Tuỳ bút Lưu An

 Phần một  

Vài chuyện buồn vui tại Thụy sĩ  

 

Vào khoảng năm 1978 phong trào vượt biên bằng đường biển từ Việt Nam đến các quốc gia Đông Nam Á rất ồn ào. Dưới áp lực của thế giới, Thụy Sĩ cũng như một số quốc gia Âu châu thịnh vượng khác như Áo, Hoà Lan , các nước Bắc Âu… phải chia xẻ gánh nặng với Âu Mỹ để nhận người Đông dương tỵ nạn. Tôi rời Nhật bản, đến Thụy Sĩ (1979 ) định cư dưới chương tŕnh đó.    

Sau khi ổn định chỗ ở và công việc, cuối tuần hay ngày lễ rảnh rỗi, chẳng có ǵ làm tôi thường la cà đến thăm viếng những người Việt Nam tỵ nạn tại gia đ́nh họ hay tại các trại tạm cư ở những làng xă trong tiểu bang, quanh b́a thành phố Zuerich, nơi họ chờ làm thủ tục định cư. Nhờ những chuyến đi thăm viếng đó, tôi đă có dịp quen biết một số người tỵ nạn để hỏi han về t́nh h́nh sinh sống tại VN sau năm 1975. Nhờ biết tí chút Anh ngữ, đôi khi tôi giúp đỡ họ trong sự giao dịch, làm thủ tục giấy tờ hay đề đạt ư nguyện của họ với những người Thụy Sĩ đỡ đầu cho họ hay điều hành cơ sở. Trong những công việc bên lề đó tôi đă có khá nhiều thân t́nh, gần gũi với nhiều gia đ́nh người VN tỵ nạn. Phần lớn họ là những nông dân, ngư dân binh sĩ hay công nhân viên từ các tỉnh thành của miền Nam Việt Nam trước năm 1975, v́ không thân nhân tỵ nạn trước tại các quốc gia khác bảo lănh nên họ được Thụy Sĩ thâu nhận trong chính sách nhân đạo.  

Cũng nhờ những dịp quen biết đó, đă khắc ghi vào trí nhớ tôi khá nhiều câu truyện buồn vui, đôi khi ngỡ ngàng từ những người VN tỵ nạn phần lớn thuộc thành phần lao động của VNCH xa xưa. Phải nói là nhiều sự kiện xẩy ra do kém hiểu biết của họ đôi lần làm tôi ngẩn ngơ ngạc nhiên v́ không thể tưởng tượng đó là sự thật. Đến nay dù thời gian đă quá xa vào dĩ văng, những người VN tỵ nạn nhà quê, ít kiến thức đó, nếu c̣n sống trên thế gian, họ đă biến đổi theo thời gian, hoà nhập vào xă hội văn minh Thụy Sĩ một cách khá hoàn chỉnh rồi, nhất là với thế hệ con cháu họ.  

            Hôm nay, trong khoảng thời gian nhàn rỗi, phải bó chân ngồi nhà v́ trận dịch Corona,  kư ức kéo tôi về với quá khứ, thời gian mà tôi đă có dịp quen biết họ để viết về những câu truyện buồn vui đó như một hoài niệm của đời ḿnh. 

Dành trả tiền cà phê 

         Một lần vào khoảng giữa năm 1979, biết tin có một nhóm người Việt Nam từ các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á vừa được chính phủ Thụy Sĩ nhận vào khu tạm cư ở Buelach một làng(Gemeinde ) nhỏ sát cạnh thành phố Zuerich. Thời gian đó tôi chưa lập gia đ́nh, cuối tuần chẳng biết làm ǵ tôi đến thăm họ với mục đích hỏi thăm về cuộc sống ở VN cũng như tại các trại tỵ nạn, nơi tôi cũng có vài ba gia đ́nh quen biết của tôi đang chờ đợi tại đó.  

            Phần lớn họ là những ngư dân hay dân cư vùng quê tại các tỉnh vùng biển, có vài ba người ở thành phố hay là binh sĩ thời VNCH, nói chung họ rất dễ thương. Gặp tôi, khi biết tôi là người ăn học thời xưa, đă ra đi từ trước năm 1975 nên họ rất quư mến. Đổi lại tôi cũng coi họ như người thân thiết, chỉ dẫn, khuyên nhủ họ với chân t́nh của một người đi trước, hiểu biết hơn họ. Tôi hoàn toàn không có thái độ của một kẻ dậy đời, coi thường người thua kém ḿnh, tôi cũng chẳng giấu giếm khi họ muốn biết về gia cảnh cùng khổ của gia đ́nh tôi khi c̣n ở VN. Với tấm chân t́nh đó, chỉ với vài giờ gần nhau, tôi đă được họ coi như rất thân thiết. 

            Hôm đó, sau nhiều tiếng đồng hồ nói chuyện, t́nh thân thương càng lúc càng nhiều hơn, một nhóm 5, 6 người họ than phiền buồn chán, muốn tôi dẫn họ đi thăm viếng vùng trung tâm buôn bán của địa phương. Dĩ nhiên chẳng có lư do ǵ tôi từ chối, cũng là dịp chỉ dẫn họ nếp sống, buôn bán của dân địa phương. Sau một lúc đi dạo, họ đề nghị tôi dẫn vào một quán cà phê để giải khát và cũng để biết mùi vị cà phê của Thụy Sĩ ra sao. Chúng tôi vào một  nhà hàng nhỏ bên đường, thông thường khách là dân địa phương đến uống cà phê hay nhâm nhi vài ly rượu với vài loại bánh ngọt do nhà hàng tự làm hay vài loại thịt biến chế như xúc xích (salami), thịt xông khói ..v..v... 

            Chúng tôi đều gọi cà phê, mọi người im lặng nh́n cách phục vụ của quán với khá nhiều thích thú nhất là khi nh́n thấy ly cà phê nhỏ bé luộm cuộm lớp bọt mầu nâu, kèm theo mỗi tách một thỏi kem sữa, hoàn toàn khác với ly cà phê bằng bằng thuỷ tinh, to lớn, mầu đen không nổi bọt tại Việt Nam. Khi người phục vụ di vào phía trong, họ hỏi tôi rất nhiều về ly cà phê, giá cả, thỏi kem sữa là ǵ, xử dụng ra sao, cũng như kiểu cách uống cà phê của dân Thụy Sĩ ..v..v.. Dĩ nhiên tôi chỉ dẫn họ rất tường tận để họ có thể cùng với nhau đi thưởng thức nếu họ muốn trong tương lai.   

            Chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều, họ hỏi tôi về cuộc sống cá nhân, nơi làm việc, cuộc sống của tôi ngày xưa thời c̣n ở Việt Nam cũng như tại Nhật bản và Thụy Sĩ. Dĩ nhiên tôi cũng chẳng giấu giếm bất cứ ǵ nếu họ muốn biết. Ngược lại cũng từ họ tôi biết được rất nhiều về Việt Nam sau năm 1975 và cả những chuyến vượt biên đầy hăi hùng trên biển cả với hải tặc, nạn giết người, hiếp dâm..v..v..  Ngồi với nhau khá lâu, lúc chia tay, tôi tỏ ư gọi người phục vụ để tính tiền th́ một người trong nhóm nh́n tôi và hỏi :           

-Tiền cà phê bao nhiêu vậy chú? Nếu không quá mắc, để tụi cháu trả tiền cho chú. 

Với tí chút chau mày, tôi nh́n anh ta : 

-Mấy anh mới sang chưa đi làm, có tiền đâu mà trả cho tôi? Thật ra cũng chẳng đáng bao nhiêu, có lẽ khoảng 10 Franc mà thôi . 

Cả đám, họ nh́n nhau, một người nói : 

-Chắc chú không biết, mỗi người chúng cháu, hàng ngày được họ phát cho 3 đồng để tiêu dùng nhưng chúng cháu chưa biết ǵ nên món tiền vẫn c̣n nguyên. 

Lúc đó tôi mới biết là chính phủ Thụy Sĩ phát tiền cho họ để tiêu vặt. Nhưng làm sao tôi có thể để họ trả tiền cho ḿnh được, dù món tiền chẳng bao nhiêu hoàn toàn trong khả năng của họ. Nghĩ như vậy, tôi nh́n họ mỉm cười : 

-Có đáng là bao nhiêu đâu mà các anh phai lo cho mệt? Hơn nữa tôi đă đi làm và có lương hướng ngon lành, món tiền tiêu vặt vài ba Franc của các anh hăy để dằn túi mua thuốc hút hay ăn quà vặt, hợp lư hơn.  

Cứ thế tôi và họ cứ lằng nhằng việc dành trả tiền.  Cho đến một lúc, tôi đưa tay vẫy gọi bà phục vụ rồi móc tờ 20 Franc trong chiếc ví ra, coi như chẳng muốn thảo luận với họ nữa. Nhưng ngay lúc đó, một người trong số họ, với vẻ tức giận, anh ta đứng dậy nắm lấy cổ áo tôi rất giận dữ nói rất to : 

-ĐM anh, anh nghĩ anh giàu có, dám khinh rẻ chúng tôi nghèo túng, không đủ tiền trả cho anh ly cà phê sao?   

Tôi choáng váng đến mức ngẩn ngơ v́ thái độ quá kích động của anh ta. Đưa mắt nh́n sang vài chiếc bàn chung quanh, tất cả khách trong tiệm cũng giật ḿnh, ngạc nhiên trố mắt nh́n chúng tôi. Thấy có vẻ không suôi, tôi vỗ nhẹ vào cánh tay anh ta, miệng mỉm cười, với lời nói nhỏ nhẹ tôi nói: 

-Được rồi, tôi xin lỗi… vậy các anh trả tiền đi! 

Lúc đó anh ta mới bỏ cổ áo của tôi ra, và mọi người chúng tôi lại trở lại b́nh thường… Hành động của chúng tôi đă làm những người khách trong tiệm ngẩn ngơ nh́n ra vẻ không hiểu ǵ. Bà phục vụ khi đến bàn chúng tôi tính tiền cũng với ánh mắt ṭ ṃ. Để đánh tan thắc mắc của bà ta và khách trong quán, nh́n bà ta, tôi nói vài lời xin lỗi v́ sự đùa giỡn ồn ào, có chút bạo lực của người bạn! Dĩ nhiên bà ta ( có lẽ cả những người khách khác trong tiệm ) cũng cười, lắc đầu thân thiện nghĩ rằng chúng tôi vừa diễn tả một câu truyện vui đùa mà thôi.  

Sau lần dành trả tiền cà phê “ bạo lực “ đó, thi thoảng tôi cũng đến trại tạm cư thăm viếng, chuyện tṛ với họ b́nh thường. Chỉ khác hơn là những lần tôi dẫn họ đi phố, tạt vào hàng quán ăn uống tí chút, việc trả tiền gần như do họ chi trả. Ngược lại v́ không muốn để họ thiệt tḥi, tôi thường mua bánh, trái cây đến mời họ và người khác trong khu tạm cư. Rồi với thời gian, họ lần lượt được chuyển đến các nơi định cư trong tiểu bang và lại có nhóm người mới đến thay vào… Cứ như vậy chương tŕnh kéo dài đến khoảng năm 1981 th́ chấm dứt. Với khoảng thời gian gần 2 năm đó tôi vẫn đến thăm hỏi, giúp đỡ bất cứ ai những việc trong khả năng của tôi.  Cũng nhờ vậy tôi quen được khá nhiều người, đủ mọi thành phần trong xă hội VN xa xưa. Từ những chuyến viếng thăm đó tôi đă có rất nhiều kỷ niệm vui cũng như buồn khi gần gũi với họ, nhất là thời gian sau đó tôi lập gia đ́nh, vợ tôi cũng muốn t́m dịp thân cận, quen biết người VN.

Một bồn tắm đầy cá  

            Một trong nhóm người quen biết mà vợ chồng tôi thân thiết, thường đến nhà họ tâm t́nh hay giúp đỡ, chỉ dẫn họ những giấy tờ khá phiền phức trong cuộc sống tại Thụy Sĩ, đó là gia đ́nh chú Tư Nghĩa, chủ tàu đánh cá tại Rạch Giá. Ngày xưa, thời c̣n là sinh viên, tôi đă xuống Rạch Giá để thực tập về môn đánh bắt Ngư Sản nhiều tuần lễ. Sau khi  tốt nghiệp đại học rồi xuống Cần Thơ làm việc, Rạch Giá  là nơi tôi rất thích và thường rong chơi ở đó. Có thể nói tôi đă thăm viếng và biết khá nhiều về Rạch Giá, Hà Tiên, tôi đă đi theo tàu đánh cá của ngư dân thăm viếng hầu hết những đảo lớn nhỏ như ḥn Tre, ḥn Rái, nhóm đảo Nam du, Thổ Chu..v..v.. Đặc biệt tôi c̣n quen biết khá thân thiết với hai anh em ông Cái Văn Nhịn và Cái văn Nhẫn, là chủ nhân những con tàu đánh cá to lớn nhất của tỉnh Rạch Giá. Chính nhờ sự hiểu biết, quen thuộc của tôi như vậy đă tạo ra sự thân t́nh rất khắng khít của tôi và gia đ́nh ông Tư Nghĩa.  

            Sau khoảng vài tháng sống trong khu tạm cư, gia đ́nh ông Tư Nghĩa được nhóm bảo trợ giúp đỡ t́m cho môt căn nhà của nông dân, rất rộng nằm riêng biệt giữa cánh đồng trồng lúa ḿ tại làng Ruemlang sát b́a thành phố Zuerich. Với căn nhà to lớn riêng biệt, giữa đồng đă là nơi quá tốt cho những người bạn của gia đ́nh họ đến chơi, ăn nhậu hay bài bạc. Thím Tư và lũ con là khổ nhất v́ phải lo nấu nướng, lau chùi, cung ứng cho những cuộc ăn nhậu gần như xẩy ra rất thường. Đôi lần tôi có ư khuyên nhủ chú nên cảm thông cho sự khổ sở của vợ con nhưng cũng chẳng có tác động, nên tôi cũng đành nhắm mắt làm lơ cho yên chuyện.  

            Một lần chúng tôi đến chơi, có lẽ v́ ham chơi với mấy đứa bé khác nên thằng con của tôi tiểu ra quần, vợ chồng chúng tôi phải bỏ ngang cuộc nói chuyện đem thằng bé vào nhà tắm.  Ngay khi mở cửa pḥng tắm chúng tôi đă ngẩn ngơ, không tin nổi mắt ḿnh! Gần một nửa bồn tắm toàn là cá, phần lớn vẫn c̣n sống láp ngáp, chúng tôi tự hỏi từ đâu mà chú Tư mua được nhiều như vậy? Sau khi rửa sơ sài cho thằng con, trở lại pḥng khách để tiếp tục nói chuyện với mọi người, tôi hỏi chú Tư về số cá đó. Nghe tôi hỏi, chú Tư ngẩn ngơ tí chút, đưa mắt nh́n vợ rồi cho tôi biết, trong một lần chú Tư và vài người bạn đă đi thăm viếng hồ Katzensee, một hồ nước nhỏ ở giữa khu rừng không xa nhà. Đó là một khu du lịch của địa phương, gồm 2 hồ nước nhỏ thông với nhau ( có lẽ bằng hồ Hoàn Kiếm của Hà nội ).  Hàng ngày, nhất là vào mùa nắng ấm  dân cư đến đó vui chơi, nướng thịt hay đi dạo. Cả 2 hồ nước có những cây cầu ngắn chắc chắn bắc ra ngoài hồ. Khách viếng hồ thường mua những gói bắp rang tại cái kiosk nhỏ để cho cá ăn, coi như tṛ tiêu khiển.  Mỗi khi liệng nắm thức ăn xuống th́ hàng trăm con cá xúm lại tranh ăn, làm thú vui cho khách, nhất là với lũ trẻ con. Ban đêm hay mùa lạnh không có khách thăm viếng, Kiosk đóng cửa, khu vực của hồ nước hoàn toàn không có ai. Loại cá trong hồ phần lớn là cá trắng cỡ bằng bàn tay, giống như cá Trà Vinh của đồng bằng Cửu Long, Việt Nam.  Theo tôi biết th́ loại cá này không bán trên thị trường Thụy Sĩ v́ có nhiều xương và thịt không ngon. 

Cuối cùng chú Tư Nghĩa cho tôi biết, khi biết hồ có nhiều cá, ban tối vắng vẻ không có ai kiểm soát nên chú và mấy người bạn cùng nhóm tỵ nạn đă t́m mua dây cước về đan thành lưới rồi ban đêm rủ nhau ra hồ đánh cá . Cũng theo lời chú kể th́ chỉ liệng vài nắm bắp rang xuống, cá bu lại, quăng chiếc lưới nhỏ bằng cái chiếu là thu ngay được khoảng 3, 4 kg cá dễ dàng. Nghe họ nói tôi ngẩn ngơ v́ nó ra ngoài sự tưởng tượng của tôi. Với chút ngại ngần tôi nói với họ : 

-Chú Tư và mọi người không nên làm như vậy nữa, không dễ dàng măi đâu, ban đêm cảnh sát họ rất thường đi tuần. Tôi chắc chắn, khi họ thấy chú và mọi người bê vác “ chiến lợi phẩm “, nhất là dân ngoại quốc nữa …  chắc chắn họ sẽ chặn lại hỏi han và chuyện vỡ lỡ th́ rất phiền.  Nhất là chú và mọi người đang sống dưới sự giúp đỡ tài chánh của địa phương.  

Thấy mọi người im lặng, tôi nói tiếp : 

-Thật ra loại cá này chẳng ai thèm ăn, bán không ai mua v́ quá nhiều xương, thịt nhạt nhẽo, quá nhiều vẩy... Nếu mọi người thích ăn cá th́ mua tại siêu thị nhiều loại cá ngon hơn, đă đánh vẩy làm sạch ruột rồi , giá cả cũng đâu có mắc ǵ. 

H́nh như lời khuyên của tôi có phần làm mọi người hiểu biết, đưa mắt nh́n vợ chồng tôi, chú Tư trả lời : 

-Đúng như vậy chú Hai, chúng tôi bắt về mới thấy thịt nó lạt nhách, toàn là xương… Chúng tôi chẳng ai muốn lấy, chắc phải đem liệng làm phân ! 

Nghe họ nói, thành thật tôi cũng chẳng biết đó là lời nói thật ḷng hay đăi bôi cho tôi vui ḷng. Nhưng nhiều năm sau đó, thi thoảng gia đ́nh tôi vẫn đến thăm viếng cũng như giúp đỡ họ trong những vấn đề liên quan đến giấy tờ mà họ không hiểu biết … Tôi kín đáo ḍ la, nói chuyện với vợ con của họ, có vẻ như họ nói thật và không làm cái việc rất liều lĩnh và vô ư thức đó nữa.  

Sự liên hệ của chúng tôi và gia đ́nh chú Tư kéo dài khá lâu, cho măi đến khoảng năm 1995 hay 1996, khi mấy đứa con của chú thím ấy đă lớn khôn, có đứa đă đi làm kiếm sống và nuôi gia đ́nh. Vợ chồng tôi cũng bận bịu nhiều với cơ sở làm ăn nên chúng tôi gần như không liên hệ với gia đ́nh chú Tư và nhóm bạn bè của chú ấy nữa. Tuy nhiên vào khoảng nam 2000 tôi nghe tin chú Tư đă mất v́ ung thư gan, thím Tư xin về Việt nam du lịch, nhưng đă không trở lại Thụy Sĩ nữa.   

 

Ông chủ tịch 

Vào khoảng năm 1987, khi tôi c̣n làm việc tại viện khảo cứu về dinh dưỡng, tôi nhận được điện thoại từ một vị giáo sư của pḥng khảo cứu thổ nhưỡng( Boden-Kuende ), phân khoa nông nghiệp của đại học Bách khoa Zuerich nơi tôi đă làm việc nhiều năm về trước, khi tôi mới đến Thụy Sĩ. Vị giáo sư biết tôi là người Việt Nam qua giáo sư  H. Neukom chủ nhiệm phân khoa, xếp trực tiếp của tôi. Ông cho biết, vợ chồng ông đang đỡ đầu cho một gia đ́nh tỵ nạn Việt Nam, v́ có vài vấn đề không thông hiểu nhau giữ vợ chồng ông và gia đ́nh người Việt Nam, ông muốn nhờ tôi, giúp đỡ trong việc giao tiếp với họ. Dĩ nhiên tôi đồng ư v́ đó là việc đáng và phải làm. Ông cho tôi số điện thoại của gia đ́nh người tỵ nạn, mong tôi liên lạc để xếp đặt cuộc hẹn vào cuối tuần để vợ chồng ông ta và tôi sẽ đến nhà họ để nói chuyện.   

Ngay buổi tối hôm đó khi về nhà, tôi điện thoại đến nhà người Việt tỵ nạn như vị giáo sư yêu cầu. Tôi đă ngẩn ngơ v́ nghĩ là ông giáo sư đă cho tôi sai số điện thoai v́ khi quay số xong, tôi nhận được câu trả lời của một cô gái, con của chủ nhà: 

-A lô, ai đó? Đây là nhà của ông Chủ tịch hội “ABC “ đây! 

Với chút ngạc nhiên, nhưng tôi vẫn trả lời : 

-Cháu cho chú hỏi, đó có phải là nhà của ông Đạt không?  

Cô bé trả lời: 

-Đúng rồi ạ, để cháu gọi ba cháu cho chú nhe. 

Thế là tôi được nói chuyện với “ Ngài chủ tịch “, lúc đó tôi mới biết là ḿnh không quay lộn số. Rồi qua vài lời giới thiệu cũng như cho anh ta biết ư định của ông bà giáo sư đỡ đầu muốn có cuộc hẹn với anh ta vào buổi tối cuối tuần sắp tới. Trong lần điện thoại đó, tôi cũng dành tí chút thời gian hỏi thăm sơ sài về hoàn cảnh gia đ́nh, công việc làm của anh ta. Cuối cùng tôi được biết, với sự giúp đỡ của ông giáo, anh ta đang làm công nhân cho một cơ xưởng chế tạo tủ lạnh.  Đặc biệt là anh ta đang làm chủ tịch của một hội đồng hương tôn giáo của người Việt nam tỵ nạn nào đó tại Thụy Sĩ.   

Anh ta cho tôi biết ngày xưa, thời VNCH anh ta làm phó chi cục thuế của một tỉnh miền trung. Sau năm 1975, bị đi học tập vài năm, trở về nhờ tài năng nên được chính quyền CS địa phương cho tiếp tục làm việc tại sở thuế..v..v.. qua lời anh ta kể, tôi có cảm giác nể trọng v́ nghĩ ḿnh có dịp quen biết một người tỵ nạn có tŕnh độ. Dĩ nhiên tôi không quên nhắc lại cho anh ta biết là vào buổi tối chủ nhật sắp tới, tôi và ông bà giáo sư, người đỡ đầu sẽ đến nhà anh để bàn luận với anh vài vấn đề mà họ chưa minh bạch.  

Đúng như ngày hẹn, trước khi đến nhà anh Đạt (tên ông chủ tịch ) vợ chồng ông giáo sư và tôi hẹn gặp nhau trước tại một restaurant không xa nhà anh ta. Trong lúc ngồi uống cafe ông bà giáo sư cho tôi biết đại khái vấn đề mà ông bà ta muốn tôi giúp đỡ, đó là gia đ́nh anh ta đă đ̣i hỏi quá nhiều, vượt khỏi phạm vi giúp đỡ của họ trong vai tṛ của người đỡ đâu, cũng như của hội bảo trợ người tỵ nạn của chính phủ Thụy Sĩ. Ông Giáo sư cũng cho tôi biết anh ta đă bị hăng trước thải việc v́ làm việc không chăm chỉ, rất thường đi sớm về trễ… làm cho ông bà giáo sư rất phiền với công ty. Với hăng xưởng hiện tại, h́nh như cũng không thoải mái lắm. Đă thế anh ta không muốn nhận quần áo cũng như vật dụng cũ (second hands) do các cơ sở thiện nguyện cung cấp mà muốn hội bảo trợ giúp tiền mua đồ mới. Với hàng xóm, chung sống trong dẫy nhà, gia đ́nh anh ta cũng thường xẩy ra những rắc rối, phiền hà ..v..v.. Tóm lại ông bà giáo sư tỏ ra rất buồn bực, luôn luôn bị làm phiền v́ phải lo giải quyết những chuyện không đâu từ hàng xóm, hăng xưởng nơi anh ta làm việc gọi lại than phiền . Chính v́ vậy ông giáo sư muốn tôi nói rất rơ những ǵ mà người Việt Nam tỵ nạn được giúp đỡ trong thời gian đầu, khi chưa quen thuộc, chưa hiểu biết về xă hội, con người Thụy Sĩ. Khuyên anh ta nên thay đổi để sớm hoà nhập vào xă hôi định cư.  

Sau đó chúng tôi đến nhà anh ta đúng như lời hẹn, lướt qua vài lời giới thiệu, tôi cho anh ta biết tôi không phải là người làm việc cho cơ quan bảo trợ và cũng chẳng có quyền hạn ǵ ngoài việc đóng vai tṛ truyền đạt những ư muốn, đề nghị của anh ta cũng như của ông bà giáo sư, người đỡ đầu của gia đ́nh anh ta,  mong có được những sự cảm thông tốt đẹp giữ hai bên mà thôi. Dĩ nhiên trong buổi nói chuyện tôi cũng t́m cách khuyên nhủ vợ chồng anh ta nh́n rơ vấn đề, biết cái ǵ ḿnh có thể xin được từ nhóm bảo trợ, cái ǵ ḿnh phải cố gắng tự lo cho chính ḿnh hay gia đ́nh. Tuy nhiên dù cố gắng, thân t́nh khuyên răn, hướng dẫn rất chân t́nh cho vợ chồng anh ta,  nhưng tôi có cảm tưởng những cố gắng của tôi hoàn toàn không tác dụng!  

Có những câu nói của anh ta đă làm tôi ngỡ ngàng, nó quá sai lầm và đầy vô lư, tôi không dám dịch cho ông bà giao sư nghe. Chẳng hạn anh ta nói chính phủ Thụy Sĩ đă thu nhận người tỵ nạn th́ phải có trách nhiệm cưu mang và giúp đỡ những ǵ mà người tỵ nạn cần. Nếu không th́ đừng nhận, anh ta sẽ đi các quốc gia khác như Mỹ, Canada hay Úc châu…  nơi đó theo anh ta được giúp đỡ, cưu mang tốt hơn! Tóm lại tôi thấy cuộc gặp mặt được rất ít kết quả, thi thoảng ông bà giáo sư đưa mắt nh́n tôi với vẻ chán nản, tôi cũng mang cảm giác buồn ra mặt.  Cuối cùng th́ cuộc gặp mặt cũng chấm dứt. Trên đường về h́nh như cảm nhận được vẻ không vui của tôi, vợ chồng vị giáo sư tế nhị nói vài lời cám ơn  sự giúp đỡ của tôi, ít ra nhờ tôi mà họ truyền đạt những ư kiến, đề nghị của họ với gia đ́nh anh ta.  

Sau đó khoảng một tuần, th́nh ĺnh tôi nhận được điện thoại của anh ta với ư định cuối  tuần mời gia đ́nh tôi đến nhà ăn cơm Việt Nam, cũng là dịp để gia đ́nh anh ta gặp gỡ và làm quen với vợ con tôi. Dĩ nhiên tôi vui vẻ chấp nhận v́ thật ḷng tôi cũng muốn quen biết với một người có tŕnh độ trong xă hội VNCH xa xưa và cả thời CS đương thời. Đúng hẹn chúng tôi đến nhà anh ta, không phải chỉ có gia đ́nh tôi mà c̣n thêm khoảng 6, 7 người bạn khác của anh ta, trong đó có vài người từ Pháp sang, c̣n lại là những người tỵ nạn đến Thụy Sĩ cùng trong khu tạm cư với anh ta mà tôi chưa bao giờ gặp mặt.  

Đúng là một cuộc hội mặt khá đông. Lũ trẻ con dành một căn pḥng xem phim kiếm hiệp la hét rất ồn ào. Các ông th́ quây quần trên chiếc thảm giữa nhà chơi xập xám cũng chẳng yên lặng hơn đám trẻ con, các bà, các cô th́ lo chuẩn bị nấu ăn trong căn bếp … Tóm lại nh́n lối sinh hoạt đó, vợ chồng chúng tôi kín đáo đưa mắt nh́n nhau như đă hiểu rơ, sinh hoạt như vậy không tạo ra những phiền hà với hàng xóm mới là điều khác lạ. Sau vài câu chào hỏi, giới thiệu người mới quen với vợ chồng tôi, ông chủ tịch và nhóm bạn  có ư mời tôi nhập cuộc “ Tapi”, tôi lấy lư do không biết chơi, lịch sự để từ chối. Đến bữa ăn, dù bị ép mời uống rượu với mọi người kể cả những lời khích bác, nhưng tôi cũng phải tế nhị chối từ v́ phải lái xe cũng như rất dễ bị nhức đầu ..v..v.. Tóm lại cuộc gặp mặt lần đó đă cho tôi hiểu rơ, dạng người của anh ta và nhóm bạn hoàn toàn không phải là người mà tôi thích thân cận.  

Cũng trong cuộc ăn uống đó, tôi có hỏi anh ta về những công việc cũng như chức vị ngày xưa mà anh ta đă nói với tôi qua điện thoại cũng như trong lần gặp mặt đầu tiên với ông bà Thụy Sĩ bảo lănh. Có vài điều mâu thuẫn, làm cho tôi có tí chút nghi ngờ sự xác thực. Tôi có cảm tưởng anh ta là người không thật thà và rất thích khoe khoang ( mà người ta gọi là nổ )! Thành thật trong cuộc nói chuyện với anh ta và nhóm bè bạn, thực sự tôi không biết chính xác anh ta đă sống và làm việc ǵ thời VNCH và cả thời VN sau năm 1975, nó mâu thuẫn với lời nói của anh ta trước kia.  Anh ta cho biết gia thế rất giàu có ở Nha Trang, đă bỏ tiền ra mua hẳn một cái tàu đánh cá “6 blocks” tổ chức vượt biên thu gom rất nhiều Dollars Mỹ, vàng ṿng của khách nhưng bị hải tặc cướp tất cả …. Tóm lại, tôi nghe anh ta nói nhưng càng lúc càng cảm thấy như đang nghe một cuộc tấu hài mà sự kiện không biết thật hay giả ?!! Có lẽ anh ta và nhóm bạn h́nh như biết tôi không cùng đồng cảm trong lănh vực giải trí, t́m vui, nhất là khi  họ biết tôi không phải là người vượt biên mà tôi ra khỏi VN trước 1975 bằng con đường du học. Anh ta nh́n tôi đùa cợt cùng với những lời phù hoạ của nhóm bạn : 

-Chú Hai ăn học quá nhiều rồi thành ra lú lẫn, quên đi những cái khoái cảm của cuộc đời! 

Tôi mỉm cười cho qua và càng cảm nhận được lư do tại sao anh ta rất thường bị rắc rối trong sở làm, đụng chạm với hàng xóm, chung quanh . Tôi cũng thông hiểu và cảm thông vợ chồng ông giáo sư “Thổ nhưỡng học “ đă v́ ḷng tốt, thương người tỵ nạn mà không may nhận bảo hộ cho một gia đ́nh với rất nhiều rắc rối. Một điều rất hài hước, sau đó có vài lần  ông bà giáo sư nhờ tôi điện thoại đến nhà anh ta để nói cho anh ta vài điều ǵ liên quan đến việc làm hay giấy tờ bảo hiểm bệnh tật ..v..v... Lần nào điện thoại đến gia đ́nh anh ta, đều do bà vợ hay đứa con trai, con gái lớn của anh ta nhắc điện thoại, tôi cũng phải nghe câu nói rất ngô nghê, nực cười:  

-A lô, đây là nhà ông chủ tịch hội “ABC”, ai đầu giây đó ạ ?   

Có lẽ tôi cũng dành tí chút để viết thêm về một câu chuyện của“ngài Chủ Tịch “ đă  khiến tôi nhớ măi không quên. Lần đó vợ chồng vị giáo sư đỡ đầu lại điện thoại cho tôi, họ lại nhờ tôi giúp đỡ, cùng đến nhà ngài “ Chủ Tịch “ để giải quyết vụ lộn xộn giữa ngài chủ tịch và cậu con trai lớn đi mua dàn máy video tại một công ty điện máy theo dạng trả góp, nhưng đă không trả đúng luật dù nhà bán hàng đă nhiều lần gửi giấy cảnh cáo… Cuối cùng vấn đề được đưa ra quận cảnh sát khu vực, kết quả lại lộn xộn và ông bà giáo sư muốn nhờ tôi cùng đến nhà anh ta để t́m cách giải quyết vấn đề. 

Tôi và ông bà giáo sư đến nhà anh ta, phải qua một lúc nói qua, nói lại kèm theo khuyên nhủ. Cuối cùng anh ta đồng ư cho người đỡ đầu liên hệ với nhà bán hàng và sở làm của anh ta, hàng tháng tách ra một món tiền nhỏ từ sổ lương của “ ông Chủ Tịch” trả cho công ty bán hàng theo đúng giá mua nhưng không bị phạt vạ với lư do không hiểu rơ ngôn ngữ và luật lệ. Cũng trong lần gặp mặt, giải quyết vấn đề lộn xộn đó, có lẽ đă cảm nhận được cá tính không tốt của anh ta, ông giáo sư có than phiền với tôi là anh ta không thật thà, nói xạo quá nhiều ( Thật ra tôi cũng chẳng biết anh ta xạo với ông ta việc ǵ mà khiến ông ta nhận xét về anh ta như vậy ?). Tuy nhiên lời nhận xét của ông giáo sư đă làm tôi có phần bức xúc, tôi nhỏ nhẹ nói với anh ta: 

-Anh nên cố tránh việc nói xạo với ông ta đi, dù sao họ cũng là người rất tốt đă gíúp đỡ cưu mang gia đ́nh anh trong nhiều năm qua. 

Thấy anh ra im lặng, tôi nói tiếp: 

-Ông ta vừa nói với tôi là anh nói xạo quá nhiều! Tôi không dám trách anh, nhưng theo tôi nếu anh nói xạo điều ǵ nên chú ư, nhớ kỹ để lần sau khi nói với ông ta, anh không sai lầm, sinh ra mâu thuẫn mà mang tiếng.  

Tôi vừa nói xong, anh ta giương mắt nh́n tôi với vẻ hằn học, thái độ rất hung hăng như muốn đánh tôi, làm cho vợ chồng ông giáo sư ngạc nhiên, họ nhẹ nhàng kéo tôi ra xa. Đưa tay chỉ sát mặt tôi, anh ta nói :  

-DM anh chứ, anh tưởng anh có học muốn nói ǵ cũng được sao ?Hăy giữ vai tṛ thằng thông dịch cho đúng th́ tốt hơn. 

Ngưng lại môt tí, vẫn vẻ bực tức, anh ta nói tiếp : 

-DM anh tự hỏi xem có thằng Việt Nam nào không nói xạo đâu! Anh cũng thế mà thôi, đừng làm ra vẻ đạo đức!  

Dù không hiểu nhưng có lẽ nh́n thấy sự kích động của anh ta với tôi có phần vượt mức b́nh thường, ông giáo sư vỗ vai anh ta vài cái nhẹ với vẻ thân thiện rồi ra dấu cho tôi im lặng và từ giă anh ta ra về! Sau lần gặp mặt không vui đó tôi tự nói với ḿnh, nên tránh xa những rắc rối mà nó không phải công việc và trách nhiệm để khỏi bị bực ḿnh th́ hơn. Từ đó tôi không liên hệ với anh ta nữa. 

Tôi đă tưởng rằng chuyện quen biết thoáng qua với gia đ́nh “ ngài chủ tịch “ đă đi vào quá khứ bởi v́ “ tâm tư không đồng điệu “. Nhưng một hôm khi tôi vừa đi làm về th́ vợ tôi cho biết, khoảng gần trưa người con trai cả của “ ngài chủ tịch “ đến, cho biết muốn gặp tôi có chút việc. Vợ tôi nói, tôi đi làm không về nhà buổi trưa và hỏi anh ta có việc ǵ không ? Với tí chút ngại ngần anh ta cho biết v́ có công việc đến một cơ quan lo giấy tờ nhưng v́ không mang theo đủ tiền, về nhà th́ quá xa nên điện thoại cho ông bố và biết địa chỉ của gia đ́nh tôi, xin tôi cho mượn để lo công việc, sẽ trả lại ngày hôm sau. Bà vợ tôi không chút nghi ngờ nên đưa cho anh ta 200 SFr. Đi làm trở về nhà nghe vợ nói, tôi cười to và cho vợ tôi biết đó chỉ là cái tṛ ma mănh để lừa đảo của những con người gian trá, không bao giờ biết xấu hổ … mà nạn nhân là những người dễ mà thôi. Nghe tôi phân trần vợ tôi lắc đầu với vẻ ngạc nhiên không tin nhưng đúng như tôi dự đoán, thời gian qua đi trong im lặng, vợ tôi đă học được một bài học. 

 

Những bao hành tây và bắp non 

Cũng trong những dịp đến thăm viếng người Việt nam tỵ nạn tại các nơi tạm cư đó, gia đ́nh tôi quen biết được một gia đ́nh ngư dân khác đến từ tỉnh Khánh Hoà (Nha Trang). Người chồng khoảng lứa tuổi của tôi nhưng v́ kết hôn sớm nên họ có 4 đứa con xinh xắn và rất ngoan đều đă trên 10 tuổi. Gia đ́nh họ được nhóm đỡ đầu mướn cho một căn hộ khá rộng, 5 pḥng tại tầng trệt của một chung cư trong một làng hơi xa trung tâm thành phố Zuerich. Chỉ người chồng làm việc cho một công ty sản xuất dụng cụ trong pḥng tắm, WC.... vợ ở nhà chăm sóc con, thu nhập của chồng không đủ tiêu chuẩn nên hàng tháng vẫn phải nhận tiền hỗ trợ của quỹ an sinh xă hội.  

Cũng giống như phần lớn gia đ́nh Việt Nam tỵ nạn khác, từ một xă hội nghèo, dân trí thấp như Việt Nam họ bước vào Thụy Sĩ, một xă hội phát triển, khuôn thước với rất nhiều luật lệ. Nhiều năm đầu tiên họ cũng vướng mắc vào khá nhiều luộm thuộm, gia đ́nh vẫn có cuộc họp bạn, đàn đúm ăn nhậu, ồn ào làm phiền phức cho hàng xóm. Tuy nhiên với thời gian và nhất là cá tính phục thiện nên dù thuộc giới lao động, ít học tại Việt Nam nhưng cả hai vợ chồng rất thương yêu nhau, họ hiểu chuyện phải trái, chú ư học hỏi, sửa sai khi có sự chỉ dẫn. Thêm vào đó mấy đứa con đi học tại trường được thầy cô giáo thương mến, luôn luôn t́m cách giúp đỡ chúng hoà nhập vào xă hội từ những sự giao tiếp với bạn bè trong trường. Tóm lại chỉ sau vài ba năm gia đ́nh họ thực sự đă hoà nhập vào nếp sống Thụy Sĩ rất đáng ngạc nhiên. Đó cũng là lư do mà gia đ́nh tôi và họ có rất nhiều thân t́nh. Chúng tôi luôn luôn t́m cách giúp đỡ, chỉ dẫn họ những điều mà họ không biết v́ thiếu thận trọng, hay vô t́nh mà vướng vào những lỗi lầm.  

T́nh thân của hai gia đ́nh chúng tôi và họ rất tốt, vợ chồng họ thường hỏi han chúng tôi nhiều chuyện về Thụy Sĩ, họ cũng chẳng ngại ngần khi nói những lời ân hận mỗi khi v́ thiếu hiểu biết mà vướng vào sai lầm khi chúng tôi nói cho họ biết. Tóm lại dù là một gia đ́nh lao động nhưng có tinh thần phục thiện, biết phải trái, rất mong hoà nhập vào xă hội văn minh. Tôi c̣n nhớ thời gian đầu tiên , mới định cư, có lẽ v́ cô đơn, chưa hiểu nhiều về xă hội Thụy Sĩ nên họ cũng như bất cứ người VN nào khác, cũng vướng vào những lỗi lầm như thường tụ tập bạn bè đồng hương ăn nhậu, xem phim, đánh bài hay hát karaoke ồn ào đôi lần phiền nhiễu với hàng xóm. Nhưng qua những lần nói chuyện và với lời hướng dẫn của chúng tôi họ tiếp thu rất nhanh, dần dần đi vào khuôn thước của xă hội nhập cư . Hiện nay theo tôi được biết, vợ chồng họ đă về hưu, dành dụm tiền bạc sau nhiều chục năm làm việc cũng như đóng góp của 4 đứa con đă thành nhân, có nghề nghiệp ổn định, họ đă mua được một căn nhà khá rộng răi ở làng nhỏ, khu kỹ nghệ thuộc tỉnh Zuerich. Một hiện tượng không dễ dàng, ngay cả với người dân Thụy Sĩ chính gốc. 

Với gia đ́nh này chúng tôi có rất nhiều ấn tượng, từ lúc họ c̣n luộm thuộm, phiền phức ban đầu khi mới định cư cho đến ngày họ vững trăi, tự tin trong vai vế người công dân đàng hoàng của Thụy Sĩ, một xă hội văn minh và thịnh vượng trên thế giới. Trong bài viết này tôi muốn đề cập đến một lỗi lầm của họ, nhưng với sự khuyên nhủ chân t́nh của tôi, vợ chồng họ đă nh́n thấy sự sai trái và sửa đổi. Theo tôi nghĩ chính nhờ cá tính phục thiện này mà hiện nay đại gia đ́nh họ được coi là thành công, không thua kém bất cứ người Thụy Sĩ b́nh thường nào trong xă hội. 

Một hôm, người chồng điện thoại đến nhà tôi, nhờ tôi liên hệ với một người bạn sống tại Anh Quốc cho con trai lớn của họ  muốn sang đó học thêm về Anh ngữ. Có lẽ v́ sự giúp đỡ này, một lần vào cuối tuần, chúng tôi đến nhà họ chơi. Khi ra về, lúc tôi đang chuẩn bị lên xe th́ người chồng khệ nệ vác một bao tải hành tây khá to bỏ vào “cốp “ xe của tôi, cho biết anh ta vừa mua của một nhà nông trong khu vực. Dĩ nhiên chúng tôi rất vui mừng nhận món quà của họ.  

Rồi một lần khác, không lâu sau đó. Cũng lúc chúng tôi từ giă ra về, người chồng vác ra một bao tải toàn là bắp non, anh ta cho biết cũng vừa mua giá rất rẻ của một nông dân trồng bắp trong khu vực. Không như lần trước, lần này tôi thấy có điều ǵ đó không b́nh thường, v́ nông dân Thụy Sĩ trồng loại bắp dùng cho gia súc, nên họ luôn luôn chờ cho bắp già, hạt to rồi mới thu hoạch, cung ứng cho các nhà máy sấy khô rồi xay nhỏ làm thức ăn pha trộn cho gia súc ( trâu ḅ, heo, gà…) không có chuyện thu hoạch khi c̣n non. Đặc biệt loại bắp này khác với loại bắp ngọt được trồng cho người ăn, bán tại các siêu thị, trồng rất ít v́ lượng tiêu thụ không nhiều. Với suy nghĩ như vậy, tôi đưa mắt nghi ngờ nh́n hai vợ chồng họ, với tí chút ngại ngần tôi nói với họ những lư do làm cho tôi khó tin. Cũng chẳng ngại ngần tôi khuyên họ không nên dại dột mà làm nhưng chuyện không trong sáng v́ tương lai của chính họ và mấy đứa con, hiện chúng đang được thầy cô trong khu vực thương yêu và giúp đỡ.  

Có lẽ lời khuyên bảo chân t́nh của tôi, vợ chồng họ có chút ngượng ngùng, người vợ không ngại càu nhàu người chồng, bà ta cho tôi biết là có mấy người bạn của chồng đến nhà chơi rồi rủ nhau lúc đêm tối đến các khu nông trại trong khu vực hái trộm hành tây, bắp non của nông dân! Tôi đă thẩn thờ khi nghe họ nói, cuối cùng v́ t́nh thân kèm theo sự quư mến, tôi khuyên nhủ và chẳng ngại ngần cho họ biết nếu họ tiếp tục làm tṛ ăn cắp như vậy th́ chắc chắn chỉ một vài lần họ sẽ bị bắt ngay v́ người nông dân Thụy Sĩ không ngu ngơ mà không pḥng bị khi nh́n thấy cơ sở của ḿnh bị ăn trộm. Tôi cũng không quên nêu ra viễn tưởng rất phiền phức cho chính cá nhân họ và nhất là cho những đứa con của họ đang được dân cư trong khu vực thương mến, giúp đỡ.  

Tôi cũng cho họ biết loại bắp đường, ngon hơn bán đầy ở siêu thị, hạt to và ngọt hơn, giá cũng rẻ th́ cần ǵ phải làm cái tṛ dại dột đó mà bán tương lai của gia đ́nh ḿnh với vài chục Swiss Franc? H́nh như lời khuyên nhủ chân t́nh của tôi đă làm vợ chồng họ ân hận khi nh́n ra vấn đề.  Khi chúng tôi về nhà, chưa kịp thay quần áo th́ vợ chồng họ điện thoại đến, họ cám ơn tôi đă chỉ dẫn cho họ những sai lầm do thiếu suy nghĩ mà nghe theo bạn bè. Họ cũng không quên hứa với tôi là không và măi măi không bao giờ có chuyện đó xẩy ra nữa.  

Đúng như vậy, sau này mỗi khi chúng tôi gặp nhau, vợ chồng họ thi thoảng nhắc lại những sai lầm của thời gian mới đến Thụy Sĩ định cư v́ thiếu hiểu biết với sự ân hận và không bao giờ họ quên dành cho chúng tôi những lời cám ơn rất chân t́nh. Đó cũng là lư do tôi và gia đ́nh họ có rất nhiều t́nh cảm thân t́nh. Đến nay vợ chồng họ cũng như tôi đă vào tuổi hưu nghỉ trong thoải mái v́ những đứa con của chúng tôi và họ không có ǵ để nói là vượt trội trong xă hội Thụy Sĩ nhưng cũng chẳng có ǵ để chúng tôi phải lo buồn cho chúng. Đó cũng là điều mà chúng tôi mong ước vậy. 

Lưu An

( Zuerich, 04. 08. 2021)


Vài hàng về tác giả :

Lưu An là bút hiệu của anh Vũ Ngọc Ruẩn. Anh Ruẩn  sinh năm 1946 tại Xuân Trường, Nam Định, Việt Nam. Bút hiệu Lưu An & Thượng Xuyên Lộ, cựu học sinh Chu Văn An 59-66, tốt nghiệp Master về Food Sciences đại học Kagoshima, Japan 1977. Anh Ruẫn hiện đang sinh sống tại Thụy Sĩ. Cảm tưởng về thơ văn của Lưu An xin gởi về  kamikawajiluan@yahoo.com

........

® "Khi phát hành lại thông tin từ trang này cần phải có sự đồng ư của tác giả 
và ghi rơ nguồn lấy từ http://www.erct.com/"