BẢN CHẤT CỦA ĐIỀU H̉A LÀ G̀? Matsushita Kônosuke (*) Dịch : Nguyễn Sơn Hùng
*** Thỏa hiệp không phải là điều ḥa chân thật Trong cuộc sống chúng ta thường có khuynh hướng cố chấp vào bản ngă (2). Việc tin rằng ḿnh tuyệt đối đúng đôi khi cũng cần thiết nhưng chúng ta cũng không nên quên tinh thần khiêm tốn luôn biết lắng nghe ư kiến người khác và tiếp nhận lời khuyên dạy của họ. Nếu không, chúng ta trở thành con người có bản ngă mạnh, không ngừng gây ra tranh chấp và đưa đến kết quả mọi người xa lánh ta. Nếu như khư khư giữ ư kiến của ḿnh là cứng nhắc c̣n như cứ cố chấp để được như ư ḿnh th́ đưa đến xung đột. Trong cuộc sống chúng ta những chuyện tranh chấp hoặc nhỏ hoặc lớn xảy ra không ngừng là do hai thái độ nói trên (3). Ở trong xă hội mà mọi người đều khư khư giữ ư kiến hoặc luôn muốn được như ư ḿnh th́ hoạt động của xă hội không trôi chảy thuận lợi cho nên việc thỏa hiệp (4) hoặc thông đồng (5), tạm thời được xem là quư. Dĩ nhiên để sinh hoạt xă hội được trôi chảy có trường hợp cần đến thỏa hiệp hoặc thông đồng. Tuy nhiên, thỏa hiệp hoặc thông đồng không phải là điều ḥa chân thật. Thỏa hiệp là thái độ cho rằng chủ trương của ḿnh đúng nhưng bởi v́ không được chấp nhận và v́ không có cách ǵ khác nên đành phải chịu nhượng bộ. Do đó, ở thỏa hiệp có sự bất b́nh bất măn và v́ không có cách ǵ khác nên đành phải chịu đựng bao gồm việc tính toán khi có cơ hội sẽ khôi phục trở lại nên không thể nói là điều ḥa chân thật. Có nghĩa là đó không phải là cách mà tất cả mọi thứ được phát huy (3). Bởi vậy cần phải kiến tạo một xă hội điều ḥa chân thật, một xă hội mà ở đó tất cả mọi thứ đều được phát huy, chứ không phải là chỉ có thái độ nửa chừng như thỏa hiệp hoặc thông đồng. Với mục đích này ở đây tôi nghĩ chúng ta cần phải đi sâu hơn thỏa hiệp để suy nghĩ xem xét vấn đề bản chất của điều ḥa là ǵ? Người ta thường nói điều ḥa, điều ḥa nhưng chân tướng của điều ḥa là ǵ, là thế nào? Nếu nói đơn giản, điều ḥa là trạng thái mà tất cả mọi thứ đều có thể cùng nhau phát huy dưới một trật tự nhất định (3). Thí dụ, nói các thiên thể điều ḥa bởi v́ mặt trời, mặt trăng, trái đất và vô số các v́ sao khác giữ một trật tự nhất định và tuân theo trật tự này mỗi thiên thể tiếp tục vận hành theo đúng quy luật. Ngoài ra, ở thế giới của con người cũng vậy, nói cha con điều ḥa, vợ chồng điều ḥa bởi v́ giữa cha và con, giữa vợ và chồng mỗi người giữ trật tự của ḿnh để giúp đỡ sống chung và phát huy lẫn nhau. Xă hội điều ḥa là xă hội mà trong đó mỗi người làm việc, hoạt động ứng với phận của ḿnh, trật tự xă hội được duy tŕ đúng và mọi người trợ giúp lẫn nhau. Do đó để thực hiện sự điều ḥa chân thật cần phải xác lập trật tự đúng. Trật tự là mỗi thứ (người hoặc vật) ở vào nơi (6) của ḿnh. Tuy nhiên, dưới một trật tự sai lầm, cho dù tất cả mọi người có tuân theo trật tự đó nhưng bởi v́ mọi thứ không được đặt vào nơi (6) của ḿnh nên không thể nói là xă hội điều ḥa, đồng thời tàng ẩn sự vô lư và bất măn trong đó. Và vào lúc nào đó sự bất măn này sẽ bùng nổ, rất khó ḷng mong mỏi được sự điều ḥa vĩnh viễn. Thí dụ vào thời Trung cổ của Âu châu, quư tộc và tăng lữ đă liên tục áp bức dân chúng. Xă hội lúc đó trở thành trạng thái có trật tự và trên thực tế người ta tưởng rằng đó là một trật tự xă hội mà sự điều ḥa đă được duy tŕ trong một khoảng thời kỳ dài. Tuy nhiên, bởi v́ đă tồn tại sự bất tự nhiên và vô lư nên cuối cùng đă bộc phát, đưa đến Cách mạng Pháp. Ở Nhật Bản (7) cũng vậy, cho đến gần đây quân đội cực đoan đă lấy thiên hoàng làm trung tâm và ẩn núp dưới hào quang của thiên hoàng để thực hiện chính trị độc tài. Dân chúng mặc dù bất măn nhưng đă phải tuân theo trật tự xă hội của chính trị độc tài này. Để rồi dẫn đến chiến tranh, kế đến thua trận và trật tự xă hội sai lầm nói trên đă phải tan vỡ không c̣n dấu tích. Dưới trật tự sai lầm như nói trên dù thấy như có điều ḥa nhưng nhất định không phải là sự điều ḥa chân thật và một lúc nào đó sẽ tan vỡ. Do đó nếu mong muốn có điều ḥa chân thật, điều ḥa vĩnh viễn trước hết cần phải t́m ra trật tự không sai lầm, loại trật tự căn cứ vào chân lư (3). Trật tự cần phải căn cứ theo chân lư Như vậy nếu hỏi trật tự vĩnh viễn được thành lập từ cái ǵ th́ tạm có thể nói là do trí tuệ tài sức của con người. Tuy nhiên nếu thử suy nghĩ kỹ và sâu hơn trật tự này vốn không phải chỉ do suy nghĩ của con người tạo ra (3). Nghĩa là, trật tự này vượt qua suy nghĩ nhỏ bé của con người, là trật tự của đại tự nhiên nghiễm nhiên (8) đă có sẵn. Thí dụ trật tự giữa mặt trời, mặt trăng và trái đất không phải là trật tự do suy nghĩ của con người tạo lập ra. Trật tự này vượt qua trí tuệ con người và đă có sẵn như quy luật của vũ trụ. Trật tự của thế giới con người cũng tương tự. Dù cho con người có muốn dùng trí tuệ tài sức của ḿnh để làm theo ư ḿnh như thế nào đi nữa, quy luật của vũ trụ vẫn nghiễm nhiên (8) có tác dụng (9) theo trật tự. Dù cho là trật tự giữa cha con, trật tự giữa vợ chồng hoặc trật tự trong xă hội, trật tự của tất cả mọi thứ trong thế giới con người đều được định sẵn bằng quy luật của vũ trụ. Con người chỉ cần trung thực tuân theo. Con người tuân theo trật tự của vũ trụ th́ mọi việc sẽ điều ḥa và sẽ có được hạnh phúc, ḥa b́nh và phồn vinh (3). Tuy nhiên con người có khuynh hướng dùng trí tuệ tài sức của ḿnh để làm theo ư muốn của bản thân. Do đó con người có khuynh hướng không dùng trí tuệ tài sức được ban phú theo đúng quy luật vũ trụ nên sinh ra sự vô lư, từ đó không những đưa đến kết quả vô ích mà ngược lại c̣n đánh mất trật tự chân thật đáng lẽ cần phải tuân theo, đưa đến mất điều ḥa, rồi tự ḿnh rơi vào tranh chấp, chiến tranh và nghèo khốn. Điều này tương tự như thay v́ con người chỉ cần lên tàu hỏa theo đường rầy đă được lắp sẵn để đi đến trạm cuối th́ lại đi con đường rầy sai lầm khác hoặc đi theo lối rẽ khác. Với tâm tự nhiên (10), trí tuệ tài sức con người sẽ dẫn con tàu đi thẳng đúng đến trạm cuối để có được hạnh phúc, ḥa b́nh và phồn vinh. Ngược lại nếu không dùng với tâm tự nhiên, trí tuệ tài sức con người sẽ cản trở con người đi đến mục tiêu này. Như đă tŕnh bày, để thực hiện sự điều ḥa chân thật, trước hết cần phải hiểu quy luật vũ trụ có như thế nào để phát huy trí tuệ tài sức của con người đúng theo quy luật của vũ trụ, và đồng thời cũng cần tự giác rơ ràng bản chất của điều ḥa là ǵ (3). Hăy có cách sống thích ứng với quy luật vũ trụ Quy luật vũ trụ là quy luật mà vũ trụ căn nguyên lực tác dụng (9) lên vạn vật. Quy luật này cũng gọi là chân lư. Ngoài ra, quy luật này sẽ xuất hiện dưới 2 h́nh thức khi tác dụng (9) lên con người và tự nhiên trong thực tế (3). Loại thứ nhất nên gọi là quy luật của tinh thần hoặc quy luật mặt tinh thần. Quy luật thứ hai là quy luật của vật chất hoặc quy luật mặt vật chất. quy luật mặt tinh thần rất thần bí, là quy luật thường được cho là khoa học không thể biết thấu đáo đến nơi đến chốn. Và quy luật này có tác dụng (9) ở mặt tinh thần của con người, chỉ hiểu được do phán định (11) bằng tinh thần của con người, chỉ có thể nhận thức quy luật này bằng ḷng tin hoặc tinh thần tương ứng với ḷng tin. Quy luật mặt vật chất thứ hai là quy luật có tác dụng (9) ở mặt vật chất thông thường có thể biết thấu đáo đến nơi đến chốn bằng khả năng của khoa học. Thí dụ, lực hấp dẫn của Newton, bom nguyên tử là các thứ đều căn cứ vào phát kiến của quy luật mặt vật chất. Quy luật vũ trụ có tác dụng (9) dưới 2 h́nh thức là quy luật mặt tinh thần và quy luật mặt vật chất, con người và tự nhiên được phát huy bởi 2 quy luật này. Do đó, việc có cách sống thuận ứng với quy luật vũ trụ là thích ứng đúng theo quy luật tinh thần và quy luật vật chất nói trên, là dạng thức (12) của sự điều ḥa chân thật. Nghĩa là, điều ḥa không phải thỏa hiệp đơn thuần căn cứ vào trí tuệ tài sức của con người mà là sống theo chân lư (3). Hơn nữa, quy luật vũ trụ không ngừng tác dụng (9) lên con người chúng ta không cần biết chúng ta có ư thức đến chúng không. Do đó, không phải con người thực hiện công việc điều ḥa mà chúng ta bị bắt điều ḥa do các quy luật của vũ trụ. Tôi nghĩ bản chất của điều ḥa là ở điều này. Do đó, để sống thích ứng với 2 loại quy luật nói trên, thứ nhất chúng ta cần phải tự giác và ư thức rằng con người được phát huy bởi 2 loại quy luật này (3). Thứ hai đồng thời cũng cần phải nhận thức rơ rằng không những con người mà ngay cả vạn vật cũng bị chi phối, điều hành bởi quy luật vũ trụ. Kế đến, chúng ta cần phải bằng tâm tự nhiên (10) thấy được chân tướng nói trên, kiểm điểm phản tỉnh các mặt của cuộc sống đồng thời giúp nhau huấn luyện để có được cách sống thích ứng với 2 loại quy luật nói trên. Có thực hiện như vậy th́ dạng thức (12) điều ḥa sẽ tự nhiên phát sinh. Và theo đạo lư này, tất cả vạn vật sẽ điều ḥa và ở xă hội con người sự điều ḥa chân chính trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, giáo dục sẽ được duy tŕ, và hạnh phúc, ḥa b́nh, phồn vinh sẽ đến. Tóm lại, sự điều ḥa tự nhiên sẽ phát sinh ra từ việc thực hiện cách sống thuận ứng với quy luật của vũ trụ, nếu đi ngược lại với quy luật vũ trụ th́ dù con người có thực hiện thỏa hiệp hoặc thông đồng bằng trí tuệ tài sức của ḿnh cũng không thể nói là điều ḥa chân thật. Hành động theo quy luật vũ trụ tự nhiên sẽ có điều ḥa, tôi nghĩ đó chính là bản chất của điều ḥa. Nguyễn Sơn Hùng 14/2/2021 (*) Nguồn: “Bản chất của điều ḥa” trong sách “Triết học của Matsushita Kônosuke”, cơ quan phát hành: Viện nghiên cứu PHP, năm 2002, trang 29~36. Bài thứ 17 được đăng vào tháng 6 năm 1949 trong nguyệt san của Viện nghiên cứu PHP trong 40 bài “Lời ngỏ của PHP” sau được tổng hợp thành sách với tựa “Lời ngỏ của PHP” xuất bản năm 1953, cải biên năm 1975, vào năm 2002 được biên soạn lại và xuất bản với tựa mới là “Triết học của Matsushita Kônosuke”. Sau đó sách này được tái bản vào năm 2009. Phiên bản dùng để dịch là phiên bản năm 2002. Ghi chú (1) Thuận ứng, theo Đào Duy Anh có 2 nghĩa: 1) Thuận thiên ứng nhân, nghĩa là theo lẽ trời, đúng ư người; 2) Ch́u theo mà đỡ lấy. Ở đây có thể hiểu theo ư 1) hoặc hiểu “tuân theo và phát huy”. (2) Bản ngă: cái tôi. (3) Trong nguyên bản tác giả dùng rất nhiều câu “tôi nghĩ”, có thể với mục đích tỏ bày ḷng khiêm tốn của tác giả và thích hợp với thính giả hoặc độc giả vào thời điểm đó nhưng gây ấn tượng tác giả thiếu tự tin đối với độc giả ngày nay và chiếm giấy nên ở đây dịch giả tích cực bỏ bớt và ghi chú với kư hiệu (3). (4) Thỏa hiệp: nhượng bộ lẫn nhau trong sự dàn xếp để không tranh chấp, xung đột nữa. (5) Thông đồng (tiếng Nhật nareai): thỏa thuận ngầm với nhau để làm việc trái phép. Dịch giả lấy làm lạ tại sao tác giả lại cho rằng thông đồng là quư dù chỉ là tạm thời. Phải chăng “nareai” ở đây có nghĩa là thông đồng cho sự việc trôi chảy chứ mục đích của sự việc không xấu chăng? (6) Nơi: Dịch sát theo nguyên văn là “nơi” nhưng nên hiểu là “vị trí đúng chỗ”, “vị trí chính đáng”. (7) Nguyên văn là “nước ta”. (8) Nghiễm nhiên: đường đường tự nhiên có. (9) Tác dụng: có ảnh hưởng (10) Tâm tự nhiên (nguyên văn là sunao na kokoro) là một khái niệm triết học quan trọng của Matsushita Kônosuke, nghĩa gốc gần giống như “chân tâm”, “tâm bẩm sinh”, “tâm vô nhiễm” nhưng hàm chứa nhiều ư tưởng khác nên ở đây tạm dịch là “tâm tự nhiên” để phân biệt. Tâm tự nhiên tương tự như “phật tánh” của Phật học, “tâm bất sinh” của thiền sư Bankei Eitaku (Bàn Khuê Vĩnh Trác, 1622~1693), “lương tri” của Vương Dương Minh (1472-1528). Mười đức tính của tâm tự nhiên là không vị kỷ, biết lắng nghe ư kiến người khác, khoan dung, nh́n thấy thật tướng của sự vật, hiểu biết đạo lư của sự việc, hiếu học, thung dung tự tại, điềm tĩnh, biết giá trị sự vật, bác ái (Theo “Để có được tâm tự nhiên”, Matsushita Kônosuke (2004, 2006), Viện nghiên cứu PHP). (11) Phán định: phán đoán và quyết định. (12) Dạng thức: h́nh thức, kiểu tồn tại của sự vật.
|