KHI MÙA XUÂN ĐI QUA

 

Mến tặng Trần Thanh Việt và Toyo-san.

Có đến Kochi, có học hỏi về xứ nầy. Thế mới biết tại sao Việt-san đă gởi con tim của ḿnh cho Toyo-san, người đàn bà xứ Tosa, giữ giùm 50 năm qua và măi măi. 

Nguyễn Anh Tuấn  

Đó là một buổi chiều nắng đẹp. Trời cuối xuân, nhiệt độ đă bắt đầu ấm dần. Hàng cây hoa anh đào đă ra nhiều lá xanh. Chuyến bay của hăng hàng không All Nippon Airways, NH 006, rời thành phố lúc 5:00 giờ chiều. Tôi giă từ Nhật Bản khi hoa anh đào đă rơi rụng về cội. Có một chút ǵ vấn vương khi từ giă thành phố Tokyo nơi mà đă cho ḿnh những kỷ niệm đầy thương yêu của thời mới lớn. Mùa xuân năm nay, tôi gác lại việc đi "Henro (遍路, pilgrimmage )", để chu du, đi t́m một mùa xuân có anh đào nở, có anh đào rơi rụng . Và cũng để ḷng ḿnh thả theo những vần thơ cổ điển của nhà sư Saigyo Hoshi (西行法師 1118-1190) vào cuối thời Heian (平安). 

春風の
花を散らすと
見る夢は
さめても胸の
騒ぐなりけり

haru kaze no
hana wo chirasu to
miru yume wa
samete mo mune no
sawagu narikeri
 

Khi gió xuân đi qua
Những cánh đào rơi rụng
Trong cơn mơ vừa thấy
Để rồi khi thức dậy
Trong con tim bé nhỏ
 Âm thanh vẫn rạc rào   

(phỏng dịch , Nguyễn Anh Tuấn) 

Lần nầy trong ṿng 10 ngày, tôi xoay sở để đi qua các nơi mà tôi muốn được đi, thong dong dạo chơi, không vội vă như đi tour, không cần phải thức sớm , không hấp tấp chạy vội từ chỗ nầy qua chỗ khác. Một thư thả để enjoy các chặng đường đi qua. Con đường thiên lư đi từ Phú Sĩ (Yamanashi), đến Kochi, qua Matsuyama, Kyoto, dừng chân ở Tokyo trước khi về Mỹ. 

Được đi lại con đường cũ ở Yamanashi-ken khi ghé ngang qua Kofu (甲府), Isawa onsen (石和温泉), như được đi về nhà. Phong cảnh mùa xuân ở Oshino Hakkai (忍野八海), ở Saiko (西湖) của vùng Phú Sĩ với anh đào trong gió xuân dịu dàng, gợi lại những ngày đi học ở Yamanashi Dai, và những ngày đi lang thang ở nơi đây như đi t́m quên lăng sau trận đại hồng thủy của tháng 4 năm 1975, những ngày thật bơ vơ, lạc lỏng và một tương lai mù mịt. 

D:\2023 Spring_Japan Korea\20230409_094834.jpg

Oshino Hakkai (忍野八海 , 山梨県 ) (April 2023) 

Cũng tại Oshino Hakkai, tôi gặp một ông họa sĩ người chuyên vẽ các bông hoa trên các chén trà dùng trong các buổi sado, 茶道 (Tea ceremony). Ông tặng cho tôi một chén trà mà ông đúc tại xưởng nhỏ của ông ở nơi đây. Ông vẽ trên chén đó hoa anh đào thật đẹp và phía dưới ông có ghi tên ông với hàng chữ nhỏ và chỉ để tặng cho bạn bè, người thân. Ông nói hy vọng chén trà với hoa anh đào sẽ làm cho nổi buồn vơi đi. Tôi quư nó lắm v́ mỗi lần tôi uống trà và nh́n hoa anh đào ông vẽ, nổi buồn như tan biến trong chén trà như ông nói. Qua những thăng trầm, tôi làm mất chén trà đó. Tôi tiếc quá, và tôi cũng mất liên lạc với ông. Bây giờ trở lại Oshino Hakkai, nhưng không c̣n nhớ chỗ cũ, mà chỉ nhớ ngày đó ông khoảng 40 tuổi và ngày đó tôi cũng c̣n rất trẻ  ... . 

Khi xe bus sắp sửa vào Kofu, dăy núi Minami Arupusu (南アルプス, Southern Alps) với tuyết trắng trên đỉnh bao quanh thành phố  đưa tôi về với những ngày tháng cũ. Một xúc động có thật trong ḷng. Tôi thấy cay cay sau cặp kính cận . Ngày đó .. khi nghỉ đông ăn tết, tôi vội vă về geshuku lấy một vài bộ đồ bỏ vào trong cặp táp, đáp tàu  điện "Chuo-sen" (中央本線 ) từ nhà ga Kofu về Shinjuku. Nh́n qua cửa kính thấy tuyết trắng phủ đầy trên đỉnh. Nh́n về phía tây nam (Tokyo, Shizuoka), Fuji-san cũng đầy tuyết trắng, ḷng đầy rộn ră v́ hai tiếng sau sẽ có mặt ở Shinjuku. Gặp lại bạn bè thân thương.  

50 năm sau, đi qua đây, cảnh cũ vẫn c̣n đây, nhưng không gian xưa đă đi biền biệt. Chỉ có những đ́u hiu của gió xuân thổi về. 

Dấu binh lửa nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương

(Chinh Phụ Ngâm Khúc)  

E:\107_PANA\P1070247.JPG

Southern Alps, Kofu, Yamanashi-Ken (南アルプス,山梨県)  

Ngày hôm sau, tôi đáp chuyến shinkansen (bullet train) sớm, rời nhà ga Tokyo lúc 9:00 giờ đi Okayama (岡山). Đến Okayama đổi qua chuyến Tokkyu "Nampu 19-go" (特急南風 19, Nam Phong-19 ) đi Kochi. 

Mùa thu năm ngoái, tôi có đến Muroto-Misaki (室戸岬, Cape Muroto), phía đông nam của thành phố Kochi, khi đi "henro" chùa #24. 

C:\Users\anhtu\Downloads\20221117_121606.jpg

Chùa #24, Hotsumisakiji (最御崎寺 ) Muroto-Misaki, Kochi (mùa thu 2022)

Xe bus "MyYuu" (My 遊バス), đưa tôi đến Katsurahama (桂浜) và museum gần đó, ghi lại cuộc đời dấn thân của ông Sakamoto Ryoma (坂本龍馬). Ngồi dưới cành thông của  bải biển Katsurahama của xứ Tosa (tên cũ của Kochi-ken dưới thời Edo) vào buổi sáng mùa thu, nh́n sóng biển dạt dào vỗ vào bờ ḥa với tiếng chim hót trên những cành thông bao quanh tượng ông Ryoma, ngh́n đời nh́n ra biển như ước vọng hải hồ của ông, tạo một âm thanh và h́nh ảnh thật an b́nh. H́nh ảnh đó làm tôi nhớ lại những vần thơ yêu nước nồng nàn của cụ Phan Bội Châu vào đầu thế kỷ 20 khi cụ phát động Phong Trào Đông Du để phục quốc và canh tân đất nước. Cụ là một một Ryoma của nước Nam.  

Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ư trời!
Trong cuộc trăm năm đành có tớ,
Rồi sau muôn thuở há không ai?
Non sông đă mất, ḿnh khôn sống,
Hiền thánh c̣n đâu, học cũng hoài.
Đông hải xông pha nương cánh gió.
Ngh́n làn sóng bạc múa ngoài khơi. 

(Đào Trinh Nhất, Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu), Tân Việt tái bản, Sài G̣n, 1950) 

C:\Users\anhtu\OneDrive\Pictures\DSC09997.JPG

Katsurahama, Kochi-Ken 

Nh́n "Ngh́n làn sóng bạc múa ngoài khơi " mà thương xót cho thân phận nước Nam. Nếu vua Tự Đức anh minh như Minh Trị thiên hoàng th́ nước Nam ta đâu có phải 80 năm nằm dưới ách đô hộ tàn ác của người Pháp. 

Ông Ryoma đă bị ám sát chết năm 31 tuổi ở Omiya, Kyoto (December 1867). Ông không được nh́n thấy một xứ Nhật như ước mơ mà ông đă một đời tranh đấu cho, v́ năm sau đó, 1868, chế độ Mạc Phủ 幕府幕末đă cáo chung và một thời đại mới đă h́nh thành, một nước Nhật được Duy Tân như ông mơ ước.

Tượng Ông Sakamoto Ryoma (坂本龍馬 )
nh́n ra biển rộng như ước vọng hải hồ của ông
ở Katsurahama, Kochi-City 

 

C:\Users\anhtu\Downloads\P1070609a.JPG

Tượng Ông Sakamoto Ryoma, 坂本龍馬 (giữa), Nakaoka Shintarō, 中岡 慎太郎 (phải) và Takechi Zuizan, 武市 瑞山 (trái), trước nhà ga Kochi (April 2023)

 

D:\2022_Autumn_Kochi\DSC00853.JPG

Tượng ông Sakamoto Ryoma (坂本龍馬 ) và ông Nakaoka Shintarō (中岡 慎太郎 ) ở Maruyama Park, Kyoto (November 2022). Hai ông bị ám sát chết ở Omiya (近江屋, 河原町通 ), Kyoto tháng 12 , 1867. 

Nhưng sự dấn thân của ông, sự yêu nước chân thành của ông, sự khôn khéo ḥa giải của ông trong bối cảnh chia rẻ giữa xứ Satsuma (薩摩藩, Kagoshima-ken ngày nay) và Choshu (長州藩, Yamaguchi-ken ngày nay), là nền tảng đoàn kết đưa đến sự lật đổ Tokugawa shogun và đưa đến một thời đại mới mà quyền hành được trao trả lại cho Thiên Hoàng, đó là thời Minh Trị Duy Tân (明治維新). 

Nếu không có ông Ryoma, chắc không có Saigo Takamori, 西郷隆盛 (xứ Satsuma), Okubo Toshimichi,大久保利通 (xứ Satsuma) và Kido Takayoshi,木戸 孝允 (xứ Choshu). Ba ông nầy được gọi là Ishin Sanketsu (維新三傑, Duy Tân Tam Kiệt). Không có Ryoma, th́ cơ hội có được Minh Trị Duy Tân chỉ là một giấc mơ Nguyễn Trường Tộ. 

Tôi có dịp đi đến Kagoshima và Yamaguchi năm 2017. Ở Kogoshima, tôi hân hạnh được hai ông Saigo Takamori và Okubo Toshimichi “ra đón” và chụp ảnh chung. Tôi cũng đến thăm Shiroyama (城山), một ngọn núi có cái hang nhỏ, nơi mà ông Saigo Takamori chiến đấu đến ngày cuối chống lại quân binh chính phủ của vua Minh Trị. Cho nên, ông tài xế xe bus nói với tôi, "Kagoshima là phải nói đến ông Saigo Takamori, là đến thăm lịch sử buổi giao thời của thời Minh Trị". Tôi mua vé bus đi một ngày, lên xuống bao nhiêu lần cũng được, giá khoảng 10 đô. Xe bus đi các nơi có liên quan đến ông Saigo Takamori và thời đại Minh Trị. Nhờ chuyến đi nầy tôi đă học được nhiều hơn về ông Saigo Takamori, cũng như về thời đại Minh Trị. Tôi cũng được nh́n thấy núi lửa Sakurajima (桜島) bên kia bờ biển từ cửa sổ hotel. 

D:\2madevideo\Hiroshima Okayama Kagoshima Tokushima\Kagoshima 2_Okubo Toshimichi_Nguyen Anh Tuan_Saigo Takamori_Kagoshima Spring 2017.JPG

Okubo Toshimichi, Nguyễn Anh Tuấn, Saigo Takamori (người ta gọi ông Saigo Takamori là "The Last Samurai") at Museum of the Meiji Restoration (維新ふるさと館), Kagoshima  

Trên đường xe bus, My Yuu, về lại nhà ga Kochi, tôi xuống xe ở Harimaya Bashi (はりまや橋 ) để đổi qua chuyến xe bus khác đi Aki (安芸).

Ở Harimaya Bashi, có một cây cầu nhỏ và tượng một đôi nam nữ. Đó là câu chuyện t́nh buồn xảy ra cuối đời Edo.

Khoảng năm 1854, có một vị tu sĩ tên là Junshin (純信) ở chùa Chikurinji (竹林寺, Trúc Lâm Tự (chùa thứ 31 trong đoạn đường 88 ngôi chùa của "Henro") và một cô gái tên là Oma (お馬) yêu nhau. Oma thường đem quần áo mà mẹ cô giặt xong lên chùa cho các vị sư, và rồi t́nh yêu nảy nở giữa Junshin và Oma.

Một hôm vị sư Junshin đến khu phố Harimaya bashi mua Kanzashi (trâm cài tóc) tặng cho Oma. Tiếng đồn vang động đến tai của vị lănh chúa của Tosa (Kochi ngày nay) . Ông mở cuộc điều tra, và lưu đày Junshin ra khỏi xứ Tosa. C̣n Oma th́ bị lưu đày về phía đông, Akigawa (安芸川). 

Có một câu hát trong bài "Yosakoi Naruko Dance ", cho "Yosakoi" Matsuri (festival) được diễn ra trong mùa lễ Obon (tháng 8 hằng năm), ghi lại câu chuyện nầy: 

土佐の高知のはりまや橋で、坊さんかんざし買うを見た」

"Tosa no Kochi no Harimaya bashi de, bosan kanzashi kau wo mi ta ".

Nơi khu phố gần cầu Harimayabashi của Kochi xứ Tosa, tôi thấy có một vị sư mua trâm cài tóc

D:\04 2023_SW_Kofu_Aki_Kochi_Shimanto\P1070657.JPG

Harimaya Bashi, Kochi (April 2023) 

D:\2022_Autumn_Kochi\DSC00301.JPG

Câu chuyện t́nh "Harimaya Bashi" .. Junshin (純信 ) và Oma (お馬  

Tôi may mắn được xem một buổi tŕnh diễn Yosakoi nho nhỏ, nhân thành phố Kochi tổ chức sinh nhật lần thứ 155 cho ông Sakamoto Ryoma ở Chuo-Koen, Kochi, mùa thu năm ngoái. Dĩ nhiên Yosakoi được tổ chức vào dịp Obon tháng 8 là đông nhất và hay nhất. Nó quy tụ cả hàng chục ngàn người tham dự.

D:\110MSDCF\DSC00294.JPG

Ryoma’s Birthday 155, November 2022, Chuo-Koen, Kochi

 

D:\2022_Autumn_Kochi\DSC00293.JPG

Ryoma’s Birthday 155, November 2022, Chuo-Koen, Kochi

Điệu múa Yosakoi được phổ biến trên toàn quốc nước Nhật. Hầu như các thành phố lớn đều tổ chức "Yosakoi", nhưng chỉ có thành phố Kochi, nơi mà Yosakoi được khai thủy năm 1954, có đặc quyền mang tên gọi là “Yosakoi Matsuri” (よさこい 祭り) . C̣n các nơi khác phải đặt tên dài ḍng hơn như Yosakoi được tổ chức ở Harajuku, Tokyo, có tên là “Harajuku Omotesando Genki Matsuri- Super Yosakoi" (原宿表参道元氣祭り・スーパーよさこい). Ở Sapporo có tên là "Yosakoi Soran Matsuri",Yosakoiソーラン祭り

D:\110MSDCF\DSC00379.JPG

Kochi Castle, Kochi-City 

Trước khi rời thành phố Kochi, tôi t́m được một restaurant chuyên về món đặc sản của Kochi trong khu “Obiyamachi”, đó là món "Katsuo no Tataki" (鰹のタタキ). Đến Kochi mà không ăn món cá "Katsuo" là mất đi phần nào hương vị Tosa. 

E:\107_PANA\P1070626.JPG

Khu shotengai “Obiyamachi”, Kochi-City 

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230421_184940.jpg

Katsuo no Tataki restaurant, Obiyamachi, Kochi-City 

Tôi ordered món tokubetsu teishoku, có “katsuo no tataki” và “inaka zushi”(田舎ずし). Tôi cũng tự thưởng cho tôi "atsukan" (rượu sake hâm nóng) v́ cả mấy năm nay tôi không có dịp uống sake và bia. Món "Katsuo no tataki" ngon quá. Tôi chưa bao giờ có được món sashimi ngon như đêm hôm đó. Tôi order thêm một phần teishoku nữa, nhưng ông chef cook sợ tôi ăn không nổi v́ có thêm một phần cơm nữa. Ông dọn cho tôi một dĩa chỉ có Katsuo, coi như là special service. Ông tính tổng cộng là 3,200 yen kể cả sake. Với giá nầy khó mà có thể t́m được ở Tokyo hay Kyoto, only in Kochi. 

C:\Users\anhtu\Downloads\P1070639.JPG

Tokubetsu teishoku, có “katsuo no tataki”
và “inaka zushi “ (
田舎ずし)
at “Obiyamachi”, Kochi-city, April 2023 

 

https://discoverlocal.site/wp-content/uploads/2020/06/74188518_2533341566721023_54489794817818624_o.jpg

Katsuo no tataki (鰹のタタキ) (ăn với tỏi, wasabi và nước chấm), đặc sản của Kochi 

Tôi rời thành phố Kochi bỏ lại sau lưng những t́nh cảm mà người Kochi dành cho tôi từ t́m kiếm chỗ nghỉ qua đêm khi tôi đi henro muà thu năm ngoái. Cho tôi mượn router dùng khi đi henro trong địa phận Kochi. Những lát "Katsuo sashimi " mà người chef cook dành cho tôi. Chiếc bánh "nikuman" (bánh bao) mà người khách kế bên, mời tôi trên chuyến xe điện đi từ Kochi đến Nakamura, Shimanto. Cây cà rem ngọt lịm ở Ashizuri-misaki (足摺岬). Những giải thích về hoa lá, những tảng đá, những sự tích của Muroto quốc định công viên (足摺岬国定公園) của oobasan khi tôi nghỉ qua đêm ở "Muroto No Yado" (室戸の宿 ) của con trai bà.

Nơi thành phố nầy, tôi học được một số lịch sử và văn hóa của Kochi, "Thành phố Kochi là trung tâm hành chánh, thương măi, công nghiệp của tỉnh Kochi. Thành phố có khoảng 320,000 người, chiếm khoảng 47% dân số của Kochi. Người đàn bà Kochi được mệnh danh là "Hachikin, 八金". Đó là tiếng địa phương (方言) của xứ Tosa, có nghĩa người đàn bà Tosa (Kochi) có một tinh thần rất cao, rất nam tính. Người đàn bà xứ Tosa nói năng và hành động rất rơ ràng, thân thiện và quyết tâm, nhưng ... họ rất yếu đuối trước sự ngon ngọt.” 

Sau những tiếp xúc với người địa phương, từ văn pḥng chỉ dẫn, tiệm ăn, đến trong những cửa hàng ở department store, tôi nhận thấy sự nhiệt tâm của người đàn bà xứ Kochi. Thế mới biết tại sao Việt san đă gởi gấm con tim của ḿnh cho Toyo-san, người đàn bà xứ Tosa, giữ giùm 50 năm qua và măi măi. 

T́nh cảm người Kochi vượt qua khỏi ngôn ngữ "omotenashi" (おもてなし, hospitality). Nó làm cho tôi có cảm tưởng được xem như người trong gia đ́nh, hàng xóm. Nó làm cho người ta muốn trở lại một lần nữa.  

Mùa thu năm ngoái, khi tôi chấm dứt đi "henro" chùa #23 ở Tokushima. Để chuẩn bị đi đến chùa #24 ở Kochi. Khoảng cách giữa hai chùa nầy là 85 cây số. Phương tiện di chuyển công cộng rất hạn chế. Không có xe điện nối liền đến chùa #24 . Tôi biết ḿnh không "lội" nổi 85 cây số. Từ Tokushima, tôi phải đi ṿng lên Kochi-Ken. Rồi từ đó (Kochi eki), đi tàu điện đến Nahari. Từ Nahari dùng xe bus đi đến Muroto-Misaki. 

Thành phố Muroto có khoảng 12 ngàn người, nằm ở tận cực đông nam của đảo Shikoku. Chùa #24, Hotsumisakiji (最御崎寺) nằm trên núi nh́n ra biển Thái B́nh Dương. Dưới núi dọc theo đường cái có một cái động gọi là Mikuro-do (御厨人窟).

Ở nơi đây, Mikuro-do, sau ba năm tu hành, ngài (Kukai) đă giác ngộ. Và cũng nơi đây, với cảnh trời và biển, ngài lấy tên là Kukai (空海, Không Hải).  

C:\Users\anhtu\Downloads\DSC00479.JPG

Minshuku, Muroto-Misaki, Kochi-Ken

 

C:\Users\anhtu\Downloads\DSC00478.JPG

Bà quản lư ở Minshuku, Muroto-Misaki, Kochi-Ken

 

D:\2022_Autumn_Kochi\DSC00510.JPG

Mikuroto, 御厨人窟(động Mikuroto) ở Muroto-misaki  

Mikuroto, nơi Kobodaishi (弘法大師, Hoằng  Pháp Đại Sư) giác ngộ. Trong thời gian tu tập nơi đây, với "Trời" và "Biển" bao quanh, "Kobodaishi" chọn tên "Kukai" (空海, Không Hải). (Note: Kobodaishi là tên mà người đời kính trọng đặt cho ngài khi ngài viên tịch, posthumous title). 

C:\Users\anhtu\Downloads\DSC00437.JPG

Tượng ông Nakaoka Shintarō (中岡 慎太郎), sinh trưởng ở Muroto,
người bị ám sát cùng với ông Ryoma ở Kyoto năm 1867. (Autumn 2022)
 

 

C:\Users\anhtu\Downloads\DSC00467.JPG

Map of Muroto Anan Kaigan Kokutei Koen
室戸阿南海岸国定公園,Quasi-National Park ), Kochi-Ken
 

 

C:\Users\anhtu\Downloads\DSC00481.JPG

Muroto Anan Kaigan Kokutei Koen
(室戸阿南海岸国定公園,Quasi-National Park ), Kochi-Ken
 
 

Tôi chưa thấy tỉnh nào mà có nhiều loại tàu điện như ở Kochi, nhất là một nơi nhà quê như nơi đây. Ngày xưa, đi học ở Yamanashi (山梨県), thành phố Kofu (甲府 ), chỉ có 2 tuyến đường xe điện : mạch lộ chánh là "Chuo-sen" (中央本線 ), nối liền Kofu và Shinjuku/Tokyo về phía nam và Matsumoto/Nagano-ken về phía bắc. Và Minobu-sen (身延線), nối liền Kofu và Fuji-shi/Shizuoka-ken về phía tây.

 

D:\110MSDCF\DSC00317.JPG

Street car (路面電車), Tosa-Den, Kochi- City

 

E:\107_PANA\P1070690.JPG

Tokkyu “Ashizuri” (あしずり号) to Nakamura station from Kochi Station.

 

E:\04 2023_Others\20230421_100708.jpg

Takakuji-go (宝くじ号, Shintaro) to “Gomen” (後免駅行き ) @ Kochi station.

 

E:\107_PANA\P1070687.JPG

Another train….Tokkyu Nampu,特急南風号 , @ Kochi station.

 

D:\2022_Autumn_Kochi\DSC00609.JPG

On the way to Shimanto (四万十 ), Kochi-Ken 

D:\2022_Autumn_Kochi\DSC00640.JPG

Another train..  in Kochi-ken 

E:\107_PANA\P1070757.JPG

Another train ..Kuroshio Town Train (黒潮線)

C:\Users\anhtu\Downloads\Web capture_3-6-2023_153139_www.tosakuro.com.jpeg

Tosa Kuroshio Tetsudo (土佐くろしお鉄道 ),
Kochi-ken (picture from Tosa Kuroshio Tetsudo)
 

E:\04 2023_Others\20230421_100851.jpg

and another ..

 

E:\108_PANA\P1080216.JPG

and another.. 

 

E:\04 2023_Others\20230421_111242.jpg

tàu điện chạy dọc theo bờ biển phía nam Kochi-ken (土佐湾 ) 

The ocean is seen from the open deck of the train

E:\04 2023_Others\20230421_112149.jpg

tàu điện chạy dọc theo bờ biển phía nam Kochi-ken (土佐湾 ) 

đi ngang qua rừng thông (from the open deck of the train) 

Chiếc Tokkyu, "Ashizuri Ichigo (足摺岬1) đưa tôi từ ga Kochi đi về phía tây nam đến nhà ga "Nakamura". Đây là thành phố nhỏ miền quê, mang tên của một con sông : sông "Shimanto". Shimanto viết bằng kanji, 四万十川, Tứ Vạn Thập là " bốn vạn mười, fourty thousand and ten". Người dân nơi đây hảnh diện về con sông nầy, và mệnh danh nó là "The last clear stream of Japan",日本最後の清流と呼ばれる (tạm dịch là ḍng nước trong lành cuối cùng của Nhật Bản), bởi v́ nó nằm ở xa thành phố và trên con sông nầy không có làm một đập thủy điện nào. Khung cảnh th́ đẹp và trong lành. Tất cả đều tinh khiết, không bị vẩn đục và gần với thiên nhiên, nơi sản xuất những hải sản và nông sản trong lành và bổ dưỡng.  

E:\107_PANA\P1070797.JPG

Ḍng sông Shimanto (四万十川) chảy qua Shimanto-City (四万十市)

 

D:\04 2023_SW_Kofu_Aki_Kochi_Shimanto\P1070774.JPG

赤鉄橋 (Aka Tekkyo), Red Iron Bridge, trên ḍng sông Shimanto,

một biểu tượng cho thành phố Shimanto (April 2023)  

 

Đường đi từ Shimanto đến Ashizuri-Misaki, có nhiều cảnh đẹp và nơi đây người ta đă bảo tồn những thiên nhiên mà trời ban cho. 

E:\107_PANA\P1070810.JPG

dọc theo phía nam của Kochi .. nhiều bờ biển đẹp và hùng vĩ

 

E:\04 2023\20230423_092307.jpg

Ashizuri- Misaki lighthouse, Kochi-ken

 

E:\107_PANA\P1070853.JPG

Ashizuri-Misaki Lighthouse, Kochi-Ken

 

E:\107_PANA\P1070894.JPG

Temple #38, Kongofukuji (金剛福寺), Ashizuri-Misaki, Kochi-Ken  

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230426_085219a.jpg

Trên bước đường "Henro", người bạn mới quen, (quê ở Nagano-Ken)

 

E:\107_PANA\P1070978.JPG

John Mung Museum (中濱 万次郎, Nakahama Manjiro).

Tosa Shimizu (土佐清水市), Kochi-Ken  

Theo lịch sử của museum nầy nói về ông John Mung hay Nakahama Manjiro (中濱 万次郎), ông là người sinh trưởng tại Tosa Shimizu, xứ Tosa. Là một trong những người Nhật đầu tiên đặt chân đến nước Mỹ. Năm 1841, thuyền đánh cá của ông bị đắm. Ông được William Whitfield, thuyền trưởng của một tàu đánh cá Mỹ, cứu và đem về Fairhaven, Massachusetts. Lúc đó ông 14 tuổi. Ở đây, ông được đi học tiếng Anh và hàng hải. Sau đó, ông đi theo thuyền đánh cá voi, rồi lưu lạc qua San Francisco t́m vàng. Năm 1851, ông có một số vốn, qua Honolulu, ông mua một chiếc tàu trở về Nhật. Sau một thời gian bị thẩm vấn v́ lúc đó Nhật Bản là một quốc gia "bế môn tỏa cảng , 鎖国, sakoku", ông được Tokugawa shogun tin dùng, thăng lên làm "hatamoto (旗本)” , là một samurai có chức lớn, trực tiếp nhận lệnh của Shogun. Ông làm thông dịch viên cho thời kỳ mở cửa cho ngoại quốc vào. Sau khi Minh Trị Thiên Hoàng lên ngôi, ông đi học quân sự ở Âu Châu. Năm 1870, trên đường về Nhật, ông ghé qua Fairhaven, Massachusetts, thăm vị ân sư của ông, thuyền trưởng William Whitfield và các người quen nơi đây.  Chức vị sau cùng của ông là giáo sư của trường đại học hoàng gia Đông Kinh (Tokyo Imperial University). Ông mất năm 1898 tại Tokyo, 71 tuổi 

 

E:\107_PANA\P1070979.JPG

John Mung Museum. Tosa Shimizu (土佐清水市), Kochi-Ken.  

 

C:\Users\anhtu\Downloads\P1070897.JPG

John Mung Museum. Tosa Shimizu (土佐清水市), Kochi-Ken 

 

E:\108_PANA\P1080028.JPG

Tatsukushi Visitor center- nh́n ra biển, Tosa Shimizu-City, Kochi-ken

 

E:\108_PANA\P1080036.JPG

Kannon Iwa (Ḥn đá tượng Quan Thế Âm ), Tosa Shimizu-city, Kochi-Ken

 

E:\108_PANA\P1080050.JPG

Map of Cape Ashizuri (足摺岬 )

 

E:\108_PANA\P1080005.JPG

Umi No Wa (海のわ ) , nước biển có màu xanh green ở Tatsukushi (竜串 ),
Tosa Shimizu-city (
土佐清水市 ), Kochi-ken

 

Hoàn tất cuộc hành tŕnh đi từ Muroto-Misaki, Cap Muroto (red, phía đông) dọc theo vịnh Tosa (土佐湾, Tosay Bay) đi xuống phía tây nam và đến Ashizuri-Misaki, Cap Ashizuri (yellow, phía tây nam)

 

E:\108_PANA\P1080146.JPG

Kubokawa station, nơi đổi tàu điện đi Urawajima & Matsuyama, Ehime-ken 

 

E:\108_PANA\P1080280.JPG

Vào khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5, hàng năm, nhân lễ Trẻ Em (Children’s Day), trước ga Tokawa, 十川駅(とおかわえき)(Shimanto-cho, Takaoka-gun, tỉnh Kochi ), chúng ta  có thể nh́n thấy "những con cá chép băng qua sông Shimanto", 高知県高岡郡四万十町.  

 

E:\04 2023_Others\20230424_115123.jpg

"Những con cá chép băng qua sông Shimanto",
高知県高岡郡四万十町
, nhân lễ Trẻ Em (Children’s Day)

 

E:\108_PANA\P1080143.JPG

Yodo-Line (予土線,鉄道ホビートレイン, Hobby Train).

Chiếc baby shinkansen dễ thương mang tôi đi từ Kubokawa,

窪川 (Kochi-ken) đến Urawajima, 浦和島, (Ehime-ken)

E:\108_PANA\P1080144.JPG

Yodo-line (予土線)) poster.  

 

E:\04 2023_Others\20230424_133352.jpg

Urawajima Station (浦和島駅 ), Ehime-ken

Mùa xuân năm nay, lần đầu tiên tôi đặt chân đến thành phố Matsuyama.

 

E:\108_PANA\P1080451.JPG

松山駅, Matsuyama Station, Ehime-ken. 

H́nh ảnh đầu tiên làm tôi chú ư là câu viết “坂の上の雲のまちの松山, v́ nó nằm đối diện với hotel tôi ở (ANA Crowne Plaza Hotel) ở Okaido (お街道). Cảm thấy nó hay hay và có một chút ǵ lăng mạn.  

E:\108_PANA\P1080520.JPG

“Saka no Ue no Kumo”『坂の上の雲』Clouds Above the Hill,

1968, của ông "Shiba Ryotaro (司馬 遼太郎 )

Nhưng không hiểu ư nghĩa của nó. Về sau có một người Nhật trong hotel giải thích cho tôi biết, đó tên một quyển tiểu thuyết, “Saka no Ue no Kumo『坂の上の雲Clouds Above the Hill , của ông "Shiba Ryotaro (司馬 遼太郎 ) viết vào năm 1968 nói về tinh thần của ba người dân sanh ra và lớn lên ở Matsuyama trong thời kỳ Minh Trị Duy Tân. Tinh thần đó vẫn c̣n tồn tại và được tiếp tục ở thành phố nầy. 

  Matsuyama, tôi “t́m thấy ” được Botchan và Madonna. Được tắm ở Dogo Onsen, 道後温泉 (Dogo hot spring), nơi Botchan thường đi onsen nơi đây. Được đi thăm Matsuyama castle, nh́n xuống thành phố Matsuyama như thời Edo.  

Dogo Onsen đang được sửa chữa, nhưng nhận một số nhỏ vào tắm. Chỉ có 5 người vào một lúc (trong đó có hai người ngoại quốc là tôi và một người Anh ở Ăng Lê qua. Có lẽ anh chàng nầy cũng bị ảnh hưởng của "Botchan" như tôi). Trong bathtup c̣n khắc trên tường là thời Taisho (大正). Nét khắc đă mờ nên không đọc được Taisho năm thứ mấy. Ít nhất nó có lịch sử cũng trên dưới 100 năm v́ Thiên Hoàng Taisho trị v́ từ năm 1912 đến năm 1926. 

Sau khi đến thăm thành phố Matsuyama, tôi đă thực hiện được sự thăm viếng hai nơi được đưa vào văn học và văn chương nước Nhật.  

1)     Izu No Odoriko (伊豆 の踊り子 ) của Kawabata Yasunari, nhà văn được giải Nobel về Văn Chương năm 1968 với Xứ Tuyết, Yukiguni (雪国), Ngàn Cánh Hạc, Senbazuru (千羽鶴), và Cố Đô, Koto (古都).Tôi đă đến thăm Kawazu và Izu Hanto năm 2017.

 

2)      Và Botchan (坊っちゃん) của ông Natsume Soseki viết vào năm 1906. Botchan đă đem du khách đến Matsuyama và Dogo Onsen. Botchan đă gây ảnh hưởng rộng lớn trong nền văn học nước Nhật đầu thế kỷ thứ 20. Quyển sách được đưa vào chương tŕnh giáo dục của Nhật Bản (中学2年生国語, 2nd grade of Junior High School). 

 

D:\Pictures\20191119_Izu No Odoriko.jpg

Izu No Odoriko (伊豆の踊子). Ở Kawazu (河津), Izu-Hanto (伊豆半島 )

(Mùa Thu 2017) (Ref. quyển tiểu thuyết "Người Vũ Nữ Xứ Izu" (1926) của Kawabata Yasunari (川端康成)  

 

E:\04 2023\20230425_130656.jpg

Botchan và Madonna trong quyển tiểu thuyết "Botchan"
của Natsume Soseki (
夏目漱石) (1906), Matsuyama, Ehime-ken (April 2023)

 

E:\04 2023\20230425_141420.jpg

Dogo Onsen (道後温泉 , hot spring) nổi tiếng nhờ quyển tiểu thuyết "Botchan",坊っちゃん (1906) của Natsume Sōseki ,夏目 漱石, Matsuyama, Ehime-ken (April 2023)

 

E:\04 2023\20230425_113511.jpg

Matsuyama castle, Matsuyama, Ehime-ken (April 2023)

 

E:\04 2023\20230425_200554.jpg

Mưa đêm ở Matsuyama (April 2023) 

Đêm cuối cùng ở Shikoku (Matsuyama), trời đỗ mưa. Tôi cầm dù đi ra ngoài, đội mưa mà đi, từ hotel ở Okaido (お街道 ) lên Matsuyama castle. Nhưng người ta đă đóng cửa vào trong thành. Tôi ṿng qua một con đường nhỏ. Cửa hàng hai bên đường đă đóng. Chỉ có ḿnh tôi và ánh đèn hiu hắt trên đường. Không khí êm đềm, tĩnh mịch của thành phố nơi miền quê đưa tôi về với những kỷ niệm xa xưa của quê hương Biên Ḥa, cũng có những cơn mưa như cơn mưa tối nay ở Matsuyama, không lớn lắm nhưng đủ làm ướt người. Ngày xưa ở Việt Nam không có dù. Trên đường đi học về nhà mà bị mắc mưa, th́ "đội mưa" mà đi, đúng với ư nghĩa của nó.

Sáng hôm sau, chuyến Tokkyu "Shiokaze 12-go" đi Okayama, tôi từ giă Botchan và Madonna cùng Shikoku.

D:\04 2023_Shimanto_Nakamura_Matsuyama_Kokyo\P1080542.JPG

Shiokaze Express đi Okayama 

D:\04 2023_Shimanto_Nakamura_Matsuyama_Kokyo\P1080449.JPG

Shiokaze Express from Matsuyama to Okayama

D:\04 2023_Shimanto_Nakamura_Matsuyama_Kokyo\P1080535.JPG

Ghế màu xanh xanh phảng phất cơn gió biển như tên của chuyến tàu điện nầy,
"Shiokaze, sea breeze" … nó đi qua biển "Seto-nai-kai"(
瀬戸内海 ) 

Khi chuyến Shiokaze qua cầu "Seto Ohashi" (瀬戸大橋 ) bắt ngang qua “Seto naikai", tôi nh́n lại phía sau, bóng dáng của Shikoku mờ dần, mờ dần, trong đám mây giăng ngang ở cuối cầu.  

C:\Users\anhtu\Downloads\Seto Ohashi.jpg

Chiếc cầu "Seto Ohashi" (瀬戸大橋 )  bắt ngang qua biển Seto-Nai-Kai (瀬戸内海 ),
nối liền Honshu (Okayama-Ken) và Shikoku (Kagawa-ken) (internet)
 

Trong tàu điện, người ta cho nghe bản hát "Seto no Hanayome" (瀬戸の花嫁, 1972?). Nghe mà nhớ lại ngày xưa c̣n đi học, Ano toki .. Ano Uta (あの時。。あの歌 ). Xa quá rồi những ngày đó ! 

(159) 瀬戸の花嫁 - 小柳ルミ子 (19721979HD1080P - YouTube 

Đến Okayama, tôi đổi qua chiếc Hikari (bullet train) đi Kyoto.

Kyoto, với tôi lúc nào cũng đầy ắp kỷ niệm, từ những ngày c̣n đi học và măi về sau nầy. Mặc dù đi shusoku ở Tokyo, nhưng rồi cũng ..phải xuống Hieizan (比叡山)  để đi "thiền" như các tân xă viên (新社員) khác, trước khi được có cái tên là sarariman.  

Lần nầy tôi phải có mặt ở Kyoto eki khoảng 3 giờ, và từ đó lấy xe bus đi "Gion", đi xem "Miyako Odori". Tôi có nghe nói và xem TV họ chiếu cảnh các cô geiko và maiko múa các điệu múa cổ truyền trong các phim. Đây là cơ hội duy nhất cho tôi được xem điệu múa cổ truyền nầy. Hôm nay và ngày mai là show cuối cùng cho mùa xuân. Nếu không, th́ phải đợi đến mùa xuân sang năm..  

E:\109MSDCF\DSC09792.JPG

Kyoto Station 

Tôi đă mua vé hằng tháng trước, nên được ngồi ghế phía trên, đúng ra là hàng thứ ba. Vé bao gồm được thưởng thức "shado" (tea ceremony): xem cô geiko làm matcha, uống trà và ăn wagashi (Japanese sweets).   

Miyako Odori được viết là 都をどり. Tôi cứ ngỡ "odori" phải được viết như là " 踊り". Nhưng họ viết bằng "hiragana". Điều ngạc nhiên thứ hai là chữ "o" ở đây, viết là " " (wo), chứ không phải là " ". Tôi có hỏi người khách ngồi cạnh tôi "tại sao họ viết như thế nầy", th́ họ lắc đầu "không biết". Thôi th́, tôi học được cách viết đúng của "Miyako Odori" mà bấy lâu nay cứ ngỡ là ḿnh biết và ḿnh viết đúng. 

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230426_180243.jpg

Miyako Odori (都をどり ), Gion, Kyoto, April 2023

 

D:\2022_Autumn_Kochi\DSC03342.JPG

Miyako Odori (都をどり), được tŕnh diễn ở
Gion Kōbu Kaburenjō(
祇園甲部歌舞練場)(April 2023)

 

E:\04 2023\20230426_175228.jpg

Gion Kōbu Kaburenjō(祇園甲部歌舞練場)(April 2023)

 

C:\Users\anhtu\Downloads\Web capture_4-6-2023_192919_www.japan.travel.jpeg

Miyako Odori (都をどり ), Gion, Kyoto (v́ người ta cấm chụp ảnh trong rạp.
Xin mượn ảnh nầy từ internet. Màn múa nầy có trong chương tŕnh) 
 
 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230426_174412.jpg

Sân khấu chính 

Sân khấu chính (hai bên có hai sân khấu nhỏ để các cô đi ra múa, rồi từ từ ra sân khấu chính, và sân khấu nhỏ cũng là nơi cho các người đàn koto , samisen (bên phải) . C̣n sân khấu nhỏ bên trái để các cô Maiko ngồi vỗ trống.) 

Mỗi màn múa đều có mang tính cách lịch sử từ thời Heian, Kamakura, Eido, hoặc theo mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông . Hôm đó, có tất cả có 8 màn múa, trong đó có màn nói về "Tanabata" (Ngưu Lang Chức Nữ) và có màn "hát và múa " như trong Noh. Thời gian khoảng một tiếng rưởi. 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230604_115014.jpg

Dĩa đựng "Wagashi" (bánh ngọt kiểu Nhật dùng khi uống trà đạo, Tea Ceremony)

C:\Users\anhtu\Downloads\20230604_115002.jpg

Dĩa đựng  bánh "Wagashi"  với hàng chữ "Miyako Odori", 都をどり.

 

Ra khỏi rạp, trời c̣n sáng, tôi đi dọc theo sông Kamogawa (鴨川 ) nơi tôi vẫn thường đến để được đi qua "tobiishi" (飛び石 ) mỗi khi "về" Kyoto. Khi ḍng sông gần đến Demachiyanagi (出町柳 ) và Shimogamo jinja (下鴨神社 ), tên ḍng sông được viết là (賀茂川), không biết tại sao (?), nhưng vẫn đọc là "Kamogawa".

 

C:\Users\anhtu\Downloads\Tobi Ishi.jpg

Tobiishi trên ḍng Kamogawa, Kyoto 

Dọc theo bờ sông, phong cảnh vẫn như xưa. Những cặp t́nh nhân ngồi bên nhau, có những người ra đây chơi guitar hay thổi sáo để cho thiên hạ được thưởng thức chung được cùng nhau nh́n cảnh chiều về trên ḍng sông của cố đô ngh́n năm. 

Tôi lang thang đến Shijo Ohashi, đi lên cầu. Pontocho nằm kế bên. Thôi đi t́m quán ăn ở đây, đi đâu cho xa xôi. Pontocho về đêm thật nhộn nhịp và dể thương với con đường nhỏ nhắn, hai bên hàng quán chưng bày những chiếc dù cổ màu đỏ, và những furin、風鈴 (chuông nhỏ), bay theo gió tạo những âm thanh trong trẻo như đón xuân về.

C:\Users\anhtu\Downloads\DSC09303.JPG

Pontocho, Shijo Kawaramachi, Kyoto

Tôi chọn một tiệm có vẻ trang nhă. Cô tiếp viên hướng dẫn tôi đến một bàn ngồi sát bờ sông ... Tôi ngạc nhiên  nói thầm trong bụng, ḿnh thấy h́nh ảnh, phim ảnh người ta ngồi ăn uống trong hàng quán dọc theo bờ sông. Nhưng không biết nó ở đâu. Tôi mơ ước có được một lần. Và hôm nay, tôi ... Ngồi xuống ghế, nh́n ra ḍng sông Kamo mà trong ḷng rộn rả. Một mơ ước, một akogare (憧れ) nào đó thật tầm thường, nhưng đến quá bất ngờ, làm ḿnh không kịp chuẩn bị. Nhưng cái hạnh phúc tầm thường đó đến làm ḿnh không quên được.

Cám ơn Kyoto, lúc nào cũng đem đến cho tôi ngạc nhiên đầy thú vị . Hôm nay tôi có được "Miyako Odori", một cái dĩa có kư "Miyako Odori" làm kỷ niệm, và bây giờ có được "Pontocho" cạnh ḍng sông Kamo. 
 

Tôi rời Kyoto sáng hôm sau. Chỉ c̣n hai ngày nữa JR Pass của tôi hết hạn. Hôm nay về lại Tokyo.   

D:\2022_Autumn_Kochi\DSC03375.JPG

Fuji-san (somewhere in Shizuoka/Numazu from Shinkansen) 

Chiếc shinkansen rời cố đô trong cảnh nhộn nhịp của mùa xuân. Chuyến tàu đi qua Shizuoka, nh́n Phú Sĩ với tuyết trắng xóa trên đỉnh mà nhớ ngày nào ở công trường Numazu (沼津工場) của Fujitsu, nơi làm Mainframe Computer, khi tôi và 2 người bạn người Mỹ đến đây làm việc chung với các k sư của Fujitsu. Weekend, các người bạn Mỹ đi Tokyo chơi, c̣n tôi nằm trong căn pḥng của dormitory, nh́n Phú Sĩ phía sau, và biển Thái B́nh ở phía trước mà an vui với ngày cuối tuần. Thế mà đă hơn 30 năm qua.

Tôi cố nh́n lại phía sau để t́m một chút ǵ của "Numazu", nhưng chỉ thấy những vườn trà xanh trên đồi bị bỏ lại khi chiếc shinkansen vùn vụt đi qua.  

Cùng ngoảnh lại, mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

(Chinh Phụ Ngâm Khúc)

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230427_115738.jpg

Fuji-san (somewhere in Fujinomiya/Mishima area from Shinkansen) 

Tôi booked hotel ở O-Daiba, có đi đến đây một lần. Lúc trước th́ có người dẫn đi. Lần nầy th́ phải tự lực cánh sinh. Sáng nay trước khi rời Miyako hotel ở Kyoto, tôi có hỏi ga nào xuống th́ gần "Grand Nikko Tokyo Daiba Hotel", th́ họ bảo xuống ở ga Shinagawa.

Khi chiếc shinkansen ngừng ở nhà ga "Shinagawa, tôi bước xuống, ngơ ngác, không biết đi về hướng nào.Tôi lại không có wifi/ router để t́m đường. Nhưng không sao, khi bước xuống cổng chính (中央口, chuo guchi), tôi hỏi ông JR ở nhà ga, trạm xe bus đi đến hotel. Ông chỉ tôi đi bộ khoảng 5 phút, cuối đường, quẹo phải, đi xuống tam cấp, là xe bus "Rainbow Bus" đậu ở đó. Xe bus vẽ h́nh Rainbow thật đẹp đang đậu chờ tới giờ chạy. Ông tài xế bảo tôi là xe bus sẽ chạy lên đến cổng của hotel, đừng lo ngại. Xe chạy qua những đường phố sạch sẽ và ngăn nắp v́ có lẽ đây là vùng đất mới, được làm ra như là đảo nhân tạo, nên không có nhà cửa cũ và những con đường nhỏ. Khi xe bus đi ngang qua cầu Rainbow Bridge, tôi nhớ được chiếc cầu nầy v́ đă đi qua. Xe bus đậu trước hotel. Tôi kéo chiếc vali vào trong và check in. Họ cho tôi ở lầu 19. Bước vào pḥng, tôi quá đổi ngạc nhiên v́ pḥng to gần gấp đôi pḥng hotel Miyako ở Kyoto. Từ pḥng nh́n ra là vịnh Đông Kinh. Tôi để vali vào trong góc, rồi nằm trên giường nh́n trời xanh, và biển qua cửa sổ. Nơi đây thật yên tỉnh, không ồn ào, náo nhiệt như ở Shinjuku. Một b́nh yên có thật trong ḷng.    

C:\Users\anhtu\Downloads\20230427_154351 (1).jpg

Room at Grand Nikko Tokyo Daiba & Tokyo Bay (April 2023) 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230427_152740 (1).jpg

Room at Grand Nikko Tokyo Daiba (April 2023) 

E:\04 2023\20230429_090417.jpg

Tokyo Bay seen from the hotel room (April 2023) 

Lần đầu tiên ở hotel nơi đây, vùng đất mới. Đường tàu điện từ Shimbashi station (新橋 駅) đến chợ cá mới Toyosu (豊洲市場 ), ngừng ở Daiba Station, 台場駅 (Grand Nikko Tokyo Daiba hotel), có cái tên thật dể thương : Yuri Kamome-line (ゆりかもめ ), lấy tên từ một loại chim biển, đầu có màu đen ở vùng nầy. 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230428_090917.jpg

H́nh ảnh "Kamome" ở nhà ga Shimbashi,
Yuri Kamome Line, Shimbashi Eki, Tokyo

 

E:\04 2023\20230428_181511.jpg

Yuri Kamome Line (ゆりかもめ線 ),
Shimbashi Station (
新 橋 駅, April 2023)
 

Đêm đó, tôi đi ra ngoài đi thăm Tokyo Tower v́ nó cũng gần Shimbashi station và hotel.

Không biết bao lâu rồi tôi mới trở lại vùng đất nầy. Tokyo Tower Tower được hoàn thành năm 1958, một khởi điểm gây niềm tin cho nước Nhật và người dân Nhật, 13 năm sau ngày bại chiến. Để dẫn đến thời kỳ Kinh Tế mạnh mẽ và sau đó là Tokyo Olympics năm 1964 và thời kỳ "Kinh Tế Cực Thịnh" (高度経済成長, Kodo Keizai seicho (Cao độ Kinh Tế Thành Trưởng.)   

C:\Users\anhtu\OneDrive\Pictures\P1080621.JPG

Tokyo Tower, Minato-ku, Tokyo (April 2023)

 

E:\108_PANA\P1080571.JPG

Tokyo Tower, Minato-Ku, Tokyo (April 2023) 

Cũng như tháp Eiffel ở Paris, Tokyo Tower đă một thời là h́nh ảnh tượng trưng cho thành phố Tokyo. Ngày nay đă được thay thế bởi Tokyo Sky Tree. Nhưng trong tôi vẫn cảm thấy Tokyo Tower nó "gần gũi" hơn và có một chỗ đứng trong một quá khứ của ḿnh. 

Trên đường về hotel, đường tàu "Yuri Kamome" đi ngang qua Rainbow Bridge. Chiếc cầu bắt qua vịnh Tokyo về đêm có vẽ mỹ miều hơn, nhưng cũng có vẽ lạnh lùng hơn như con nước dưới cầu. 

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230427_204323 (2).jpg

Rainbow Bridge về đêm, Odaiba, Tokyo (chụp từ phía Odaiba, April 2023) 

Trong ngày cuối của chuyến đi, tôi thức dậy sớm đi thăm mộ của thầy tôi, Kagawa Ken Ichi ở Asakusa. Tôi dùng Ginza-sen đi từ Shimbashi đến Asakusa. Xuống subway ở Asakusa, đă thấy thiên hạ tấp nập. Đi ngang qua chùa Sensoji (浅草寺 ), cái lồng đèn to, màu đỏ, trước cổng Kaminari-mon (雷門), của ông Matsushita vẫn c̣n đó. Buổi sớm, chưa tới 10 giờ mà người ta đă đầy trước cổng.

Mỗi lần có dịp đi Tokyo, tôi đều đi thăm mộ thầy tôi và có đi ngang qua đây. Bên trong, là Nakamise , dọc theo hai bên là người ta bày bán những đồ vật kỷ niệm và những thức uống và thức ăn hương vị Tokyo. Tôi thích nhất là uống "Amazake, “甘酒" và ăn "nikuman, bánh bao" nơi đây. Ngày xưa dưới thời Edo, Asakusa được gọi là "shitamachi, 下町, downtown". Và ngày nay, Asakusa vẫn c̣n giữ được một vài khu phố cổ có cái phong cách "shitamachi" ngày xưa của nó.

C:\Users\anhtu\Downloads\20230428_095207.jpg

Trước cổng chùa Sensō-ji (浅草寺) (April 2023) 

Tôi đi hết cuối đường của Kaminari-dori, băng qua đường là "Mr. Donut" shop. Đi khoảng 300 mét là đến nơi một nơỉ, có tên  là來鷹寺. Tôi đi vào phía trong, một bà cụ khoảng 85 tuổi ra đón tôi và tôi tự giới thiệu tên, và là học tṛ của Kagawa sensei đến viếng mộ thầy. Tôi đưa cho bà 500 yen, mua hai bó nhang. Bà đưa nhang cho tôi, hai lá xanh, và một bucket đựng nước để rửa mộ. 

Tôi rửa mộ thầy xong, đặt hai lá xanh lên hai bên, và đốt hai bó nhang cắm vào phía trước mộ và cầu nguyện.  

來鷹寺 (Lai Ưng Tự) là một ngôi nhà nhỏ được làm chùa. Và bên cạnh chùa là một mảnh đất có khoảng 30 ngôi mộ. Mộ đây chỉ là một tấm đá cement, h́nh trụ đứng, (墓石, Haka Ishi (Mộ Thạch)). Cao khoảng dưới 1 mét, bề ngang bằng khoảng 1/3 bề đứng, tượng trưng mộ cho một gia tộc. Nhưng không có mộ thật chôn bên dưới. Phía trước tấm đá cement nầy có khắc hàng chữ Namu Amidabutsu, 南無阿弥陀仏 (Nam Mô A Di Đà Phật). 

Bên hông tấm đá cement, tôi thấy có ghi tên những người quá văng, mất năm Showa thứ bảy (1932), Showa 39 (1964). Thầy Kagawa mất tháng 9, năm Heisei 11 (1999), thọ 84 tuổi. C̣n vợ thầy, cô Atsuko , mất tháng 7, năm Heisei 28 (2016), thọ 100 tuổi. 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230428_100923.jpg

Mộ gia tộc thầy Kagawa Ken-Ichi và Kagawa Atsuko.
Asakusa, Tokyo (Aprol 2023)

 

https://lh3.googleusercontent.com/pw/AJFCJaU9wISv3MbQCLtNspUtLpvasE17F9B8vjP3CXO_qItXt9b7h808lbb6NtzzUmyG8Z11af5IHOb2YYlkOTZRwJhh_RXmqGF68O9k5KsJAYHPq4xkTyxPRTQkvqyCQRth2btnspK-V3vuWid-vyO_u3ukuw=w503-h893-s-no?authuser=0

Mộ gia tộc Kagawa sensei ở 來鷹寺 (Lai Ưng Tự) , Asakusa, Tokyo

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230428_101144 (1).jpg

Mộ gia tộc Kagawa sensei ở 來鷹寺 (Lai Ưng Tự) , Asakusa, Tokyo  

 

E:\04 2023\20230502_194650.jpg

Home-made senbei của 來鷹寺 (Lai Ưng Tự) , Asakusa, Tokyo

Tôi đứng tần ngần một lúc, rồi trở vào chùa. Tôi hỏi thăm về gia tộc thầy có ai ở gần đây không, th́ bà cho biết, không có ai ở gần đây. Lâu lắm rồi, có người em gái của Atsuko sensei thỉnh thoảng có đến thăm mộ. Nhưng về sau, nghe nói người nầy cũng có tuổi, bịnh hoạn, không c̣n đến đây nữa. Bà nh́n tôi cảm động, và lấy hai cái bánh senbei đưa cho tôi và bảo " đây là bánh home-made" có ghi tên của chùa trên đó. Tôi nhận lấy và cám ơn bà. Trên đường ra về, tôi thấy buồn quá. Mộ gia tộc của thầy lạnh lùng, hiu quạnh trong những tháng năm dài. 

Tôi c̣n được nửa ngày nữa ở Tokyo. Tôi đi đến hoàng cung để kịp giờ ghi tên vào thăm phía trong hoàng cung. Tôi nhận được số #103.

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230428_133050.jpg

#103 

Người ta chia ra làm 3 groups : group nói tiếng Anh, group nói tiếng Tàu và tiếng Tây Ban Nha . Người ta hướng dẫn tất cả 3 group vào một hội trường gần Kikyo-mon để làm orientation, gồm có các nơi sẽ đi, những việc không nên làm và phải làm trong thời gian được hướng dẫn nơi đây. Sau đó, các group được các cô hướng dẫn đến dẫn đi vào phía trong hoàng cung. Khi đi qua "Yagura" (矢倉, turret, watchtower, tháp canh ) mà ḿnh thấy từ phía bên ngoài, từ "Nijubashi", cô hướng dẫn giải thích nhiệm vụ của "yagura" dưới thời Edo. Ngày nay th́ Yagura không c̣n nhiệm vụ canh giữ như ngày xưa nữa, và được xem như là bảo vật của quốc gia.

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230428_134511 (1).jpg

Kunaicho (宮内庁, Imperial Household Agency) trong hoàng cung
và cô hướng dẫn cho group nói tiếng Anh
 

E:\108_PANA\P1080693.JPG

Nijubashi, từ phía trong hoàng cung chụp ra (April 2023)

 

C:\Users\anhtu\Videos\2022 AUTUMN_JAPAN\DSC08456.JPG

Nijubashi, từ phía ngoài hoàng cung chụp vô.
Phía sau, xa xa là (Tháp canh) "yagura".

 

E:\108_PANA\P1080729.JPG

(Tháp canh) Yagura, chụp phía trong hoàng cung (April 2023)

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230428_135416 (1).jpg

Nơi đây, Thiên Hoàng và hoàng tộc đứng đón chào dân chúng
trong dịp đầu năm hay các ngày lễ lớn (hoàng cung,
April 2023)
 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230428_133302 (1).jpg

Royal horse carriage, zagyoshiki (座駕式, Tọa Giá Thức)( hoàng cung, April 2023)

 

C:\Users\anhtu\Downloads\20230428_133147 (1).jpg

Tháp chính (Main Keep, tenshukaku, 天守閣) của thành Edo, (Tokyo ngày nay) bị phá hủy cả trăm năm trước và không được xây dựng lại (Ảnh chụp tháng 4, 2023 từ mô h́nh của Imperial Household Agency trong Hoàng Cung)

 

D:\20191121_133148.jpg

Tháp chính (Main Keep, tenshukaku, 天守閣) của thành Edo (Tokyo ngày nay),
bị phá hủy cả trăm năm trước và không được xây dựng lại 

(Ảnh chụp April 2019 ở Bảo Tàng Viện Edo-Tokyo, 江戸東京博物館)  

Khoảng 3 giờ chiều, tour chấm dứt. Ra khỏi cổng "Kikyo-mon", tôi đi ṿng hoàng cung cho biết. Đâu có ngờ Hoàng Cung rộng đến nổi, tôi mất gần hai tiếng để đi dọc theo chu vi của nó.

Trời đă về chiều, tôi đi bộ ra nhà ga Tokyo, trở về hotel ăn tối, để sửa soạn ngày mai về Cali.

E:\04 2023\20230428_172551.jpg

nhà ga Tokyo, April 2023 

Mười ngày qua đi thật nhanh. Được trở về Kofu, Yamanashi-ken, để nh́n lại Phú Sĩ vẫn hùng và thơ mộng trong cơn gió xuân như 50 năm trước. Tôi cũng được đi qua xứ Tosa của ông Ryoma, được học hỏi về ông, về Minh Trị Duy Tân. Được thưởng thức những đặc sản của Kochi, từ món “Katsuo no Tataki”, đến món sushi nhà quê (田舎ずし ). Ṿng qua Matsuyama để biết thêm về "Botchan" của ông Natsume Soseki. Được ăn đặc sản "Tai sashimi" của xứ Ehime. Được tắm Dogo onsen, nơi ông Natsume Soseki yêu thích và được đem vào trong quyển tiểu thuyết "Botchan". Đây cũng là onsen duy nhất được Thiên Hoàng đến viếng thăm. Rời Shikoku, đến Kyoto, được xem "Miyako Odori" như ngược thời gian về thăm lại thời Heian, Kamakura, Edo, của một thuở, ăn tối ở Pontocho cạnh bờ sông Kamo. Sau đó lên Tokyo, đi thăm mộ thầy. Đi thăm Tokyo Tower mà lâu lắm rồi không có lần đặt chân đến. Được đi vào hoàng cung. Được nghe về Edo-jo (Edo castle). Và thấm mệt trở về pḥng ở khách sạn, nh́n ra vịnh Đông Kinh, nh́n biển xa xăm mà nhớ chuyện thời xưa, của lứa tuổi thanh xuân. 

Tôi bước vào pḥng ăn ở lầu 30 của hotel, vừa ngồi vào bàn th́ nghe bản nhạc thật xưa , thật cũ , có lẽ lúc tôi 9, 10 tuổi. Nghe ông anh huưt gió đến nổi thuộc ḷng: "Que sera Sera ". 

When I was just a little boy
I asked my mother, "What will I be?"
"Will I be handsome, will I be rich?"
Here's what she said to me  

Que será, será
Whatever will be, will be
The future's not ours to see

Que será, será
What will be, will be"
 

(165) Whatever Will Be, Will Be/True Love - YouTube

Bây giờ mùa xuân đă đi qua, và mùa hạ đến. Chuyện ngày sau sẽ ra sao ? Nào ai biết được. 

Kochi to remember 

C:\Users\anhtu\Downloads\Web capture_25-5-2023_163932_www.tosaden.co.jp.jpeg

 

Thung Lũng Hoa Vàng

Tháng 5, Đầu hạ 2023 

Nguyễn Anh Tuấn

 


® "Khi phát hành lại bài viết của trang này cần phải có sự đồng ư của tác giả 
và ghi rơ nguồn lấy từ www.erct.com