KHI MÙA XUÂN ĐI QUA
Mến tặng Trần Thanh Việt và Toyo-san.
Có đến Kochi, có học hỏi về xứ nầy. Thế mới biết tại sao Việt-san
đă gởi con tim của ḿnh cho Toyo-san,
người đàn bà xứ Tosa, giữ giùm 50 năm qua và măi măi.
Nguyễn Anh Tuấn
Đó là một buổi chiều nắng đẹp.
Trời cuối xuân, nhiệt độ đă bắt đầu ấm dần.
Hàng cây hoa anh đào đă ra nhiều lá xanh.
Chuyến bay của hăng hàng không All Nippon Airways, NH 006, rời
thành phố lúc 5:00 giờ chiều. Tôi giă từ Nhật
Bản khi hoa anh đào đă rơi rụng về cội.
Có một chút ǵ vấn vương khi từ giă thành phố Tokyo nơi mà đă cho
ḿnh những kỷ niệm đầy thương yêu của thời mới lớn. Mùa
xuân năm nay, tôi gác lại việc đi "Henro (遍路,
pilgrimmage )", để chu du, đi t́m một mùa xuân có anh đào nở, có
anh đào rơi rụng . Và cũng để ḷng ḿnh thả
theo những vần thơ cổ điển
của nhà sư Saigyo Hoshi (西行法師
1118-1190) vào cuối thời Heian (平安).
春風の
花を散らすと
見る夢は
さめても胸の
騒ぐなりけり
haru kaze no
hana wo chirasu to
miru yume wa
samete mo mune no
sawagu narikeri
Khi gió xuân đi qua
Những cánh đào rơi rụng
Trong cơn mơ vừa thấy
Để rồi khi thức dậy
Trong con tim bé nhỏ
Âm thanh vẫn rạc rào
(phỏng dịch , Nguyễn Anh Tuấn)
Lần nầy trong ṿng 10 ngày, tôi xoay sở để đi qua các nơi mà tôi
muốn được đi, thong dong dạo chơi, không vội vă như đi tour, không
cần phải thức sớm , không hấp tấp chạy vội từ chỗ nầy qua chỗ khác.
Một thư thả để enjoy các chặng đường đi
qua. Con đường thiên lư đi từ Phú Sĩ (Yamanashi), đến Kochi, qua
Matsuyama, Kyoto, dừng chân ở Tokyo trước khi về Mỹ.
Được đi lại con đường cũ ở Yamanashi-ken khi ghé ngang qua Kofu (甲府),
Isawa onsen (石和温泉),
như được đi về nhà. Phong cảnh mùa xuân ở Oshino Hakkai (忍野八海),
ở Saiko (西湖)
của vùng Phú Sĩ với anh đào trong gió xuân dịu dàng, gợi lại những
ngày đi học ở Yamanashi Dai, và những ngày đi lang thang ở nơi đây
như đi t́m quên lăng sau trận đại hồng thủy của tháng 4 năm 1975,
những ngày thật bơ vơ, lạc lỏng và một tương lai mù mịt.

Oshino Hakkai (忍野八海
,
山梨県
) (April 2023)
Cũng tại Oshino Hakkai, tôi gặp một ông họa sĩ người chuyên vẽ các
bông hoa trên các chén trà dùng trong các buổi sado, 茶道
(Tea ceremony). Ông tặng cho tôi một chén trà
mà ông đúc tại xưởng nhỏ của ông ở nơi đây. Ông vẽ trên
chén đó hoa anh đào thật đẹp và phía dưới ông có ghi tên ông với
hàng chữ nhỏ và chỉ để tặng cho bạn bè, người thân.
Ông nói hy vọng chén trà với hoa anh đào sẽ
làm cho nổi buồn vơi đi. Tôi quư nó lắm v́ mỗi lần tôi uống
trà và nh́n hoa anh đào ông vẽ, nổi buồn như tan biến trong chén
trà như ông nói. Qua những thăng trầm, tôi làm
mất chén trà đó. Tôi tiếc quá, và tôi
cũng mất liên lạc với ông. Bây giờ trở lại Oshino Hakkai,
nhưng không c̣n nhớ chỗ cũ, mà chỉ nhớ ngày đó ông khoảng 40 tuổi
và ngày đó tôi cũng c̣n rất trẻ ... .
Khi xe bus sắp sửa vào Kofu, dăy núi Minami Arupusu (南アルプス,
Southern Alps) với tuyết trắng trên đỉnh bao quanh thành phố đưa
tôi về với những ngày tháng cũ. Một xúc động
có thật trong ḷng. Tôi thấy cay cay sau cặp kính
cận . Ngày đó ..
khi nghỉ đông ăn tết, tôi vội vă về geshuku lấy một vài bộ đồ bỏ
vào trong cặp táp, đáp tàu điện "Chuo-sen" (中央本線
) từ nhà ga Kofu về Shinjuku. Nh́n qua cửa
kính thấy tuyết trắng phủ đầy trên đỉnh.
Nh́n về phía tây nam (Tokyo, Shizuoka),
Fuji-san cũng đầy tuyết trắng, ḷng đầy rộn ră v́ hai tiếng sau sẽ
có mặt ở Shinjuku. Gặp lại bạn bè thân thương.
50 năm sau, đi qua đây, cảnh cũ vẫn c̣n đây, nhưng không gian xưa
đă đi biền biệt.
Chỉ có những đ́u hiu của gió xuân thổi về.
Dấu binh lửa nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)

Southern Alps,
Kofu, Yamanashi-Ken (南アルプス,山梨県)
Ngày hôm sau, tôi đáp chuyến shinkansen (bullet train) sớm, rời
nhà ga Tokyo lúc 9:00 giờ đi Okayama (岡山).
Đến Okayama đổi qua chuyến Tokkyu "Nampu 19-go" (特急南風
19号,
Nam Phong-19 ) đi Kochi.
Mùa thu năm ngoái, tôi có đến Muroto-Misaki (室戸岬,
Cape Muroto), phía đông nam của thành phố Kochi, khi đi "henro"
chùa #24.

Chùa #24,
Hotsumisakiji (最御崎寺
)
Muroto-Misaki, Kochi (mùa thu 2022)
Xe bus "MyYuu" (My
遊バス),
đưa tôi đến Katsurahama (桂浜)
và museum gần đó, ghi lại cuộc đời dấn thân của ông Sakamoto Ryoma
(坂本龍馬).
Ngồi dưới cành thông của bải biển
Katsurahama của xứ Tosa (tên cũ của Kochi-ken dưới thời Edo) vào buổi
sáng mùa thu, nh́n sóng biển dạt dào vỗ vào bờ ḥa với tiếng chim
hót trên những cành thông bao quanh tượng ông Ryoma, ngh́n đời
nh́n ra biển như ước vọng hải hồ của ông, tạo một âm thanh và h́nh
ảnh thật an b́nh. H́nh ảnh đó làm tôi nhớ lại những vần thơ yêu
nước nồng nàn của cụ Phan Bội Châu vào đầu thế kỷ 20 khi cụ phát
động Phong Trào Đông Du để phục quốc và canh tân đất nước.
Cụ là một một Ryoma của nước Nam.
Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ư trời!
Trong cuộc trăm năm đành có tớ,
Rồi sau muôn thuở há không ai?
Non sông đă mất, ḿnh khôn sống,
Hiền thánh c̣n đâu, học cũng hoài.
Đông hải xông pha nương cánh gió.
Ngh́n làn sóng bạc múa ngoài khơi.
(Đào Trinh Nhất, Ngục trung thư (Đời
cách mạng Phan Bội Châu), Tân Việt tái bản, Sài G̣n, 1950)

Katsurahama, Kochi-Ken
Nh́n "Ngh́n
làn sóng bạc múa ngoài khơi "
mà thương xót cho thân phận nước Nam. Nếu vua
Tự Đức anh minh như Minh Trị thiên hoàng th́ nước Nam ta đâu có
phải 80 năm nằm dưới ách đô hộ tàn ác của người Pháp.
Ông Ryoma đă bị ám sát chết năm 31 tuổi ở Omiya, Kyoto (December
1867). Ông không được nh́n thấy một xứ Nhật như ước mơ mà ông đă
một đời tranh đấu cho, v́ năm sau đó, 1868, chế độ Mạc Phủ 幕府, 幕末, đă
cáo chung và một thời đại mới đă h́nh thành, một nước Nhật được
Duy Tân như ông mơ ước.

Tượng Ông Sakamoto Ryoma (坂本龍馬
)
nh́n ra biển rộng như ước vọng hải hồ của ông
ở Katsurahama, Kochi-City

Tượng Ông Sakamoto Ryoma,
坂本龍馬
(giữa), Nakaoka
Shintarō, 中岡
慎太郎 (phải)
và Takechi Zuizan, 武市
瑞山
(trái), trước nhà ga Kochi (April 2023)

Tượng ông
Sakamoto Ryoma (坂本龍馬 ) và ông Nakaoka Shintarō (中岡 慎太郎 ) ở
Maruyama Park, Kyoto (November 2022). Hai ông bị ám sát chết ở
Omiya (近江屋, 河原町通 ), Kyoto tháng 12 , 1867.
Nhưng sự dấn thân của ông, sự yêu nước chân thành của ông, sự khôn
khéo ḥa giải của ông trong bối cảnh chia rẻ giữa xứ Satsuma (薩摩藩,
Kagoshima-ken ngày nay) và Choshu (長州藩,
Yamaguchi-ken ngày nay), là nền tảng đoàn kết đưa đến sự lật đổ
Tokugawa shogun và đưa đến một thời đại mới mà quyền hành được
trao trả lại cho Thiên Hoàng, đó là thời Minh Trị Duy Tân (明治維新).
Nếu không có ông Ryoma, chắc không có Saigo Takamori,
西郷隆盛
(xứ Satsuma), Okubo Toshimichi,大久保利通
(xứ Satsuma) và Kido Takayoshi,木戸
孝允
(xứ Choshu). Ba ông nầy được gọi là Ishin Sanketsu (維新三傑,
Duy Tân Tam Kiệt). Không có Ryoma, th́ cơ hội
có được Minh Trị Duy Tân chỉ là một giấc mơ Nguyễn Trường Tộ.
Tôi có dịp đi đến Kagoshima và Yamaguchi năm 2017.
Ở Kogoshima, tôi hân hạnh được hai ông Saigo Takamori và Okubo
Toshimichi “ra đón” và chụp ảnh chung.
Tôi cũng đến thăm Shiroyama (城山),
một ngọn núi có cái hang nhỏ, nơi mà ông Saigo Takamori chiến đấu
đến ngày cuối chống lại quân binh chính phủ của vua Minh Trị. Cho
nên, ông tài xế xe bus nói với tôi,
"Kagoshima là phải nói đến ông Saigo Takamori, là đến thăm lịch sử
buổi giao thời của thời Minh Trị". Tôi mua vé
bus đi một ngày, lên xuống bao nhiêu lần cũng được, giá khoảng 10
đô. Xe bus đi các nơi có liên quan đến ông Saigo Takamori
và thời đại Minh Trị. Nhờ chuyến đi nầy tôi đă học được nhiều hơn
về ông Saigo Takamori, cũng như về thời đại Minh Trị. Tôi cũng
được nh́n thấy núi lửa Sakurajima (桜島) bên kia bờ biển từ cửa sổ
hotel.

Okubo Toshimichi, Nguyễn Anh Tuấn, Saigo Takamori (người ta gọi
ông Saigo Takamori là "The Last Samurai") at Museum of the Meiji
Restoration (維新ふるさと館),
Kagoshima
Trên đường xe bus, My Yuu, về lại nhà ga Kochi, tôi xuống xe ở
Harimaya Bashi (はりまや橋
) để đổi qua chuyến xe bus khác đi Aki (安芸).
Ở Harimaya Bashi, có một cây cầu nhỏ và tượng một đôi nam nữ.
Đó là câu chuyện t́nh buồn xảy ra cuối đời
Edo.
Khoảng năm 1854, có một vị tu sĩ tên là Junshin (純信) ở
chùa Chikurinji (竹林寺,
Trúc Lâm Tự (chùa thứ 31 trong đoạn đường 88 ngôi chùa của "Henro")
và một cô gái tên là Oma (お馬)
yêu nhau. Oma thường đem quần áo mà mẹ cô giặt
xong lên chùa cho các vị sư, và rồi t́nh yêu nảy nở giữa Junshin
và Oma.
Một hôm vị sư Junshin đến khu phố Harimaya bashi mua Kanzashi (trâm
cài tóc) tặng cho Oma.
Tiếng đồn vang động đến tai của vị lănh chúa của Tosa (Kochi ngày
nay) . Ông mở cuộc
điều tra, và lưu đày Junshin ra khỏi xứ Tosa. C̣n Oma th́
bị lưu đày về phía đông, Akigawa (安芸川).
Có một câu hát trong bài "Yosakoi Naruko Dance ", cho "Yosakoi"
Matsuri (festival) được diễn ra trong mùa lễ Obon (tháng 8 hằng
năm), ghi lại câu chuyện nầy:
「土佐の高知のはりまや橋で、坊さんかんざし買うを見た」:
"Tosa no Kochi no Harimaya bashi de, bosan kanzashi kau
wo mi ta ".
Nơi khu phố gần cầu Harimayabashi của Kochi xứ Tosa, tôi thấy có
một vị sư mua
trâm cài tóc.

Harimaya Bashi, Kochi (April 2023)

Câu chuyện t́nh "Harimaya Bashi" .. Junshin
(純信 )
và Oma (お馬
)
Tôi may mắn được xem một buổi tŕnh diễn Yosakoi nho nhỏ, nhân
thành phố Kochi tổ chức sinh nhật lần thứ 155 cho ông Sakamoto
Ryoma ở Chuo-Koen, Kochi, mùa thu năm
ngoái. Dĩ nhiên Yosakoi được tổ chức vào dịp
Obon tháng 8 là đông nhất và hay nhất.
Nó quy tụ cả hàng chục ngàn người tham dự.

Ryoma’s Birthday 155, November 2022, Chuo-Koen, Kochi

Ryoma’s Birthday 155, November 2022, Chuo-Koen, Kochi
Điệu múa Yosakoi được phổ biến trên toàn quốc nước Nhật. Hầu như
các thành phố lớn đều tổ chức "Yosakoi", nhưng chỉ có thành phố
Kochi, nơi mà Yosakoi được khai thủy năm 1954, có đặc quyền mang
tên gọi là “Yosakoi Matsuri” (よさこい
祭り)
. C̣n các nơi khác phải đặt tên dài ḍng hơn như Yosakoi được tổ
chức ở Harajuku, Tokyo, có tên là “Harajuku Omotesando Genki
Matsuri- Super Yosakoi" (原宿表参道元氣祭り・スーパーよさこい).
Ở
Sapporo có tên là "Yosakoi Soran Matsuri",Yosakoiソーラン祭り

Kochi Castle, Kochi-City
Trước khi rời thành phố Kochi, tôi t́m được một restaurant chuyên
về món đặc sản của Kochi trong khu “Obiyamachi”, đó là món
"Katsuo no Tataki" (鰹のタタキ).
Đến Kochi mà không ăn món cá "Katsuo"
là mất đi phần nào hương vị Tosa.

Khu shotengai “Obiyamachi”, Kochi-City

Katsuo no Tataki restaurant, Obiyamachi, Kochi-City
Tôi ordered món tokubetsu teishoku, có “katsuo no tataki”
và “inaka zushi”(田舎ずし).
Tôi cũng tự thưởng cho tôi "atsukan" (rượu sake hâm nóng) v́ cả
mấy năm nay tôi không có dịp uống sake và bia.
Món "Katsuo no tataki" ngon quá.
Tôi chưa bao giờ có được món sashimi ngon như
đêm hôm đó. Tôi order thêm một phần teishoku nữa, nhưng ông
chef cook sợ tôi ăn không nổi v́ có
thêm một phần cơm nữa. Ông dọn cho tôi một dĩa
chỉ có Katsuo, coi như là special service.
Ông tính tổng cộng là 3,200 yen
kể cả sake.
Với giá nầy khó mà có thể t́m được ở Tokyo hay Kyoto, only in
Kochi.

Tokubetsu teishoku, có “katsuo no tataki”
và “inaka zushi “ (田舎ずし)
at
“Obiyamachi”, Kochi-city, April 2023

Katsuo no tataki (鰹のタタキ)
(ăn với tỏi, wasabi và nước chấm), đặc sản của Kochi
Tôi rời thành phố Kochi bỏ lại sau lưng những t́nh cảm mà người
Kochi dành cho tôi từ t́m kiếm chỗ nghỉ qua đêm khi tôi đi henro
muà thu năm ngoái.
Cho tôi mượn router dùng khi đi henro trong địa phận Kochi.
Những lát "Katsuo sashimi " mà người
chef cook dành cho tôi. Chiếc bánh "nikuman" (bánh bao) mà người
khách kế bên, mời tôi trên chuyến xe
điện đi từ Kochi đến Nakamura, Shimanto. Cây cà rem ngọt lịm ở
Ashizuri-misaki (足摺岬).
Những giải thích về hoa lá, những tảng đá, những sự tích của
Muroto quốc định công viên (足摺岬国定公園)
của oobasan khi tôi nghỉ qua đêm ở "Muroto
No Yado" (室戸の宿 )
của con trai bà.
Nơi thành phố nầy, tôi học được một số lịch sử và văn hóa của
Kochi, "Thành phố Kochi là trung tâm hành chánh, thương măi, công
nghiệp của tỉnh Kochi.
Thành phố có khoảng 320,000 người, chiếm
khoảng 47% dân số của Kochi. Người đàn bà Kochi được mệnh
danh là "Hachikin, 八金".
Đó là tiếng địa phương (方言)
của xứ Tosa, có nghĩa người đàn bà Tosa (Kochi) có một tinh thần
rất cao, rất nam tính. Người đàn bà xứ Tosa nói năng và hành động
rất rơ ràng, thân thiện và quyết tâm, nhưng ... họ rất yếu đuối
trước sự ngon ngọt.”
Sau những tiếp xúc với người địa phương, từ văn pḥng chỉ dẫn,
tiệm ăn, đến trong những cửa hàng ở department store, tôi nhận
thấy sự nhiệt tâm của người đàn bà xứ Kochi.
Thế mới biết tại sao Việt san đă gởi gấm con
tim của ḿnh cho
Toyo-san, người đàn bà xứ Tosa,
giữ
giùm
50 năm qua
và măi măi.
T́nh cảm người Kochi vượt qua khỏi ngôn ngữ "omotenashi" (おもてなし,
hospitality). Nó làm cho tôi
có cảm tưởng được xem như người
trong gia đ́nh, hàng xóm. Nó làm cho
người ta muốn trở lại một lần nữa.
Mùa thu năm ngoái, khi tôi chấm dứt đi
"henro" chùa #23 ở Tokushima. Để chuẩn bị đi
đến chùa #24 ở Kochi. Khoảng cách giữa
hai chùa nầy là 85 cây số. Phương tiện
di chuyển công cộng rất hạn chế. Không có xe điện nối liền
đến chùa #24 . Tôi
biết ḿnh không "lội" nổi 85 cây số. Từ Tokushima, tôi phải
đi ṿng lên Kochi-Ken. Rồi từ đó (Kochi eki),
đi tàu điện đến Nahari. Từ Nahari dùng
xe bus đi đến Muroto-Misaki.
Thành phố Muroto có khoảng 12 ngàn người, nằm ở tận cực đông nam
của đảo Shikoku.
Chùa #24, Hotsumisakiji
(最御崎寺) nằm
trên núi nh́n ra biển Thái B́nh Dương. Dưới núi dọc theo đường cái
có một cái động gọi là Mikuro-do
(御厨人窟).
Ở nơi đây, Mikuro-do, sau ba năm tu hành, ngài (Kukai) đă giác ngộ.
Và cũng nơi đây, với cảnh trời và biển, ngài lấy tên là Kukai (空海,
Không Hải).

Minshuku,
ở
Muroto-Misaki, Kochi-Ken

Bà quản lư ở Minshuku, Muroto-Misaki, Kochi-Ken

Mikuroto,
御厨人窟(động Mikuroto) ở Muroto-misaki
Mikuroto, nơi Kobodaishi (弘法大師, Hoằng Pháp Đại Sư) giác ngộ.
Trong
thời gian tu tập nơi đây, với "Trời" và "Biển" bao quanh, "Kobodaishi"
chọn tên "Kukai" (空海,
Không Hải).
(Note: Kobodaishi là tên mà người đời kính trọng đặt cho
ngài khi ngài viên tịch, posthumous title).

Tượng ông Nakaoka
Shintarō (中岡
慎太郎),
sinh trưởng ở Muroto,
người bị ám sát cùng với ông Ryoma ở Kyoto năm 1867. (Autumn 2022)

Map of Muroto
Anan Kaigan Kokutei Koen
室戸阿南海岸国定公園,Quasi-National Park ), Kochi-Ken

Muroto
Anan Kaigan Kokutei Koen
(室戸阿南海岸国定公園,Quasi-National Park ), Kochi-Ken
Tôi chưa thấy tỉnh nào mà có nhiều loại tàu điện như ở Kochi, nhất
là một nơi nhà quê như nơi đây.
Ngày xưa, đi học ở Yamanashi (山梨県),
thành phố Kofu (甲府
), chỉ có 2 tuyến đường xe điện : mạch lộ chánh là "Chuo-sen" (中央本線
),
nối liền Kofu và Shinjuku/Tokyo về phía nam và
Matsumoto/Nagano-ken về phía bắc. Và Minobu-sen (身延線),
nối liền Kofu và Fuji-shi/Shizuoka-ken về phía tây.

Street car (路面電車),
Tosa-Den, Kochi- City

Tokkyu “Ashizuri” (あしずり号)
to Nakamura station from Kochi Station.

Takakuji-go (宝くじ号,
Shintaro) to “Gomen” (後免駅行き
) @ Kochi station.

Another train….Tokkyu Nampu,特急南風号
, @ Kochi station.

On the way to Shimanto (四万十
), Kochi-Ken

Another train.. in
Kochi-ken

Another train ..Kuroshio Town Train (黒潮線)

Tosa Kuroshio Tetsudo (土佐くろしお鉄道
),
Kochi-ken (picture from Tosa Kuroshio
Tetsudo)

and
another ..

and
another..

tàu điện chạy dọc theo bờ biển phía nam Kochi-ken (土佐湾
)

The ocean is seen from the open deck of the train

tàu điện chạy dọc theo bờ biển phía nam Kochi-ken (土佐湾
)

đi
ngang qua rừng thông (from the open deck of the train)
Chiếc Tokkyu, "Ashizuri Ichigo (足摺岬1号)
đưa tôi từ ga Kochi đi về phía tây nam đến nhà ga "Nakamura". Đây
là thành phố nhỏ miền quê, mang tên của một con
sông : sông "Shimanto". Shimanto viết
bằng kanji,
四万十川,
Tứ Vạn Thập là " bốn vạn mười, fourty thousand and ten". Người dân
nơi đây hảnh diện về con sông nầy, và mệnh danh nó là "The last
clear stream of Japan",日本最後の清流と呼ばれる
(tạm dịch là ḍng nước trong lành cuối cùng của Nhật Bản), bởi v́
nó nằm ở xa thành phố và trên con sông nầy không có làm một đập
thủy điện nào. Khung cảnh th́ đẹp và trong
lành. Tất cả đều tinh khiết, không bị
vẩn đục và gần với thiên nhiên, nơi sản xuất những hải sản và nông
sản trong lành và bổ dưỡng.

Ḍng sông Shimanto (四万十川) chảy
qua Shimanto-City (四万十市)

赤鉄橋 (Aka Tekkyo),
Red Iron Bridge, trên ḍng sông Shimanto,
một biểu tượng
cho thành phố Shimanto (April 2023)
Đường đi từ Shimanto đến Ashizuri-Misaki, có nhiều cảnh đẹp và nơi
đây người ta đă bảo tồn những thiên nhiên mà trời ban cho.

dọc
theo phía nam của Kochi .. nhiều bờ
biển đẹp và hùng vĩ

Ashizuri- Misaki lighthouse, Kochi-ken

Ashizuri-Misaki Lighthouse, Kochi-Ken

Temple #38,
Kongofukuji (金剛福寺), Ashizuri-Misaki, Kochi-Ken

Trên bước đường "Henro", người bạn mới quen, (quê
ở Nagano-Ken)

John Mung Museum
(中濱 万次郎, Nakahama Manjiro).
Tosa Shimizu
(土佐清水市), Kochi-Ken
Theo lịch sử của museum nầy nói về ông John Mung hay Nakahama
Manjiro (中濱 万次郎), ông là người sinh trưởng tại Tosa Shimizu, xứ
Tosa. Là một trong những người Nhật đầu tiên
đặt chân đến nước Mỹ. Năm 1841, thuyền đánh cá của ông bị đắm.
Ông được William Whitfield, thuyền trưởng của
một tàu đánh cá Mỹ, cứu và đem về Fairhaven, Massachusetts.
Lúc đó ông 14 tuổi.
Ở đây, ông được đi học tiếng Anh và hàng hải. Sau đó, ông
đi theo thuyền đánh cá voi, rồi lưu lạc
qua San Francisco t́m vàng. Năm 1851, ông có một số vốn, qua
Honolulu, ông mua một chiếc tàu trở về Nhật. Sau một thời gian bị
thẩm vấn v́ lúc đó Nhật Bản là một quốc gia "bế môn tỏa
cảng ,
鎖国,
sakoku", ông được Tokugawa shogun tin dùng, thăng lên làm "hatamoto (旗本)”
, là một samurai
có chức lớn, trực tiếp nhận lệnh của Shogun.
Ông làm thông dịch viên cho thời kỳ mở cửa cho ngoại quốc vào.
Sau khi Minh Trị Thiên Hoàng lên ngôi, ông đi
học quân sự ở Âu Châu. Năm 1870, trên đường về Nhật, ông
ghé qua Fairhaven, Massachusetts, thăm vị ân sư của ông, thuyền
trưởng William Whitfield và các người quen nơi đây.
Chức vị sau cùng của ông là giáo sư của trường
đại học hoàng gia Đông Kinh (Tokyo Imperial University).
Ông mất năm 1898 tại Tokyo, 71 tuổi

John Mung Museum.
Tosa Shimizu (土佐清水市),
Kochi-Ken.

John Mung Museum.
Tosa Shimizu (土佐清水市),
Kochi-Ken

Tatsukushi Visitor center- nh́n ra biển, Tosa Shimizu-City,
Kochi-ken

Kannon Iwa (Ḥn đá tượng Quan Thế Âm ),
Tosa Shimizu-city, Kochi-Ken

Map of Cape Ashizuri (足摺岬
)

Umi No Wa (海のわ
) , nước biển có màu xanh green ở
Tatsukushi (竜串
),
Tosa Shimizu-city (土佐清水市
), Kochi-ken

Hoàn tất cuộc hành tŕnh đi từ Muroto-Misaki, Cap Muroto (red,
phía đông) dọc theo vịnh Tosa (土佐湾,
Tosay Bay) đi xuống phía tây nam và đến Ashizuri-Misaki, Cap
Ashizuri (yellow,
phía tây nam)

Kubokawa station, nơi đổi tàu điện đi Urawajima & Matsuyama,
Ehime-ken

Vào khoảng
cuối tháng 4, đầu tháng 5, hàng năm, nhân lễ Trẻ Em (Children’s
Day), trước ga Tokawa, 十川駅(とおかわえき)(Shimanto-cho, Takaoka-gun, tỉnh
Kochi ), chúng ta có thể nh́n thấy "những con cá chép băng
qua sông Shimanto", 高知県高岡郡四万十町.

"Những con cá chép băng qua sông Shimanto",
高知県高岡郡四万十町,
nhân lễ Trẻ Em (Children’s Day)

Yodo-Line
(予土線,鉄道ホビートレイン, Hobby Train).
Chiếc baby shinkansen dễ thương mang tôi đi từ Kubokawa,
窪川
(Kochi-ken) đến Urawajima,
浦和島,
(Ehime-ken)

Yodo-line
(予土線)) poster.

Urawajima Station (浦和島駅
), Ehime-ken
Mùa xuân năm nay, lần đầu tiên tôi đặt chân đến thành phố
Matsuyama.

松山駅,
Matsuyama Station, Ehime-ken.
H́nh ảnh đầu tiên làm tôi chú ư là câu viết “坂の上の雲のまちの松山,
v́ nó nằm đối diện với hotel tôi ở (ANA Crowne Plaza Hotel) ở
Okaido (お街道).
Cảm thấy nó hay hay và có một chút ǵ lăng mạn.

“Saka no Ue no Kumo”『坂の上の雲』, Clouds
Above the Hill,
1968, của ông "Shiba Ryotaro (司馬
遼太郎 )
Nhưng không hiểu ư nghĩa của nó.
Về sau có một người Nhật trong hotel giải thích cho tôi biết, đó
tên một quyển tiểu thuyết, “Saka no Ue no Kumo”『坂の上の雲, Clouds
Above the Hill ,
của ông "Shiba Ryotaro (司馬
遼太郎 )
viết vào năm 1968 nói về tinh thần của ba người dân
sanh ra và lớn lên ở Matsuyama trong thời kỳ Minh Trị Duy Tân.
Tinh thần đó vẫn c̣n tồn tại và được tiếp tục
ở thành phố nầy.
Ở Matsuyama, tôi “t́m thấy ”
được Botchan và Madonna. Được tắm ở Dogo Onsen,
道後温泉
(Dogo hot spring), nơi Botchan thường đi onsen nơi đây.
Được đi thăm Matsuyama castle, nh́n xuống
thành phố Matsuyama như thời Edo.
Dogo Onsen đang được sửa chữa, nhưng nhận một số nhỏ vào tắm.
Chỉ có 5 người vào một lúc (trong đó có hai
người ngoại quốc là tôi và một người Anh ở Ăng Lê qua.
Có lẽ anh chàng nầy cũng bị ảnh hưởng của "Botchan"
như tôi). Trong bathtup c̣n khắc trên tường là thời Taisho
(大正).
Nét khắc đă mờ nên không đọc được Taisho năm
thứ mấy. Ít nhất nó có lịch sử cũng trên dưới 100 năm v́
Thiên Hoàng Taisho trị v́ từ năm 1912 đến năm 1926.
Sau khi đến thăm thành phố Matsuyama, tôi đă thực hiện được sự
thăm viếng hai nơi được đưa vào văn học và văn chương nước Nhật.
1)
Izu No Odoriko (伊豆 の踊り子 ) của Kawabata Yasunari, nhà văn được giải
Nobel về Văn Chương năm 1968 với Xứ Tuyết, Yukiguni (雪国), Ngàn
Cánh Hạc, Senbazuru (千羽鶴), và Cố Đô, Koto (古都).Tôi đă đến thăm
Kawazu và Izu Hanto năm 2017.
2)
Và Botchan (坊っちゃん) của ông
Natsume Soseki
viết vào năm 1906. Botchan đă đem du khách đến Matsuyama và Dogo
Onsen. Botchan đă gây ảnh hưởng rộng lớn trong nền văn học nước
Nhật đầu thế kỷ thứ 20. Quyển sách được đưa vào chương tŕnh giáo
dục của Nhật Bản (中学2年生国語,
2nd grade of Junior High School).

Izu No Odoriko (伊豆の踊子).
Ở Kawazu (河津),
Izu-Hanto (伊豆半島
)
(Mùa Thu 2017) (Ref. quyển tiểu thuyết "Người Vũ Nữ Xứ Izu" (1926)
của Kawabata Yasunari (川端康成)

Botchan và Madonna trong quyển tiểu thuyết "Botchan"
của Natsume Soseki (夏目漱石)
(1906), Matsuyama, Ehime-ken (April 2023)

Dogo Onsen (道後温泉 , hot spring) nổi
tiếng nhờ quyển tiểu thuyết "Botchan",坊っちゃん (1906) của Natsume
Sōseki ,夏目 漱石, Matsuyama, Ehime-ken (April 2023)

Matsuyama castle, Matsuyama, Ehime-ken (April 2023)

Mưa đêm ở Matsuyama (April 2023)
Đêm cuối cùng ở Shikoku (Matsuyama), trời đỗ mưa.
Tôi cầm dù đi ra ngoài, đội mưa mà đi, từ hotel ở Okaido (お街道
) lên Matsuyama castle. Nhưng người ta đă đóng
cửa vào trong thành. Tôi ṿng qua một con đường nhỏ.
Cửa hàng hai bên đường đă đóng.
Chỉ có ḿnh tôi và ánh đèn hiu hắt trên đường.
Không khí êm đềm, tĩnh mịch của thành phố nơi miền quê đưa tôi về
với những kỷ niệm xa xưa của quê hương Biên Ḥa, cũng có những cơn
mưa như cơn mưa tối nay ở Matsuyama, không lớn lắm nhưng đủ làm
ướt người. Ngày xưa ở Việt Nam không có dù.
Trên đường đi học về nhà mà bị mắc mưa, th́ "đội
mưa" mà đi, đúng với ư nghĩa của nó.
Sáng hôm sau, chuyến Tokkyu "Shiokaze 12-go" đi Okayama, tôi từ
giă Botchan và Madonna cùng Shikoku.

Shiokaze Express đi Okayama

Shiokaze Express from Matsuyama to Okayama

Ghế màu xanh xanh phảng phất cơn gió biển như tên của chuyến tàu
điện nầy,
"Shiokaze, sea breeze" … nó đi qua biển "Seto-nai-kai"(瀬戸内海
)
Khi chuyến Shiokaze qua cầu "Seto Ohashi" (瀬戸大橋
) bắt ngang qua “Seto naikai", tôi nh́n lại phía sau, bóng dáng
của Shikoku mờ dần, mờ dần, trong đám mây giăng ngang ở cuối cầu.

Chiếc cầu "Seto Ohashi" (瀬戸大橋
) bắt ngang qua biển Seto-Nai-Kai (瀬戸内海
),
nối liền Honshu (Okayama-Ken) và Shikoku (Kagawa-ken) (internet)
Trong tàu điện, người ta cho nghe bản hát "Seto no Hanayome" (瀬戸の花嫁,
1972?). Nghe mà nhớ lại ngày xưa c̣n đi học, Ano
toki .. Ano Uta (あの時。。あの歌
).
Xa quá rồi những ngày đó !
(159)
瀬戸の花嫁
- 小柳ルミ子
(1972)1979・HD1080P
- YouTube
Đến Okayama, tôi đổi qua chiếc Hikari (bullet train) đi Kyoto.
Kyoto, với tôi lúc nào cũng đầy ắp kỷ niệm, từ những ngày c̣n đi
học và măi về sau nầy.
Mặc dù đi shusoku ở Tokyo, nhưng rồi cũng ..phải
xuống Hieizan (比叡山)
để đi "thiền" như các tân xă viên (新社員)
khác, trước khi được có cái tên là sarariman.
Lần nầy tôi phải có mặt ở Kyoto eki khoảng 3 giờ, và từ đó lấy
xe bus đi "Gion", đi xem "Miyako Odori".
Tôi có nghe nói và xem TV họ chiếu cảnh các cô
geiko và maiko múa các điệu múa cổ truyền trong các phim.
Đây là cơ hội duy nhất cho tôi được xem điệu
múa cổ truyền nầy. Hôm nay và ngày mai là show cuối cùng
cho mùa xuân. Nếu không, th́ phải đợi đến mùa xuân sang năm..

Kyoto Station
Tôi đă mua vé hằng tháng trước, nên được ngồi ghế phía trên, đúng
ra là hàng thứ ba.
Vé bao gồm được thưởng thức "shado" (tea ceremony): xem cô geiko
làm matcha, uống trà và ăn wagashi
(Japanese sweets).
Miyako Odori được viết là
都をどり.
Tôi cứ ngỡ "odori" phải được viết như là "
踊り".
Nhưng họ viết bằng "hiragana". Điều
ngạc nhiên thứ hai là chữ "o" ở đây, viết là "
を"
(wo), chứ không phải là "
お".
Tôi có hỏi người khách ngồi cạnh tôi "tại sao
họ viết như thế nầy", th́ họ lắc đầu "không biết".
Thôi th́, tôi học được cách viết đúng của "Miyako
Odori" mà bấy lâu nay cứ ngỡ là ḿnh biết và ḿnh viết đúng.

Miyako Odori
(都をどり ), Gion, Kyoto, April 2023

Miyako Odori (都をどり),
được tŕnh diễn ở
Gion Kōbu Kaburenjō(祇園甲部歌舞練場)(April
2023)

ở
Gion Kōbu Kaburenjō(祇園甲部歌舞練場)(April
2023)

Miyako Odori (都をどり ), Gion, Kyoto
(v́ người ta cấm chụp ảnh trong rạp.
Xin mượn ảnh nầy từ internet. Màn múa nầy có trong chương tŕnh)

Sân khấu chính
Sân
khấu chính (hai bên có hai sân khấu nhỏ để các cô đi ra múa, rồi
từ từ ra sân khấu chính, và sân khấu nhỏ cũng là nơi cho các người
đàn koto , samisen (bên phải) .
C̣n sân khấu nhỏ bên trái để các cô Maiko ngồi
vỗ trống.)
Mỗi
màn múa đều có mang tính cách lịch sử từ thời Heian, Kamakura,
Eido, hoặc theo mùa Xuân, Hạ, Thu,
Đông .
Hôm đó, có tất cả có 8 màn múa, trong
đó có màn nói về "Tanabata" (Ngưu Lang Chức Nữ) và có màn "hát và
múa " như trong Noh. Thời
gian khoảng một tiếng rưởi.

Dĩa đựng "Wagashi" (bánh ngọt kiểu Nhật dùng khi uống trà đạo, Tea
Ceremony)

Dĩa đựng bánh "Wagashi" với hàng chữ "Miyako Odori",
都をどり.
Ra
khỏi rạp, trời c̣n sáng, tôi đi dọc theo
sông Kamogawa (鴨川 )
nơi tôi vẫn thường đến để được đi qua "tobiishi" (飛び石
) mỗi khi "về" Kyoto. Khi ḍng sông gần đến Demachiyanagi (出町柳
) và Shimogamo jinja (下鴨神社
), tên ḍng sông được viết là (賀茂川),
không biết tại sao (?), nhưng vẫn đọc
là "Kamogawa".

Tobiishi trên ḍng Kamogawa, Kyoto
Dọc
theo bờ sông,
phong cảnh vẫn như xưa. Những
cặp t́nh nhân ngồi bên nhau,
có những người ra đây chơi guitar hay thổi
sáo để
cho thiên hạ được thưởng thức chung và
được cùng nhau nh́n cảnh chiều
về trên ḍng sông của cố đô ngh́n năm.
Tôi lang thang đến Shijo Ohashi, đi lên
cầu. Pontocho nằm kế bên. Thôi đi t́m
quán ăn ở đây, đi đâu cho xa xôi.
Pontocho về đêm thật nhộn nhịp và dể thương với con đường nhỏ nhắn,
hai bên hàng quán chưng bày
những chiếc dù cổ màu đỏ, và
những furin、風鈴
(chuông nhỏ), bay theo gió tạo những âm thanh trong trẻo như đón
xuân về.

Pontocho, Shijo Kawaramachi, Kyoto
Tôi chọn một tiệm có vẻ trang nhă.
Cô tiếp viên hướng dẫn tôi đến một bàn ngồi sát bờ sông ... Tôi
ngạc nhiên nói thầm trong bụng, ḿnh
thấy h́nh ảnh, phim ảnh người ta ngồi ăn uống trong hàng quán dọc
theo bờ sông. Nhưng không biết nó ở đâu.
Tôi mơ ước có được một lần.
Và hôm nay, tôi ... Ngồi xuống ghế, nh́n ra
ḍng sông Kamo mà trong ḷng rộn rả. Một mơ ước, một
akogare (憧れ)
nào đó thật tầm thường, nhưng đến quá bất ngờ, làm ḿnh không kịp
chuẩn bị. Nhưng cái hạnh phúc tầm thường đó
đến làm ḿnh không quên được.
Cám ơn Kyoto, lúc nào cũng đem đến cho tôi ngạc nhiên đầy thú
vị . Hôm nay tôi có được "Miyako Odori",
một cái dĩa có kư "Miyako Odori" làm kỷ niệm, và bây giờ có được "Pontocho"
cạnh ḍng sông Kamo.
Tôi rời Kyoto sáng hôm sau. Chỉ c̣n hai ngày
nữa JR Pass của tôi hết hạn. Hôm nay về
lại Tokyo.

Fuji-san (somewhere in Shizuoka/Numazu from Shinkansen)
Chiếc shinkansen rời cố đô trong cảnh nhộn nhịp của mùa xuân.
Chuyến tàu đi qua Shizuoka, nh́n Phú Sĩ với tuyết trắng xóa trên
đỉnh mà nhớ ngày nào ở công trường Numazu (沼津工場)
của Fujitsu, nơi làm Mainframe Computer, khi tôi và 2 người bạn
người Mỹ đến đây làm việc chung với các kỹ sư
của Fujitsu. Weekend, các người bạn Mỹ đi Tokyo chơi, c̣n tôi nằm
trong căn pḥng của dormitory, nh́n Phú Sĩ phía sau, và biển Thái
B́nh ở phía trước mà an vui với ngày cuối tuần.
Thế mà đă hơn 30 năm qua.
Tôi cố
nh́n lại phía sau để t́m một chút ǵ của "Numazu", nhưng chỉ thấy
những vườn trà xanh trên đồi bị bỏ lại khi chiếc shinkansen vùn
vụt đi qua.
Cùng ngoảnh lại, mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)

Fuji-san (somewhere in Fujinomiya/Mishima area from Shinkansen)
Tôi booked hotel ở O-Daiba, có đi đến đây một lần.
Lúc trước th́ có người dẫn đi.
Lần nầy th́ phải tự lực cánh sinh. Sáng
nay trước khi rời Miyako hotel ở Kyoto, tôi có hỏi ga nào xuống
th́ gần "Grand Nikko Tokyo Daiba Hotel", th́ họ bảo xuống ở ga
Shinagawa.
Khi chiếc shinkansen ngừng ở nhà ga "Shinagawa, tôi bước xuống,
ngơ ngác, không biết đi về hướng nào.Tôi lại không có wifi/ router
để t́m đường.
Nhưng không sao, khi bước xuống cổng chính (中央口,
chuo guchi), tôi hỏi ông JR ở nhà ga, trạm xe bus đi đến hotel.
Ông chỉ tôi đi bộ khoảng 5 phút, cuối đường, quẹo phải, đi xuống
tam cấp, là xe bus "Rainbow Bus" đậu ở
đó. Xe bus vẽ h́nh Rainbow thật đẹp đang đậu
chờ tới giờ chạy. Ông tài xế bảo tôi là
xe bus sẽ chạy lên đến cổng của hotel, đừng lo ngại. Xe
chạy qua những đường phố sạch sẽ và ngăn nắp v́ có lẽ đây là vùng
đất mới, được làm ra như là đảo nhân tạo, nên không có nhà cửa cũ
và những con đường nhỏ. Khi xe bus đi
ngang qua cầu Rainbow Bridge, tôi nhớ được chiếc cầu nầy v́ đă đi
qua. Xe bus đậu trước hotel. Tôi kéo
chiếc vali vào trong và check in. Họ cho tôi ở
lầu 19. Bước vào pḥng, tôi quá đổi
ngạc nhiên v́ pḥng to gần gấp đôi pḥng hotel Miyako ở Kyoto.
Từ pḥng nh́n ra là vịnh Đông Kinh.
Tôi để vali vào trong góc, rồi nằm trên giường
nh́n trời xanh, và biển qua cửa sổ. Nơi
đây thật yên tỉnh, không ồn ào, náo nhiệt như ở Shinjuku.
Một b́nh yên có thật trong ḷng.

Room at Grand Nikko Tokyo Daiba & Tokyo Bay (April 2023)

Room at Grand Nikko Tokyo Daiba (April 2023)

Tokyo Bay seen from the hotel room (April 2023)
Lần đầu tiên ở hotel nơi đây, vùng đất mới.
Đường tàu điện từ Shimbashi station (新橋
駅)
đến chợ cá mới Toyosu (豊洲市場
), ngừng ở Daiba Station,
台場駅
(Grand Nikko Tokyo Daiba hotel), có cái tên thật dể thương :
Yuri Kamome-line (ゆりかもめ 線),
lấy tên từ một loại chim biển, đầu có màu đen ở vùng nầy.

H́nh ảnh "Kamome" ở nhà ga Shimbashi,
Yuri Kamome Line, Shimbashi Eki, Tokyo

Yuri Kamome Line (ゆりかもめ線
),
Shimbashi Station (新
橋 駅,
April 2023)
Đêm đó, tôi đi ra ngoài đi thăm Tokyo Tower v́ nó cũng gần
Shimbashi station và hotel.
Không biết bao lâu rồi tôi mới trở lại vùng đất nầy.
Tokyo Tower Tower được hoàn thành năm 1958,
một khởi điểm gây niềm tin cho nước Nhật và người dân Nhật, 13 năm
sau ngày bại chiến. Để dẫn đến thời kỳ Kinh Tế mạnh mẽ và
sau đó là Tokyo Olympics năm 1964 và thời kỳ "Kinh Tế Cực Thịnh" (高度経済成長,
Kodo Keizai seicho
(Cao
độ Kinh Tế Thành Trưởng.)

Tokyo Tower, Minato-ku, Tokyo (April 2023)

Tokyo Tower, Minato-Ku, Tokyo (April 2023)
Cũng
như tháp Eiffel ở Paris, Tokyo Tower đă một thời là h́nh ảnh tượng
trưng cho thành phố Tokyo.
Ngày nay đă được thay thế bởi Tokyo Sky Tree.
Nhưng trong tôi vẫn cảm thấy
Tokyo Tower nó "gần gũi" hơn và có một
chỗ đứng trong một quá khứ của ḿnh.
Trên
đường về hotel, đường tàu "Yuri Kamome" đi ngang qua Rainbow
Bridge.
Chiếc cầu bắt qua vịnh Tokyo về đêm có vẽ mỹ miều hơn, nhưng cũng
có vẽ lạnh lùng hơn như con nước dưới cầu.

Rainbow Bridge về đêm, Odaiba, Tokyo (chụp từ phía Odaiba, April
2023)
Trong ngày cuối của chuyến đi, tôi thức dậy sớm đi thăm mộ của
thầy tôi, Kagawa Ken Ichi ở Asakusa.
Tôi dùng Ginza-sen đi từ Shimbashi đến Asakusa.
Xuống subway ở Asakusa, đă thấy thiên hạ tấp
nập. Đi ngang qua chùa Sensoji (浅草寺 ),
cái lồng đèn to, màu đỏ, trước cổng
Kaminari-mon (雷門), của
ông Matsushita vẫn c̣n đó. Buổi sớm, chưa tới
10 giờ mà người ta đă đầy trước cổng.
Mỗi lần có dịp đi Tokyo, tôi đều đi thăm mộ thầy tôi và có đi
ngang qua đây.
Bên trong, là Nakamise , dọc theo hai
bên là người ta bày bán những đồ vật kỷ niệm và những thức uống và
thức ăn hương vị Tokyo. Tôi thích nhất là uống "Amazake, “甘酒"
và ăn "nikuman, bánh bao" nơi đây. Ngày xưa dưới thời Edo, Asakusa
được gọi là "shitamachi,
下町,
downtown". Và ngày nay, Asakusa vẫn c̣n giữ
được một vài khu phố cổ có cái phong cách "shitamachi" ngày xưa
của nó.

Trước cổng chùa Sensō-ji (浅草寺)
(April 2023)
Tôi đi
hết cuối đường của Kaminari-dori, băng qua đường là "Mr. Donut"
shop. Đi khoảng 300 mét là đến nơi một nơỉ, có tên là來鷹寺.
Tôi đi vào phía trong, một bà cụ khoảng 85 tuổi ra đón tôi và tôi
tự giới thiệu tên, và là học tṛ của Kagawa sensei đến viếng mộ
thầy. Tôi đưa
cho bà 500 yen, mua hai bó nhang. Bà
đưa nhang cho tôi, hai bó lá
xanh, và một bucket đựng nước để rửa mộ.
Tôi
rửa mộ thầy xong, đặt hai bó lá
xanh lên hai bên, và đốt hai bó nhang cắm vào phía trước mộ và cầu
nguyện.
來鷹寺
(Lai
Ưng Tự) là một ngôi nhà nhỏ được làm chùa. Và
bên cạnh chùa là một mảnh đất có khoảng 30 ngôi mộ. Mộ đây
chỉ là một tấm đá cement, h́nh trụ đứng,
(墓石, Haka Ishi (Mộ Thạch)). Cao khoảng dưới 1 mét, bề ngang
bằng khoảng 1/3 bề đứng, tượng
trưng mộ cho một gia tộc. Nhưng không có mộ
thật chôn bên dưới. Phía trước tấm đá cement nầy có khắc
hàng chữ Namu Amidabutsu,
南無阿弥陀仏
(Nam
Mô A Di Đà Phật).
Bên
hông tấm đá cement, tôi thấy có ghi tên những người quá văng, mất
năm Showa thứ bảy (1932), Showa 39 (1964).
Thầy Kagawa mất tháng 9, năm Heisei 11 (1999),
thọ 84 tuổi. C̣n vợ thầy, cô Atsuko ,
mất tháng 7, năm Heisei 28 (2016), thọ 100 tuổi.

Mộ gia tộc thầy Kagawa Ken-Ichi và Kagawa Atsuko.
Asakusa, Tokyo (Aprol 2023)

Mộ gia tộc Kagawa sensei ở
來鷹寺 (Lai
Ưng Tự) , Asakusa, Tokyo

Mộ gia tộc Kagawa sensei ở
來鷹寺 (Lai
Ưng Tự) , Asakusa, Tokyo

Home-made senbei của
來鷹寺 (Lai
Ưng Tự) , Asakusa, Tokyo
Tôi
đứng tần ngần một lúc, rồi trở vào chùa.
Tôi hỏi thăm về gia tộc thầy có ai ở gần đây
không, th́ bà cho biết, không có ai ở gần đây.
Lâu lắm rồi, có người em gái của Atsuko sensei
thỉnh thoảng có đến thăm mộ. Nhưng về
sau, nghe nói người nầy cũng có tuổi, bịnh hoạn, không c̣n đến đây
nữa. Bà nh́n tôi cảm động, và lấy hai cái bánh senbei đưa
cho tôi và bảo "
đây là bánh home-made" có ghi tên của chùa trên đó.
Tôi nhận lấy và cám ơn bà.
Trên đường ra về, tôi thấy buồn quá.
Mộ gia tộc của thầy lạnh lùng, hiu quạnh trong
những tháng năm dài.
Tôi
c̣n được nửa ngày nữa ở Tokyo.
Tôi đi đến hoàng cung để kịp giờ ghi tên vào
thăm phía trong hoàng cung. Tôi nhận
được số #103.

#103
Người
ta chia ra làm 3 groups : group nói
tiếng Anh, group nói tiếng Tàu và tiếng Tây Ban Nha . Người ta
hướng dẫn tất cả 3 group vào một hội trường gần Kikyo-mon để làm
orientation, gồm có các nơi sẽ đi, những việc không nên làm và
phải làm trong thời gian được hướng dẫn nơi đây.
Sau đó, các group được các cô hướng dẫn đến
dẫn đi vào phía trong hoàng cung.
Khi đi qua "Yagura" (矢倉, turret,
watchtower, tháp canh ) mà ḿnh thấy từ phía bên ngoài, từ "Nijubashi",
cô hướng dẫn giải thích nhiệm vụ của "yagura" dưới thời Edo.
Ngày nay th́ Yagura
không c̣n nhiệm vụ canh giữ như ngày xưa nữa, và được xem như là
bảo vật của quốc gia.

Kunaicho (宮内庁,
Imperial Household Agency) trong hoàng cung
và cô hướng dẫn cho group nói tiếng Anh

Nijubashi, từ phía trong hoàng cung chụp ra (April 2023)

Nijubashi, từ phía ngoài hoàng cung chụp vô.
Phía sau, xa xa là (Tháp canh) "yagura".

(Tháp canh) Yagura,
chụp phía trong hoàng cung (April 2023)

Nơi đây, Thiên Hoàng và hoàng tộc đứng đón chào dân chúng
trong dịp đầu năm hay các ngày lễ lớn (hoàng cung,
April 2023)

Royal horse carriage, zagyoshiki (座駕式,
Tọa Giá Thức)(
hoàng cung, April 2023)

Tháp chính (Main Keep, tenshukaku, 天守閣)
của thành Edo, (Tokyo ngày nay) bị phá hủy cả trăm năm trước và
không được xây dựng lại (Ảnh chụp tháng 4, 2023 từ mô h́nh của Imperial
Household Agency trong Hoàng Cung)

Tháp chính (Main
Keep, tenshukaku, 天守閣) của thành Edo (Tokyo ngày nay),
bị phá hủy cả trăm năm trước và không được xây dựng lại
(Ảnh chụp April
2019 ở Bảo Tàng Viện Edo-Tokyo, 江戸東京博物館)
Khoảng 3 giờ chiều, tour chấm dứt.
Ra khỏi cổng "Kikyo-mon", tôi đi ṿng hoàng
cung cho biết. Đâu có ngờ Hoàng Cung rộng đến nổi, tôi mất
gần hai tiếng để đi dọc theo chu vi của
nó.
Trời đă về chiều, tôi đi bộ ra nhà ga Tokyo, trở về hotel ăn tối,
để sửa soạn ngày mai về Cali.

nhà
ga Tokyo, April 2023
Mười ngày qua đi thật nhanh.
Được trở về Kofu, Yamanashi-ken, để nh́n lại Phú Sĩ vẫn hùng
vĩ và thơ mộng trong cơn gió xuân như
50 năm trước. Tôi cũng được đi qua xứ Tosa của
ông Ryoma, được học hỏi về ông, về Minh Trị Duy Tân. Được
thưởng thức những đặc sản của Kochi, từ món “Katsuo no Tataki”,
đến món sushi nhà quê (田舎ずし
). Ṿng qua Matsuyama để biết thêm về "Botchan"
của ông Natsume Soseki. Được ăn
đặc sản "Tai sashimi" của xứ Ehime. Được tắm
Dogo onsen, nơi ông Natsume Soseki yêu thích và được đem vào trong
quyển tiểu thuyết "Botchan". Đây cũng
là onsen duy nhất được Thiên Hoàng đến viếng thăm. Rời
Shikoku, đến Kyoto, được xem "Miyako Odori" như ngược thời gian về
thăm lại thời Heian, Kamakura, Edo, của một thuở, ăn tối ở
Pontocho cạnh bờ sông Kamo. Sau đó lên Tokyo,
đi thăm mộ thầy. Đi thăm Tokyo Tower mà
lâu lắm rồi không có lần đặt chân đến.
Được đi vào hoàng cung. Được nghe về
Edo-jo (Edo castle). Và thấm mệt trở về
pḥng ở khách sạn, nh́n ra vịnh Đông Kinh, nh́n biển xa xăm mà nhớ
chuyện thời xưa, của lứa tuổi thanh xuân.
Tôi bước vào pḥng ăn ở lầu 30 của hotel, vừa ngồi vào bàn th́
nghe bản nhạc thật xưa , thật cũ , có lẽ lúc tôi 9, 10 tuổi. Nghe
ông anh huưt gió đến nổi thuộc ḷng: "Que sera Sera ".
When I was
just a little boy
I asked my mother, "What will I be?"
"Will I be handsome, will I be rich?"
Here's what she said to me
Que será,
será
Whatever will be, will be
The future's not ours to see
Que será,
será
What will be, will be"
(165) Whatever Will Be, Will Be/True
Love - YouTube
Bây giờ mùa xuân đă đi qua, và mùa hạ đến.
Chuyện ngày sau sẽ ra sao ?
Nào ai biết được.
Kochi to remember

Thung Lũng Hoa Vàng
Tháng 5, Đầu hạ 2023
Nguyễn Anh Tuấn