Phần I Nguyễn Sơn Hùng Lời mở đầu Trong quá tŕnh t́m hiểu Luân Lư Giáo Khoa Thư, người viết biết được trước đó cụ Trần Trọng Kim đă viết Sơ Học Luân Lư. Sách Luân Lư Giáo Khoa Thư gồm có 3 quyển dành cho các lớp Đồng Ấu (học sinh khoảng 7 tuổi), lớp Dự Dị (khoảng 8 tuổi), và lớp Sơ Đẳng (khoảng 9 tuổi) của bậc Tiểu học. Từ ngữ “Sơ học” dùng để chỉ bậc học sau khi tốt nghiệp lớp Sơ Đẳng. Sách Sơ Học Luân Lư mà người viết t́m được trên Internet là phiên bản do nhà xuất bản Tân Việt tái bản vào năm 1950 (1). Theo lời nhà xuất bản trong sách này viết, sách đă được xuất bản năm 1919. Tuy nhiên có tài liệu, thí dụ như trong Wikipedia tiếng Việt hoặc trong phần giới thiệu tác giả của nhà xuất bản in lại sách trên gần đây, viết sách được xuất bản đầu tiên vào năm 1914. Trong khi sách Luân Lư Giáo Khoa Thư được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1925 (2). Sách Sơ Học Luân Lư được Nhă Nam & nhà xuất bản Hồng Đức in lại năm 2020 và nhà xuất bản Trẻ in lại năm 2021. 1. Giới thiệu sơ lược nội dung sách 1.1 Mục lục sách Để quư độc giả có thể biết được sơ lược của nội dung sách, người viết ghi lại mục lục dưới đây. MỤC LỤC
* Nguyên bản viết “sum hợp”, ngày nay viết “sum họp”. Người viết cố gắng giữ trung thực các từ ngữ trong nguyên bản. Ghi chú Người viết cố gắng ghi chép lại đúng như sách in trong phiên bản năm 1950 nhưng để quư độc giả dễ nắm được bố cục sách và không chiếm nhiều chỗ trong bài viết nên đă thay đổi một ít cách tŕnh bày như sau. Phần “Gia tộc luân lư”gồm có 9 bài. Trong sách không có dùng từ “bài”. Từ “bài” ở đây dùng để chỉ của mỗi phần có ghi “Toát yếu” (tóm tắt nội dung quan trọng) sau mỗi bài. Trong sách cũng không có đánh số cho mỗi bài. Đối với “1. Bổn phận ở trong gia tộc”, trong sách không có tựa chung cho cả các mục sau mà viết trực tiếp: 1. Bổn phận ở trong gia tộc, 2. Đạo làm con ở với cha mẹ...6. Biết ơn. Trong bảng mục lục trên ghi: 1. Bổn phận ở trong gia tộc: 2) Đạo làm con ở với cha mẹ....6) Biết ơn. Nghĩa là không có mục 1). Trường hợp của “1.Bổn phận đối với thân ḿnh” trong phần “Bản thân luân lư” cũng tương tự. Đối với “5.Ở với anh chị em”, sách đặt “Ở với anh chị em” là tựa chung cho cả phần sau và chia: 1. Anh em chị em, 2. Bổn phận người làm anh làm chị...4. Chuyện ba anh em họ Điền, nên sau “5. Ở với anh chị em”, có mục 1) Anh em chị em, khác với trường hợp của “1. Bổn phận ở trong gia tộc” ở trên. Sách giảng giải về luân lư của 4 phạm vi: 1) gia tộc gồm có 36 trang, 2) học đường 28 trang, 3) bản thân 38 trang, và 4) xă hội 33 trang. Sau mỗi bài, sách có ghi “Toát yếu” tóm tắt các điểm quan trọng của bài và có mục “Đầu bài” đặt những câu hỏi và bắt học tṛ kể những thí dụ để xem học tṛ có hiểu những điểm chính yếu của bài học không. 1.2 Lời tựa của sách Về tầm quan trọng của việc dạy luân lư, trong “Tựa” của sách tác giả viết: “Luân lư là một sự quan trọng hơn cả trong sự giáo dục ở sơ đẳng học đường, cho nên chương tŕnh của chính phủ đặt ra phải để mục luân lư đứng đầu cả các mục khác. (Tỉnh lược một đoạn). Quyển sách hệ trọng cho sự giáo dục của những thiếu niên đi học như thế, th́ cần phải cho giản dị, minh bạch, không có chỗ nào là chỗ tối tăm khó hiểu: trước là để cho khỏi sự sai lầm, sau là để tập sự ngôn ngữ và sự phán đoán của trẻ cho ngay chính, phân minh. Ấy là cái chủ đích của các nhà làm sách cho học tṛ trẻ con học cần phải như thế, th́ quyển sách mới có ích vậy.” Về vai tṛ của sách và thầy dạy, tác giả viết: “C̣n như sự dạy luân lư th́ người làm thầy cũng phải hiểu rằng sách là thường chỉ để làm qui củ mà thôi, chứ sự dạy cốt ở lời ông thầy nói ra. Về cách học và dạy luân lư, tác giả viết: “Học luân lư lại cần hiểu rơ mọi ư nghĩa hơn là học nhớ thuộc ḷng, cho nên khi giảng bài xong, ông thầy nên bắt học tṛ nói tóm lại mấy câu những cái đại ư ở trong bài ḿnh dạy, rồi hăy đọc lời toát yếu cho học tṛ viết vào vở để học thuộc ḷng”. Do đó, đọc sách chúng ta thấy khi bắt đầu mỗi hạng mục, tác giả luôn luôn giảng giải ư nghĩa, lư do phải học hoặc ích lợi của việc học tập hạng mục đó. 1.3 Bài mở đầu Trong “Bài mở” tác giả bắt đầu: “Các anh ở nhà th́ có ông bà, cha mẹ, anh em, chị em; đi học th́ có thầy có bạn, rồi sau lớn lên th́ có làng có nước. Tự lúc nhỏ cho chí lúc lớn, lúc nào các anh cũng cần phải biết cách cư xử (1) với kẻ nọ người kia cho phải đạo (2). Lại c̣n ḿnh đối với bản thân ḿnh phải giữ ǵn thế nào cho cái phẩm hạnh được thanh cao, cái giá trị được tôn trọng. Những mối ấy đều là mối cốt yếu của sự luân lư vậy. Nhưng tóm lại mà nói, th́ luân lư chỉ cốt có một điều, là khiến cho sự ăn ở của ḿnh thế nào cho hợp với cái đạo thường của người ta trong xă hội. Cái đạo thường đó nói vắn tắt lại, th́ chỉ có hai câu mà thôi, là làm điều lành, tránh điều ác.” (1) “Cư xử (chữ Hán: tỉnh lược ở đây) là cách ăn ở của ḿnh đối với kẻ khác- Manière de se conduire.” (Trang 13). (2)”Đạo nghĩa đen là con đường đi như là nói đạo lộ đường sá, sơn đạo đường núi, thủy lộ đường bể v.v…Nghĩa bóng là cái tôn chỉ, cái qui tắc để ai cũng phải theo- La voie droitte. 1.4 Luân lư đối với gia tộc Trong phần này, tác giả giảng giải những bổn phận làm người phải có đối với gia tộc, cụ thể đối với 1) cha mẹ, 2) ông bà, 3) tổ tiên, 4) họ hàng, 5) anh chị em. Đặc biệt trong phần này tác giả c̣n thêm vào đối với 6) đầy tớ, 7) các bạn hữu quen thuộc nhà ḿnh, 8) láng giềng, và 9) sum họp gia tộc. Trong phần đối với cha mẹ, anh chị em, đầy tớ và sum họp gia tộc, tác giả đi vào chi tiết cụ thể hơn. Về “Đạo làm con ở với cha mẹ”, tác giả trích dẫn câu nói trong chương 3 “Chỉ Ư Chí Thiện” của sách Đại Học ““Vi nhân phụ chỉ ư từ, vi nhân tử chỉ ư hiếu” (*). Nghĩa là làm cha th́ cốt phải có ḷng từ, làm con th́ cốt phải có ḷng hiếu. Ḷng từ là ḷng cha mẹ thương yêu con, lo dạy bảo cho con thành người có đức hạnh. Ḷng hiếu là ḷng tử tế, của con phải ở với cha mẹ, cho cha mẹ được thỏa ḷng.” Sau đó tác giả giảng thêm thế nào là hiếu để rồi tóm tắt lại đạo làm con “cốt yếu phải yêu mến, tôn kính, biết ơn, nghe lời và giúp đỡ cha mẹ.” Kế đến tác giả giải thích cụ thể nội dung và lư do của ḷng yêu mến, tôn kính, vâng lời và biết ơn. Người viết tự hỏi: Ngày nay có bao nhiêu cha mẹ hiểu ư nghĩa của từ “từ” như phần sau của lời giảng giải của tác giả? Ngoài ra, việc hiểu nghĩa “thỏa ḷng cha mẹ” theo đúng nghĩa của Khổng học cũng không phải dễ nhưng đó là việc của người lớn, chưa phải là bổn phận của học sinh bậc tiểu học. Ghi chú Thứ tự “phụ” và “tử” trong sách Đại Học là “Vi nhân quân, chỉ ư nhân; vi nhân thần, chỉ ư kính; vi nhân tử, chỉ ư hiếu; v́ nhân phụ, chỉ ư từ; dữ quốc nhân giao, chỉ ư tín. 1.5 Luân lư ở nhà trường Trong phần “Sự đi học”, tác giả giới thiệu 1) lư do, 2) ích lợi, 3) mục đích, và 4) thái độ căn bản cần thiết của việc đi học. Theo kinh nghiệm của người viết, đây là nội dung rất cần thiết và quan trọng đối với người đi học không những đối với trẻ em mà ngay cả người lớn nhưng hiếm thấy nhà trường hoặc trong xă hội đề cập đến. Người viết rất có ấn tượng về nội dung mà tác giả giải thích giáo dục là ǵ và đoạn cuối của phần này nên xin trích dẫn dưới đây theo thứ tự. “Giáo dục là nói chung cả mọi cách dùng để mở mang trí tuệ, luyện tập tính t́nh và giữ ǵn thân thể khiến cho đứa trẻ lớn lên có đủ tư cách làm một người hoàn toàn ở trong xă hội.” “Các anh phải biết rằng sự đi học là sự rất quan trọng cho người ta, nhưng học th́ cần phải mở mang trí tuệ và luyện tập tính t́nh, th́ mới thành được người có học vấn và có giáo dục.” Tác giả có chú thích “hoàn toàn” là “trọn vẹn”. Người viết thiết tưởng đoạn văn trên được viết trên 100 năm về trước nhưng vẫn ngày nay vẫn c̣n giá trị, không những cho trẻ em mà cả người lớn và đáng để cho bậc cha mẹ tham khảo để giáo dục, hướng dẫn con cái. Trong phần “Bổn phận đối với thầy”, tác giả giới thiệu “thầy là người có học thức, cả đức hạnh” và bổn phận của học tṛ đối với thầy là 1) biết ơn, 2) tôn kính, 3) yêu mến, và 4) vâng lời. Đặc biệt, tác giả cũng nêu ra lư do phải có các bổn phận này và giải thích tại sao thầy yêu mến học tṛ nhưng phải phạt khi cần thiết. Người viết nghĩ rằng điều này quan trọng trong việc giáo dục trẻ em. Trong phần “Bổn phận ở với anh em bạn học”, tác giả nói sơ lược lư do phát sinh t́nh bạn bè ở nhà trường, kể chuyện Lưu B́nh Dương Lễ, khuyên nên giúp đỡ lẫn nhau, bênh vực các bạn yếu và không nên thóc mách v́ hại người để lấy công là việc xấu. Trong phần “Tính hạnh người học tṛ”, tác giả giải thích thế nào là sự ganh đua và tinh thần đoàn thể ở nhà trường, Tuy nhiên nội dung về tinh thần đoàn thể không được phong phú đầy đủ lắm. Các tính tốt người học sinh cần tập luyện là 1) tính sạch sẽ, 2) tính có thứ tự, và 3) tính cần mẫn. Các tính xấu cần tránh là 1) tính lười biếng, 2) tính khinh suất, 3) tính ngang ngạnh, 4) tính khoe khoang và kiêu ngạo, 5) tính ghen ghét và độc ác, và 6) tính tức giận. Cuối cùng tác giả không quên khuyên học sinh cần phải ǵn giữ danh dự của trường ḿnh học. Đặc biệt khi nói về tính cần mẫn, tác giả nêu thí dụ khi học th́ hết sức chú ư học nhưng khi chơi đùa th́ thật vui vẻ. Khi nói về tính khinh suất tác giả khuyên không nên chơi tṛ chơi nguy hiểm. Hai điều trên đều giống với nội dung bài tập đọc đầu tiên trong Tiểu Học Độc Bản của thời Minh Trị ở Nhật Bản. 1.6 Luân lư đối với bản thân Theo người viết, phần này là một trong các đặc sắc của “Sơ Học Luân Lư” v́ hiếm có tác phẩm nào đề cập đến nội dung này trong các sách luân lư hoặc đạo đức làm người. Mặc dù tác giả không nói cụ thể ra nhưng chúng ta có thể thấy trong phần “Bản thân luân lư” gồm có 3 phần chính: 1) phần “Bổn phận đối với thân ḿnh” tác giả đề cập về “thân thể”; 2) phần thứ hai về phương diện “tinh thần” hoặc “linh hồn” gồm có 3 yếu tố chính là “cảm t́nh”, “lư trí” (được giải thích như “trí tuệ” trong sách) và “ư chí”; 3) phần thứ ba là đối với “đồ vật” hoặc “vật chất bên ngoài” mà tác giả dùng từ “của ngoại vật” để diễn tả. Như chúng ta biết 3 yếu tố hoặc 3 năng lực của tinh thần con người được Aristoteles (TCN 384~TCN 322), Platon (TCN 427~TCN 347) đề xướng, triển khai và ngày nay vẫn c̣n được nghiên cứu để áp dụng trong sinh hoạt thực tế. Chúng ta có thể thấy sự học uyên bác và đầy trí tuệ của tác giả trong việc đem 3 yếu tố này để giảng giải cho luân lư ở bậc tiểu học sơ đẳng. 1.4.1 Bổn phận đối với thân thể Khởi đầu của phần “Bổn phận đối với thân ḿnh”, tác giả đă trích dẫn câu “Cái hồn lành ở trong cái xác khỏe” để giảng giải mục đích của bổn phận này là “nên được người có phẩm hạnh” và lợi ích của sức khỏe “thân ḿnh có khỏe mạnh th́ tâm tính ư chí của ḿnh mới linh hoạt và minh mẫn được, tức là ḿnh mới nên được người có ích cho ḿnh và cho mọi người.” Tác giả giải thích “vệ sinh là nói gồm cả mọi cách của ḿnh phải giữ ǵn để khỏi mắc phải bệnh tật và sự đau ốm. Về đường luân lư là ḿnh phải theo vệ sinh giữ cho thân thể ḿnh được tốt tươi, để tăng cái phẩm giá của ḿnh lên.” Ngoài việc giữ vệ sinh để có thân thể khỏe mạnh điều căn bản quan trọng là 1) ăn ở sạch sẻ, 2) có tiết độ, 3) không nghiện ngập và rượu chè, và 4) tập thể thao. Một độc đáo của tác giả khi nói về sạch sẽ, tác giả đă nhấn mạnh “Người ta ở trong xă hội phải đối đăi với kẻ nọ người kia, bao giờ cũng phải cần có lễ phép: mà lễ phép nào cũng cần lấy sự sạch sẽ làm đầu cả.” Một điểm khá thú vị là việc hiểu ư nghĩa khác về từ “thể thao” và “thể dục” của tác giả. Trong phần chú thích từ ngữ, tác giả đă viết như sau: - “Thể thao là cách luyện tập thân thể để lấy thêm sức khỏe- Gymnastique, éducation physique.” (Trang 92) -“ Thể dục là sự dạy về việc giữ ǵn thân thể - Education physique.” (Trang 99). Trong phần “Tập thể thao” ông viết “Sạch sẽ, tiết độ và vệ sinh là cốt để bảo dưỡng lấy thân thể. Nhưng muốn cho thân thể ḿnh một ngày một mạnh mẽ hơn và tốt tươi hơn, th́ phải tập thể thao nữa mới được. Thể thao là tập đi, tập chạy, tập nhảy, tập các cách làm cho da thịt được nở nang, cân cốt được khỏe mạnh.” (Bỏ một đoạn.) “Ta xưa nay vẫn quen tưởng rằng đi học th́ chỉ cốt mở mang trí tuệ, chớ không cần phải luyện tập thân thể, thành ra bao nhiêu những sự thể dục là đều bỏ cả. Tưởng như thế là lầm, v́ rằng thân thể có khỏe mạnh th́ trí tuệ mới minh mẫn được, chứ thân thể đă yếu đau, th́ chắc là trí tuệ cũng phải kém đi.” Xem ra “thể dục” lúc đó được hiểu như các môn học dạy giữ ǵn thân thể, trong khi “trí dục” là các môn học dạy mở mang hiểu biết, suy nghĩ, xem xét. Ngay cả Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh và Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức cũng chưa giải nghĩa 2 từ trên giống như ư nghĩa của hiện nay. Như chúng ta biết xuất xứ của câu “Cái hồn lành ở trong cái xác khỏe” là từ lời bài thơ tiếng Latinh trong tác phẩm Satvrae của Decimus Junius Juvenalis (60~128) “(Orandum est, ut sit) mens sana in corpore sano” và đă được John Locke (1632~1704) dịch ra tiếng Anh, trích dẫn để giới thiệu trong sách “Some Thoughts Concerning Education” (xuất bản đầu tiên năm 1693): A sound mind in a sound body (Một tinh thần lành mạnh trong một thân thể lành mạnh). 1.4.2 Bổn phận đối với tinh thần 1.4.2.1 Bổn phận đối với cảm t́nh Kế đến hăy xem phần “Bổn phận đối với cảm t́nh”. Mở đầu phần này tác giả giải thích “cảm t́nh” là ǵ và lư do quan trọng như sau: “Người ta thường hay yêu người nọ ghét người kia. Yêu ai là bạn hữu, ghét ai là thù địch. Cái ḷng yêu ḷng ghét như thế, tức là cảm t́nh của ḿnh. Những cảm t́nh quan hệ cho người ta lắm, bởi v́ những công việc của ḿnh làm, thường hay bởi những cảm t́nh mà ra cả. Như ḿnh yêu mến người nào th́ ḿnh muốn thân cận với người ấy. Mà ḿnh đă không ưa ai th́ ḿnh tránh xa không muốn nh́n mặt. Hoặc ḿnh thích điều ǵ th́ ḿnh sẵn ḷng muốn làm, mà khi ḿnh đă không thích điều ǵ, th́ ḿnh lấy làm chán nản, khó khăn, không muốn làm. Xem như thế th́ sự yêu ghét của ḿnh quan hệ là dường nào. Vậy nên ta phải xét kỹ những cảm t́nh của ḿnh để mà khai hóa những cảm t́nh tốt và trừ bỏ những cảm t́nh xấu đi.” “Những cảm t́nh xấu phải bỏ đi là tính tư kỷ, tính hay giận giỗi (*), tính nhát sợ và tính ham mê cờ bạc.” “Tư kỷ là riêng một ḿnh, không biết đến ai, tương phản với bác ái”, đồng nghĩa với “ích kỷ”. Tác giả khuyên “Luyện tập t́nh cảm tốt” là 1) tính hồn hậu (trung hậu, thật thà), 2) tính nhẫn nhượng, và 3) tính từ ái. Ghi chú (*) Trong nguyên bản viết “giận giỗi” ngày nay viết “giận dỗi”. 1.4.2.2 Bổn phận đối với trí tuệ (lư trí) Trong phần “Bổn phận đối với trí tuệ” tác giả giải thích trí tuệ là ǵ, và sự quan trọng của trí tuệ. Cụ thể tác giả giới thiệu sự quan trọng của 1) sự phán đoán, 2) sự kín đáo, 3) sự thành thực, 4) sự khôn ngoan, và việc xấu của 5) sự nói dối. 1.4.2.3 Bổn phận đối với ư chí Tương tự như những phần khác, trước hết tác giả giải thích ư chí là ǵ và lư do ư chí có vai tṛ quan trọng trong cuộc đời của con người. Tác giả nói: “Có khi ḿnh thích làm việc ǵ, nhưng v́ việc ấy trái với lẽ phải, hay là không hợp với lương tâm của ḿnh, th́ ḿnh quyết ư không làm. Hoặc là có việc ǵ khó khăn hay là nguy hiểm, nhưng v́ việc ấy là việc phải, th́ thế nào cũng cứ nhất định làm cho được. Sự quyết định như thế là do ở cái năng lực (1) riêng của người ta, gọi là ư chí (2). (Bỏ một đoạn.) “Phàm người ta làm việc ǵ cũng bởi cái sức cố gắng của ḿnh. Mà cố gắng ấy do bởi ư chí mà ra; hễ có ư chí bền chặt th́ làm việc ǵ mới thành công được. Vậy nên ta phải cố sức luyện tập ư chí cho chắc chắn bền chặt.” (1) “Năng lực là cái sức tự nhiên để hiểu biết điều ǵ, hay là làm việc ǵ – Faculté.” (Trang 117). (2) “Ư chí là cái năng lực để quyết định làm điều ǵ, mà làm cho kỳ được – Volonté.” (Trang 15). Tác giả cho rằng “Dũng khí (3) là cái tâm lực (4) của những người có ư chí làm điều lành, điều phải, mà không sợ sự hiểm nghèo, hay là sự chết. Người có dũng khí là người biết so sánh việc hay việc dở, biết lo trước nghĩ sau, biết kiên nhẫn để làm cho được việc.” (3) “Dũng khí là cái khí mạnh–Courage”. (Trang 118). (4) “Tâm lực là cái sức về đường đạo đức của người ta –Force d’âme.” (Trang 118). Tác giả cũng giảng giải thế nào mới là dũng khí thật sự. 1.4.3 Bổn phận đối với đồ vật Trong phần “Bổn phận đối với những của ngoại vật”, trước hết tác giả giải thích ư nghĩa “Của ngoại vật” và khuyên học tṛ cần phải biết phân biệt “Cái thực giá của những ngoại vật” để quư những vật đáng quư mà thôi. Trong phần này tác giả giảng giải lư do “Sự làm lụng” của làm người, khuyên nên có “Sự tiết kiệm”, “Tính hào phóng” và “Tính liêm sỉ” và tránh “Tính xa xỉ” (1) và “Tính biển lận” (2). Đặc biệt khuyên học tṛ nên phân biệt “hào phóng” với “xa xỉ”. (1) “Xa xỉ là tiêu nhiều tiền, tiêu hoang phí quá sự cần dùng của ḿnh – Prodique”. (Trang 106) (2) “Biển lận là bủn sỉn keo cúi – Avare.” (Trang 106) Khi nói về tiết kiệm tác giả trích dẫn lời khuyên của Benjamin Franklin (1705~1790), danh sĩ của nước Mỹ: “Anh hăy cứ tiết kiệm, rồi sự độc lập nó sẽ làm áo giáp bênh vực cho anh, nó làm khiên che chở cho anh, nó là cái nón, cái mũ của anh: có sự độc lập th́ anh đi ở ngoài đường chững chàng, không phải cúi luồn trước mặt đứa tiểu nhân có của, không thèm tḥ tay lấy cái ǵ của ai cho”. Về hào phóng tác giả giải thích: “Người hào phóng là người quân tử có nghĩa khí, biết dùng đồng tiền để làm mọi việc, mà bao giờ cũng thật bụng làm điều lành điều phải, chứ không có phô trương giả dối, như những đứa tiểu nhân. Thường những người đă có tính hào phóng, lại hay cần kiệm, nghĩa là siêng năng và tiết kiệm, biết t́m cách sinh lợi để lấy tiền mà làm việc rộng răi. Bởi vậy cho nên người hào phóng ở đâu cũng có danh vọng, mà đi đâu người ta cũng kính phục.” 1.7 Luân lư đối với xă hội Trước hết tác giả giải thích sự quan trọng của xă hội để học tṛ hiểu tại sao có “Bổn phận ḿnh ở trong xă hội” và có “Nghĩa đoàn thể ở trong xă hội.” Kế đến tác giả giải thích ư nghĩa của 2 từ “trung thứ” của Khổng học để giảng luân lư căn bản đối với xă hội là công bằng và nhân ái. Cụ thể, tác giả viết: “Trung (1) là cứ thẳng mà làm, đừng có giả dối gian ác; thứ (2) là trong bụng ḿnh muốn người ta làm cho ḿnh điều ǵ, th́ ḿnh làm cho người ta điều ấy. Nghĩa là dạy người ta ở với nhau trong xă hội chỉ cốt có đạo công bằng và nhân ái. Công bằng là không giết ai, không lấy của ai, không làm mất danh giá của ai; nhân ái là làm phúc, làm đức, bố thí cho kẻ nghèo đói, cứu giúp những người hoạn nạn, và bênh vực những người hèn yếu. Cái nghĩa vụ (3) lớn của người ta ở trong xă hội cốt có hai điều ấy.” (1) “Trung là thẳng – Droll, loyal”. (Trang 137)” (2) “Thứ là thương yêu người ta như thương yêu ḿnh – Aimer les autres comme soi même.” (Trang 137) (3) “Nghĩa vụ là việc nghĩa ḿnh phải làm – Devoir, obligation morale”. (Trang 137) Tiếp theo tác giả giải thích cụ thể về “Phải trọng tính mệnh”, “Phải trọng của cải” và “Phải trọng danh giá” của người khác. Về “Ḷng nhân ái”, giảng giải cụ thể về “Việc bố thí”, “Sự ái quần” (bác ái), “T́nh hữu ái” (thương yêu bạn bè), “Ḷng thí xả” (xả thân v́ người, xuất phát từ ḷng nhân ái). Ngoài ra, tác giả giảng giải cụ thể “Lễ phép” khi chào hỏi, tṛ chuyện, ăn uống, đồng thời cũng không quên đề cập đến “Biết ơn nghĩa” đối với người trong xă hội. Tác giả cũng ḷng nhân ái không chỉ đối với con người mà ngay cả “Bổn phận đối với cầm thú” (động vật) cũng phải có. Cuối cùng tác giả cũng không quên nói đến lư do làm người phải có “Mấy cái nghĩa vụ yếu trọng đối với nước” khi lớn lên như “Phải tuân kính pháp luật” và “Phải đóng thuế”. 1.8 Tổng kết Theo thiển ư của người viết, phần “Tổng kết” tác giả nói lên được tâm huyết của tác giả muốn nhắn nhủ đến người trẻ và nói lên được tinh túy của sách. Do đó, mặc dù bài viết sẽ trở nên quá dài nhưng xin được ghi chép lại hết phần này, để quư độc giả có dịp biết được tấm ḷng của một nhà sư phạm đáng kính. “Những bổn phận của người ta đối với gia tộc, với học đường, đối với bản thân và với xă hội là thế nào th́ đă giảng giải rơ ràng cho các anh nghe, mà các anh cũng đă hiểu rằng người ta bất kỳ giàu sang nghèo hèn thế nào mặc ḷng, hễ cái cách ăn ở của ḿnh mà không hợp đạo luân lư, th́ cũng thành ra người không có phẩm hạnh, không có giá trị, chỉ là một giống đáng khinh đáng bỉ mà thôi. Vậy nên cha mẹ sinh con ra nuôi cho khôn lớn lên, cho đi học để biết sự nọ vật kia và những bổn phận của ḿnh là thế nào. Là v́ cha mẹ muốn cho con nên người lương thiện tử tế, có cái nhân cách đáng kính đáng mến. Cha mẹ có ḷng tốt mà muốn cho con điều lành điều hay như thế, th́ đạo làm con là phải cố gắng hết sức mà học tập, để khỏi phụ ḷng cha mẹ.” Theo kinh nghiệm bản thân của người viết và tham khảo nhiều sách giáo dục của người Nhật Bản viết, đoạn kế tiếp nói lên được cơ sở căn bản nhất của giáo dục trẻ em, không những người đi học mà ngay cả các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục không nên quên lăng bỏ qua. “Các anh phải học và phải tập, nghĩa là học cho biết những điều ḿnh cần phải biết và tập mà làm những điều ḿnh cần phải làm cho thành cái thói quen của ḿnh. Hễ các anh biết được điều phải điều trái, và lại có cái thói quen làm những điều hay, điều lành, th́ tất là sự giáo dục của các anh đă tiến bộ lắm.” Nội dung viết sách có lẽ tác giả đă căn cứ theo tinh thần của đoạn tiếp theo: “Đức Khổng tử nói rằng “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân; hành(*) hữu dư lực, tắc dĩ học văn: Người học tṛ ở trong nhà th́ phải hiếu với cha mẹ, ra ngoài đường th́ phải kính nhường kẻ bề trên, làm việc ǵ th́ phải cẩn thận, mà nói điều ǵ th́ phải có tín, nghĩa, là nói thật không nói sai, mở rộng ḷng thương người và lại thân với những kẻ có nhân. Hễ làm được những điều ấy rồi, mà c̣n thừa sức th́ hăy học văn chương, xảo kỹ”. Ngài dạy người ta cốt lấy cái đức hạnh ở trong làm gốc, lấy cái văn chương hoa mỹ ở ngoài làm ngọn. V́ rằng người có hạnh cũng như cái hoa có hương thơm vậy, càng thơm bao nhiêu, lại càng quí bấy nhiêu. Vậy ta nên theo lời ấy mà khiến sự sửa ḿnh của ta cho hợp với đạo thường của người ta ở trong xă hội. Cái đạo thường ấy nói tóm tắt lại là: ở trong nhà th́ phải yêu kính cha mẹ, yêu mến anh em, đi học th́ phải chăm chỉ học hành, kính trên nhường dưới; đối với thân ḿnh th́ giữ ǵn cho thân thể được khỏe mạnh tốt tươi, tâm t́nh được tao nhă thanh tú (**); ở với mọi người th́ cần phải có công bằng, có nhân ái, biết vị nghĩa quên lợi, biết cứu giúp người trong lúc gian nan. Ai theo được cái đạo thường ấy th́ cũng như con đường cái lớn, “đạo nhược đại lộ”, cứ thẳng mà đi th́ không bao giờ lạc được, mà công việc của ḿnh làm thành ra có giá trị, và cái nhân phẩm của ḿnh cũng cao lên. Ấy mọi lẽ luân lư đại để là thế, các anh đă đi học, th́ cần phải gắng mà noi theo, khiến cho người ta càng ngày càng tốt hơn và hay hơn.” Ghi chú (*) Trong sách viết “…nhân hành, hữu dực…”. So sánh với sách của Nguyễn Hiến Lê, sách của Lư Minh Tuấn, và ư nghĩa của câu văn có thể suy biết sách in sai nên đă sửa lại. (**) Trong sách viết “thanh thú”. Tra các từ điển không thấy từ này nên đă sửa lại. Trong khi viết bài này, người việt nhận được từ một cựu giáo sư thời trung học giới thiệu bài viết “Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan” đăng trên https://thanhnien.vn/ ngày 24/3.2014. Người viết không rơ tác giả có phải thật sự là một sinh viên người Nhật Bản từng ở Việt Nam hơn 4 năm không nhưng nội dung bài viết này gợi cho thấy phần “Luân lư đối với xă hội” của sách nên thêm các nội dung: 1) giữ sạch sẽ, 2) giữ trật tự, xếp hàng không chen lấn, 3) giữ sự yên tĩnh (không tṛ chuyện, cười đùa lớn tiếng) nơi công cộng. Nguyễn Sơn Hùng Viết xong ngày 29/9/2023 Tài liệu tham khảo (1) Trần Trọng Kim (1914): Sơ Học Luân Lư, tái bản năm 1950, nhà xuất bản Tân Việt. https://thuongmaitruongxua.vn/sach/giai-doan-1900-1949/doc-sach/so-hoc-luan-ly-1949.html#page1 (2) Trang giới thiệu các h́nh b́a của sách Luân Lư Giáo Khoa Thư.
|