, tất cả những ǵ trên đất nước đều là của Thiên hoàng. Khi các ngươi vừa sinh ra đă cần nước của Thiên hoàng để tắm rửa. Khi các ngươi chết, thân xác ngươi cũng phải chôn xuống đất của Thiên hoàng.” 3.- Tổ quốc thiêng liêng: Thời đại Minh Trị, tư tưởng “ Trung quân, Ái quốc” và “ Hiếu Đễ “ của Khổng giáo được tuyên dương và làm căn bản trong việc truyền bá luân lư trong xă hội cũng như học đường. Ngoài ra tinh thần thượng vơ, can đảm, hy sinh và trung thành của người Samurai cũng được đề cao trong học đường, trong xă hội, nhất là trong quân đội. Mọi người dân Nhật đều hiểu ư nghĩa câu “ chết cho Thiên hoàng là sự hy sinh cho giống ṇi và tổ quốc, đó không là cái chết vô ích”. Ngay trong hai trận chiến tranh Nhật-Thanh và Nhật Nga, Minh Trị đă rời xa kinh đô đến gần vùng chiến tuyến để cổ vũ tinh thần quân sĩ. Chính ông đă phổ bản nhạc mừng chiến thắng, mô tả những chiến công oai hùng của binh sĩ trong cuốc chiến thắng quân Thanh. Tóm lại chủ nghĩa quốc gia cực đoan đă dược Minh Trị Thiên hoàng tận dụng trong suốt 44 năm cầm quyền của ông. Đă được mang vào nền giáo dục làm nền tảng chắc chắn cho những chính sách canh tân đất nước của ông. Cái khung giáo dục của Minh trị thiên hoàng đă được thế hệ sau của ông bồi đắp cứng chắc hơn. Nhất là thời đại Chiêu Hoà, vào năm 1941, trường tiểu học được đổi thành trường “Quốc dân học hiệu” và chương tŕnh học đều nhắm vào mục đích ca tụng hy sinh cho thiên hoàng và bảo vệ, duy tŕ sự thịnh vượng quốc gia. Đứng trước Thiên hoàng và tổ quốc tất cả đầu vô nghĩa. Kết luận: Chính sách canh tân giáo dục của Minh Trị thiên hoàng đă biến đổi một nước Nhật đói nghèo, loạn lạc triền miên thành một cường quốc thịnh vượng hàng đầu thế giới về tất cả mọi mặt, không những trong thời đại của ông mà c̣n tiếp nối đến ngày nay. Dưới mắt người dân Nhật, ông là vị thiên hoàng vĩ đại nhất trong lịch sử gần 3000 năm lập quốc của họ. Đem tinh thần quốc gia cực đoan vào giáo dục đă được thế hệ Thiên hoàng con và cháu của ông tiếp nối càng lúc càng cương mănh hơn, biến con người Nhật thành một dân tộc hiếu chiến, tàn bạo với tham vọng làm bá chủ toàn cầu. Để thực hiện tham vọng đó, người Nhật đă gây ra biết bao nhiêu đau thương v́ máu lửa chiến tranh cho loài người, đặc biệt cho các quốc gia Á châu và cho chính người dân Nhật nữa. Với khoảng trên dưới 35 triệu người gồm binh sĩ và thường dân, trong đó có khoảng 18- 20 triệu người Trung Hoa. Việt Nam, Indonesia cũng như chính Nhật Bản mỗi quốc gia đă phải trả giá khoảng 3 triệu sinh mạng ! Một cái giá quá mắc bằng máu và khổ đau, đầy phi lư và ngu xuẩn cho cái tham vọng hăo huyền ! Ngày 2 tháng 9 năm 1945 cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 chấm dứt với sự đầu hàng vô điều kiện, đế quốc Nhật Bản bị giải thể hoàn toàn. Lịch sử Nhật Bản được lật sang một trang mới. Tháng 5 năm 1947 bản hiến pháp mới với tên gọi là “ Nhật Bản quốc hiến pháp” do tướng Mc. Arthur, tư lệnh quân Đồng Minh soạn thảo và ban hành. Với 101 điều khoản, trong đó huỷ bỏ tinh thần quốc gia chủ nghĩa cực đoan, vai tṛ của Thiên hoàng chỉ c̣n là biểu tượng của lễ nghi. Mọi h́nh thức suy tôn đều được dẹp bỏ. Quốc dân Nhật Bản bản lấy sự yêu chuộng hoà b́nh, tôn trọng nhân phẩm và quyền sống của tất cả dân dân tộc khác, góp phần vào bảo vệ hoà b́nh trên thế giới ..v..v.. Với bản hiến pháp mới này nền giáo dục Nhật Bản cũng được tích cực đổi thay. Người dân Nhật ngày nay, thật sự đă là một dân tộc hiếu hoà, văn minh và đă và đang đóng góp rất nhiều cho ḥa b́nh và thịnh vượng của loài người. Trong cái tinh thần đổi mới giáo dục sau khi thất trận đó, người Nhật vẫn t́m thấy một dạng thức phát triển thần kỳ khác và cũng lại làm cho thế giới cảm phục! Thật vậy, khi chứng kiến h́nh ảnh kinh hoàng của những năm hậu chiến. Những cảnh chết đói v́ thiếu ăn, bệnh tật trong một nước Nhật tan hoang gần như toàn diện sau chiến tranh. Không một ai nghĩ rằng, chỉ sau vài chục năm, Nhật Bản lại cao ngạo trỗi dậy, lại chiếm vị trí của một quốc gia thịnh vượng hàng đầu trên thế giới như ngày nay. Nhưng đó là sự thật. Một sự thật hiển nhiên mà thế giới không thể phủ nhận được dù ngạc nhiên và cảm phục. Câu trả lời rất rơ là dân tộc Nhật vẫn c̣n quá nhiều phẩm chất của một dân tộc có nền giáo dục đúng đắn. Hăy nh́n vào h́nh ảnh những người Nhật với khuôn mặt hốc hác, đôi mắt thất thần. Họ là những nạn nhân của trận động đất năm 1995 đă phá hủy gần hết thành phố Kobe hay trận thiên tai kinh hoàng kết hợp bởi sóng thần, động đất và điện hạt nhân năm 2010 ở Fukushima. Dẫy người im lặng nối đuôi nhau hàng trăm mét dài, rất thứ tự để nhận hàng cứu trợ. Không một tiếng căi nhau, hơn kém, tranh dành phẩm vật. Mọi nơi đều đều vắng vẻ trong hoang tàn đổ nát nhưng không có cảnh cướp bóc, hôi của như thường xẩy ra ở hết các nơi thiên tai trên thế giới, ngay cả ở các quốc gia giàu có, văn minh!. Đấy chính là ư nghĩa đúng thực chữ giáo dục của người dân Nhật Bản. Đấy cũng chính là câu trả lời, tại sao những đống đổ nát sau chiến tranh lại biến thành những nhà máy vĩ đại, những cơ sở giáo dục qui mô…đang hiện diện ở một nước Nhật thanh b́nh, phát triển. Đúng như vậy sự tàn phá và nghèo đói của chiến tranh không thể cướp đi cái căn bản giáo dục trong con người Nhật Bản được./. Hết Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn ( March. 2013)
Vài hàng về tác giả : Lưu An là bút hiệu của anh Vũ Ngọc Ruẩn. Anh Ruẩn sinh năm 1946 tại Xuân Trường, Nam Định, Việt Nam. Bút hiệu Lưu An & Thượng Xuyên Lộ, cựu học sinh Chu Văn An 59-66, tốt nghiệp Master về Food Sciences đại học Kagoshima, Japan 1977. Anh Ruẫn hiện đang sinh sống tại Thụy Sĩ. Cảm tưởng về thơ văn của Lưu An xin gởi về luuan@erct.com ........ ® "Khi phát hành lại thông
tin từ trang này cần phải có sự đồng ư của tác giả |