|
Đứa con rơi Sutego
Nguyễn Ngọc Duyên dịch Lời
Người Dịch: Sutego (đứa con
rơi) được Akutagawa Ryunosuke viết xong vào
tháng 7 năm 1920. Khi tác giả được 8 tháng
th́ mẹ ông đột nhiên mắc bệnh
thần kinh nên ông được gia đ́nh người
cậu ruột, v́ không có con riêng, mang về nhà
nuôi nấng. Từ đó, ông mang họ mẹ,
Akutagawa, và được người chị dâu
của mẹ ông, bà Fuki, chăm sóc. Đây là
một trong những truyện
ngắn tuyệt đẹp nói về t́nh mẫu
tử. Bài nầy được dịch từ nguyên tác
tiếng Nhật công bố trên mạng
www:aozora.gr.jp. - Ở khu phố Nagasumi [1], Asakusa có một ngôi
chùa tên Shingyo. Người khách bắt đầu
kể. Ngôi chùa nầy không to lớn ǵ lắm nhưng
tương đối thuộc loại cổ
nhờ có tượng gỗ của nhà sư
nổi danh tên Nichirô Shônin [2]. Vào mùa thu năm
Minh Trị thứ 22, người ta thấy có
một bé trai sơ sinh bị bỏ trước
cổng chùa. Không có lấy một miếng
giấy để ghi tên chớ đừng nói
đến năm sinh. Thân thể nó được
cuộn bởi một miếng vải cũ
kỹ và đầu nó đặt trên một
chiếc dép đứt quai của phụ nữ làm
gối. -
Hồi đó, nhà sư trụ tŕ ngôi chùa là
một vị lăo thành tên Tamura Nissô. Một hôm
khi nhà sư đang làm lễ ban sáng th́
người gác cổng, cũng là một người
đứng tuổi, đến báo có một đứa
bé bị bỏ rơi. Đang đối diện
trước tượng Phật, nhà sư hầu
như không quay lại phía người gác
cổng mà chỉ thản nhiên nói: "Vậy à,
thôi th́ ẵm nó vào đây đi". Khi người
gác cổng, vẻ mặt lo lắng, ẵm đứa
bé đến th́ nhà sư liền ôm nó vào ḷng
rồi vỗ về:"Đứa bé nầy
thật dễ thương! Đừng khóc. Đừng
khóc nữa con. Thầy sẽ nuôi con mà."
Từ đó về sau, người gác cổng,
vốn có t́nh cảm đặc biệt với nhà
sư, thường hay kể những t́nh tiết
của câu chuyện nầy khi bán cây hồi [3]
hoặc nhang đèn cho khách thập phương
đến viếng chùa. Có lẽ anh cũng
biết, Ḥa Thượng Nissô xưa là một
thợ hồ sinh sống ở quận Fukagawa. Lúc
19 tuổi, khi đang làm việc trên giàn nhà,
lỡ trượt chân té, bất tỉnh một
hồi rồi sau đó tự nhiên mang ḷng sùng bái
đạo Phật chớ hồi xưa ông ta là
người hung hăng, tánh nết kỳ khôi
chớ không phải hiền từ ǵ đâu. - Rồi sau đó, Ḥa Thượng
đặt tên đứa bé là Yunosuke và bắt
đầu nuôi nấng nó như con ruột
vậy. Nhưng mà kể từ thời Minh
Trị Duy Tân trở đi, v́ nhà chùa không có
phụ nữ nên nói là nuôi chớ thật sự
không phải là chuyện dễ. Từ chuyện
ẵm bồng cho đến chuyện cho uống
sữa, một ḿnh Ḥa Thượng làm hết
trong những lúc rảnh rỗi không phải đọc
kinh kệ. À, có một chuyện nầy nữa. Có một hôm
thằng Yunosuke, có lẽ là cảm cúm ǵ đó mà
xui xẻo làm sao nó lại bị bệnh nhằm
lúc có Phật sự ở nhà một người
tên là Nishitasu, một người cúng dường
rất nhiều tiền của cho nhà chùa. Ḥa Thượng
mặc áo lễ, một tay ôm thằng nhỏ
đang lên cơn sốt vào ngực, một tay
lần tràng hạt thủy tinh rồi đọc
kinh b́nh thường như mọi hôm.
- Nhưng mà
lúc đó th́ có lẽ là trong thâm tâm Ḥa Thượng
cũng muốn cho thằng Yunosuke được
gặp cha mẹ ruột của nó nếu
được, v́ Ḥa Thượng tuy là người
bề ngoài trông cứng rắn nhưng cũng là
người giàu t́nh cảm.
Mỗi khi Ḥa Thượng thuyết pháp -
ngay bây giờ nếu anh đến cổng chùa th́
cũng sẽ thấy tấm bảng cũ kỹ
ghi:"Mỗi tháng thuyết pháp ngày rằm"
- Ḥa Thượng thỉnh thoảng trích dẫn
điển tích Trung Hoa hay Nhật Bản, rồi
bằng một giọng chân t́nh mà giảng
dạy rằng không quên t́nh mẫu tử tức
là đă báo ơn Phật vậy. Tuy nhiên,
biết bao nhiều lần thuyết pháp đă trôi
qua mà chưa có một người nào đến
tự xưng ḿnh là cha hay là mẹ của đứa
bé. À tôi quên mất, không phải như vậy
đâu. Khi thằng Yunosuke lên ba tuổi, th́
chỉ có một lần thôi có một người
đàn bà, mặt nám v́ đánh phấn trắng
quá nhiều, đến gặp Ḥa Thượng nói
ḿnh là mẹ ruột của đứa nhỏ. Nhưng
mà có lẽ bà ta định lợi dụng
thằng nhỏ để làm chuyện ǵ đó nên
khi Ḥa Thượng hỏi kỹ lưỡng th́
chỉ nghe toàn những chuyện đáng nghi
ngờ mà thôi. V́ là người tánh nết ngay thẳng,
đàng hoàng, Ḥa Thượng rất tức
giận đến nỗi ông muốn đập bà
ta một trận, nhưng thay vào đó chỉ
nặng lời với bà ta một hồi lâu
rồi đuổi đi ngay.
- Rồi mùa đông năm Minh Trị thứ
27, lúc mà cả nước đang sôi sục trước
tin đồn Nhật và nhà Thanh bên Trung Quốc
sắp đánh nhau th́ cũng vào ngày 16, ngày
thuyết pháp đó, khi Ḥa Thượng trở
về pḥng riêng th́ có một người đàn
bà tuổi trạc băm bốn, băm lăm, dáng
vóc thanh lịch dịu dàng bước theo. Trong pḥng,
thằng Yunosuke đang lột quít bên cạnh ḷ sưởi
có ấm nước treo bên trên. Mới thấy
mặt mũi thằng Yunosuke th́ người đàn
bà không ngần ngại liền chấp tay trước
Ḥa Thương, rồi cố nén giọng run run bà
ta nói thẳng rằng: "Bạch Thầy, thưa
con là mẹ ruột của đứa bé
nầy". Chuyện nầy làm Ḥa Thượng
Nissô, sững người ngạc nhiên đến
đỗi không nói được một lời
chào hỏi mặc dù Ḥa Thượng vốn là
người giao thiệp rộng răi, bặt
thiệp. Rồi không đợi cho phép, người
đàn bà mắt luôn nh́n xuống sàn chiếu, trân
trọng bày tỏ ḷng cảm ơn của bà
đối với Ḥa Thượng đă nuôi dưỡng
thằng Yunosuke cho đến ngày hôm nay.
Bà ta nói như đă học thuộc ḷng trước
nhưng sự xúc động mănh liệt trong ḷng
bà ta có thể thấy thể hiện trên tấm
thân run rẩy của bà.
- Sau khi người đàn bà nói một
chập, Ḥa Thượng giơ quạt lên
ngắt lời rồi yêu cầu bà ta trước
tiên hăy nói cho nghe nguyên cớ nào bà đă
phải bỏ đứa bé. Nghe nói vậy, người
đàn bà mắt vẫn dán vào sàn chiếu,
bắt đầu kể câu chuyện như sau:
- Cách đây đúng 5 năm, chồng bà buôn
bán gạo ở phố Tawara, Asakusa nhưng v́ say
mê chuyện mua bán chứng khoán không lo làm ăn
nên tiêu tan cả sự nghiệp.
Gia đ́nh phải vội vàng dọn nhà
xuống Yokohama như là để trốn nợ và trong t́nh trạng đó,
thằng nhỏ mới sanh đă trở thành vướng
tay vướng chân. Hơn thế nữa, xui
xẻo làm sao, người đàn bà lại
hầu như không có một giọt sữa cho con
bú. Đêm cuối cùng phải rời Tokyo, hai người
đến trước cổng chùa Shingyo, khóc
nức na nức nở một hồi lâu rồi
đặt thằng bé c̣n đỏ hỏn ở
đó.
- Chỉ dựa vào mối quen biết ít
ỏi, hai vợ chồng không đủ sức
đáp tàu lửa, đă lần đến Yokohama
t́m việc. Người
chồng th́ làm công cho một hăng vận tải,
người vợ th́ làm đầy tớ cho
một tiệm dệt. Trong ṿng 2 năm, hai vợ
chồng chăm chỉ làm ăn.
Mùa hè năm thứ 3, chủ nhân hăng
vận tải thấy người chồng làm
việc thật thà và siêng năng nên cho mở
một chi nhánh nhỏ nằm trên một con
đường mới khai thông hồi đó
thuộc khu Honmoku. Như vậy, người
vợ không c̣n phải làm đầy tớ cho người
ta nữa mà trở lại chung sống với
chồng là chuyện đương nhiên rồi,
khỏi phải nói.
- Chi nhánh làm ăn khấm khá.
Năm sau, hai vợ chồng sinh được
một bé trai kháu khỉnh. Đương nhiên là
kư ức bi thảm về đứa con rơi
vẫn c̣n làm hai vợ chồng day dứt trong ḷng.
Đặc biệt khi người đàn bà cho
đứa bé sơ sinh bú ḍng sữa thiếu
thốn của ḿnh th́ bà ta nhớ lại rất
rơ h́nh ảnh cái đêm hai vợ chồng
phải rời Tokyo. Nhưng mà công việc làm
ăn bận rộn. Rồi đứa bé càng ngày
càng lớn. Vợ chồng rủng rỉnh có
tiền gửi ngân hàng. Và như vậy th́ sau
một thời gian cực khổ hai người
đă có được một đời
sống tương đối hạnh phúc.
- Tuy nhiên hạnh phúc đó không kéo dài
được bao lâu. Khi cuối cùng họ
mới có được nụ cười th́
đầu xuân năm Minh Trị thứ 27, người
chồng mắc bệnh thương hàn nằm
liệt giường không đến một
tuần th́ ngă lăn ra chết. Nếu chỉ có
chuyện đó không thôi th́ bà ta cũng có
thể cho đó là số phận mà vượt
qua được. Tuy nhiên, cái mà bà ta không
thể nào chịu nổi là sau khi người
chồng chết chưa đầy 100 ngày th́
đứa con đột nhiên bị bệnh
kiết lỵ rồi đi theo luôn. Thôi th́ bà ta
khóc ngày khóc đêm như khùng như điên
rồi từ đó suốt nửa năm, bà ta
sống như người mất hồn vậy.
- Khi nỗi
buồn vơi đi một chút, chuyện
bà nghĩ đến đầu tiên là đi
gặp đứa con trai đầu mà bà đă
bỏ hồi xưa. Trong
ḷng bà ta nghĩ rằng: "Nếu nó c̣n
khoẻ mạnh th́ dầu có cực khổ đi
chăng nữa ḿnh cũng ráng mang về mà nuôi
nấng". Nghĩ
tới đó th́ ḷng dạ bứt rứt không
thể chần chờ, bà ta liền đáp tàu
lửa đi Tokyo, vùng đất quen thuộc khi xưa,
rồi đến thẳng chùa Shingyo. Lúc bà ta
đến th́ đúng vào buổi sáng ngày 16, ngày
thuyết pháp mỗi tháng.
- Đến chùa, bà ta định đến
ngay tăng pḥng để hỏi tông tích
thằng nhỏ. Nhưng khi đang thuyết pháp
giữa chừng th́ làm sao mà bà ta gặp Ḥa Thượng
được. Do đó bà ta phải vào chính
điện đang đông nghẹt thiện nam tín
nữ, bồn chồn tai lắng nghe thuyết pháp
mà hồn th́ để đâu đâu. Nói là nghe
chứ thực sự là bà ta chỉ cầu mong
cho buổi thuyết pháp xong thật sớm.
- Nhưng ngày hôm ấy, Ḥa Thượng cũng
đă trích dẫn điển tích bà Liên Hoa [4] t́nh
cờ gặp lại 500 người con của bà
để rồi tận t́nh thuyết minh rằng
ân t́nh giữa mẹ và con rất là cao quư.
Bà Liên Hoa đẻ 500 trứng nhưng
tất cả đều trôi sông đến
một nước lân bang và được nhà
vua nước đó nuôi nấng. Lớn lên, 500
chàng lực sĩ sinh ra từ 500 quả trứng
nầy lại đi tấn công thành tŕ của bà
Liên Hoa mà không biết đó là thành của
mẹ ḿnh. Nghe nói vậy, bà Liên Hoa liền leo lên
đỉnh thành rồi nói vọng xuống:
"Tao là mẹ của 500 đứa tụi bây
đây. Bằng chứng đây nè."
Nói xong, bà kéo vú ra rồi bằng bàn tay nơn
nà bóp cho sữa chảy. Từ ngực của bà đứng trên
đỉnh thành cao, sữa
chia ra 500 ḍng rót ngay vào miệng của 500 chàng
lực sĩ, không sót một ai. Đang ngồi
nghe thuyết pháp một cách miễn cưỡng,
câu chuyện ngụ ngôn của nước Thiên
Trúc [5] nầy đă làm người đàn bà
bất hạnh xúc động mạnh.
Chính v́ vậy sau khi nghe thuyết pháp xong,
mắt c̣n đẫm lệ, bà ta liền ra
khỏi chính điện rồi theo hành lang
vội vàng đến tăng pḥng của nhà chùa.
- Nghe xong rơ ràng đầu đuôi câu
chuyện, Ḥa Thượng Nissô gọi thằng
Yunosuke ở bên ḷ sưởi đến để
nó thấy mặt mẹ nó lần đầu tiên
sau 5 năm bị bỏ rơi. Có lẽ Ḥa Thượng
đă tự nhiên cảm nhận rằng những
lời lẽ bà ta nói ra là thật.
Bà ta ẵm thằng Yunosuke lên.
Trong lúc bà ta cố đừng để
tiếng khóc bật ra th́ Ḥa Thượng,
một con người rộng răi hào phóng, đang
mỉm cười nhưng nước mắt th́
đă lóng lánh dưới hàng mi.
- Sau đó
chuyện ǵ sẽ xảy ra th́ khỏi phải nói
anh chắc cũng đoán được.
Yunosuke được mẹ dẫn về
sống ở thành phố Yokohama. Bà ta sau khi
chồng con chết, dưới sự hướng
dẫn của ông chủ hăng vận tải giàu t́nh
nghĩa, đă sinh sống bằng nghề dạy
may giỏi dang của bà.
Cuộc sống tuy đạm bạc nhưng
không phải là cực khổ ǵ cho lắm.
Sau khi chấm dứt câu chuyện dài, người
khách cầm tách trà lên nhưng không uống mà nh́n
thẳng vào mặt tôi rồi nói giọng
trầm buồn: -
Đứa
con bị bỏ rơi đó chính là tôi đây.
Tôi yên lặng gật đầu, rót thêm nước
nóng vào b́nh trà. Mặc
dù đây là lần đầu tiên tôi gặp người
khách, tôi cũng đă mường tượng
được rằng câu chuyện dễ thương
về đứa con bị bỏ rơi nầy là
chuyện thật về cuộc đời
thủa thơ ấu của bạn Matsubara Yunosuke.
Im lặng một chập, tôi hỏi người
khách: "Bây giờ mẹ anh vẫn khoẻ
mạnh chứ? " th́ tôi nhận được
câu trả lời ngoài dự đoán: "Không,
mẹ tôi mất cách đây hai năm. Nhưng mà
người phụ nữ mà tôi kể cho anh nghe
không phải là mẹ ruột của tôi đâu."
Thấy tôi ngạc nhiên, người bạn
mắt hơi lộ vẻ hóm hỉnh kể:
- Đương
nhiên là chuyện người chồng mở
tiệm gạo ở phố Tawara, Asakusa, hoặc
chuyện hai người đến Yokohama rồi
sống lận đận ở thành phố
nầy là chuyện có thật. Tuy nhiên chuyện
bỏ con là chuyện bịa đặt mà sau
nầy tôi mới biết được. Số là
đúng một năm trước khi mẹ tôi
mất, do công chuyện làm ăn -
như anh đă biết, nhà tôi mua bán
chỉ vải - tôi
đă đi khắp các phố ở Niigata.
Lúc đó tôi có dịp đi cùng chuyến tàu
lửa với một người chủ tiệm
bao b́, láng giềng của mẹ tôi khi bà cư
ngụ ở phố Tawara. Theo lời ông ta kể,
mặc dù tôi không có hỏi, th́ hồi đó
mẹ tôi sanh được một đứa bé
gái nhưng đứa bé sơ sinh nầy lại
chết đi trước khi mẹ tôi đóng
cửa tiệm. Rồi
sau đó khi tôi trở về Yokohama, không cho
mẹ tôi biết, tôi liền xin bản sao
của tờ khai hộ tịch mà xem th́ đúng
như là ông chủ tiệm bao b́ nói, đứa
bé sinh ra lúc mẹ tôi cư ngụ ở phố
Tawara là đứa bé gái nhưng ba tháng sau th́
mất. Không biết mẹ tôi đă suy nghĩ như
thế nào mà đặt ra chuyện bỏ con
để nuôi dưỡng tôi, một đứa
bé không phải là ruột thịt của bà.
Rồi trong ṿng hơn 20 năm qua, bà đă
tận tụy nuôi dưỡng tôi nhiều khi quên
cả ăn ngủ.
- Lư do nào mà bà đă làm như vậy. Tôi
đă suy nghĩ về câu hỏi nầy không
biết bao nhiều lần rồi. Nhưng mặc dù tôi không thể biết
hết sự thật, tôi nghĩ một lư do
thoả đáng nhất là những lời
giảng dạy của Ḥa Thượng Nissô đă
làm cho mẹ tôi, một người vợ góa
chồng và một người mẹ mất con,
hết mực cảm động. Tôi nghĩ có
lẽ là mẹ tôi, khi nghe những lời
thuyết pháp
đó, đă quyết định đóng vai
thế cho người mẹ ruột của tôi mà
tôi không hề biết. Có thể bà nghe chuyện
tôi bị bỏ rơi ở chùa từ khách văng
lai. Cũng có thể bà nghe từ ông lăo gác
cổng chùa.
Người khách ngừng kể một chút
rồi với cặp mắt như nghĩ
ngợi xa xôi, nâng tách trà lên rồi hớp
một ngụm như chợt nhớ ra
có tách trà trước mặt ḿnh. Tôi liền
hỏi tiếp:
- Như vậy th́ anh có nói với mẹ anh
rằng anh không phải là con ruột ...
hay là anh biết chuyện anh không phải là
con ruột không?
- Không. Tôi không có nói như vậy. Bởi
v́ nói như vậy th́ tội nghiệp cho mẹ
tôi quá. Cho tới khi mẹ tôi mất, bà cũng
không hề nói với tôi về chuyện đó.
Có lẽ mẹ tôi cũng nghĩ rằng nói ra th́
chỉ tội cho tôi mà thôi. Thật t́nh mà nói,
kể từ khi tôi biết tôi không phải là con
ruột của bà, t́nh cảm của tôi đối
với bà đă thay đổi nhiều lắm. Tôi nh́n thẳng vào mắt người bạn: - Thay đổi là thay đổi như thế nào? -
Tôi yêu thương mẹ tôi nhiều hơn trước.
Từ khi biết được bí mật đó,
là đứa con rơi, tôi đă nghĩ là bà cao
cả hơn những người mẹ b́nh thường
khác.
Người khách chân t́nh trả lời. Như
thể không biết rằng chính anh cũng là
một người con hiếu thảo hơn
những người con b́nh thường khác. Nguyễn Ngọc Duyên
dịch Tháng
4 năm 2005 Chú thích
[1]
Hiện nay là Nagasumachi, Taitô-ku, Tokyo. Nơi đây
có nhiều chùa thuộc hệ Nichiren (Nhật Liên)
nhưng không có chùa nào tên Shingyo. Ngôi chùa trong h́nh
không phải là chùa Shingyo. [2]
Nichirô Shônin (1243 ~ 1320), một nhà sư trứ
danh thời Kamakura. [3]
Tên Nhật là shikimi hay shikibi (tiếng Anh là
Japanese star anise) là một loại cây được
các nhà sư Nhật Bản mang từ Trung
Quốc. V́ cây có mùi thơm nên vỏ cây
được dùng làm nhang và người
Nhật thường dùng nhánh cây hồi có bông vàng
lợt để dâng cúng và tỏ ḷng kính
trọng đối với người chết. [4]
Bà Liên Hoa là một bà tiên theo truyền thuyết
Ấn Độ, đi đến đâu th́ hoa
sen nở đến đó. [5]
Thiên Trúc là nước Ấn Độ bây
giờ. Tức là nơi Đức Phật ra đời,
nên gọi nước Phật là nước Trúc
(theo Hán Việt Tự Điển của Thiều
Chửu)
®
"Khi phát hành lại thông tin
từ trang này cần phải có sự đồng
ư của dịch giả
|