Văn
học Nhật Bản hiện đại
đă bắt đầu từ thời Meiji.
Tuy không ai có thể đem dao kéo cắt
một mẩu văn học để dán vào
một triều đại, nhưng phải
công nhận có những biến cố
lịch sử làm xáo trộn tư duy
của con người (trong một chiều
hướng khác, sự thay đổi tư
duy cũng ảnh hưởng tới
lịch sử). Nhà văn Akutagawa Ryunosuke
(1892-1927) sinh ra vào đời Meiji (ngày 1 tháng
3 năm Meiji 25, 1892) có thể được
xem như sản phẩm của thời
đại này tuy sự nghiệp văn chương
của ông (1912-1927) phần lớn nằm
trong giai đoạn Taisho (1912-1926).Cùng
với Natsume Soseki và Mori Ogai, ông là một
trong ba trụ cột của văn học
Nhật Bản hiện đại. Cũng như
Kawabata Yasunari và Mishima Yukio, ông lại là
một trong ba nhà văn mà ngoại quốc
biết tiếng hơn cả.. Người
đời yêu văn tài của ông đă dành
nhưng cũng thương cảm cho
nỗi buồn về “sự thất
bại của lư trí” toát ra từ tác
phẩm cũng như cuộc đời 36 năm
ngắn ngủi và đầy bi kịch
của ông.
Trước hết hăy thử nh́n bối
cảnh văn học cuối Meiji, đầu
Taisho là lúc ông sinh ra để xác định
vị trí của ông trong văn học
sử. Bộ môn cần được quan
sát là bộ môn tiểu thuyết tuy ông không
hề viết truyện dài, cùng lắm là tác
phẩm trung biên mà thôi
Dưới thời Meịji, có bốn ḍng
văn học hầu như đối
chọi với nhau:
1) Trước tiên là những nhà văn theo
chủ nghĩa tự nhiên (naturalism).
Trường phái này chịu ảnh hưởng
của tinh thần khoa học tự nhiên và
văn học Tây Phương của thế
kỷ 19 qua những nhà văn như Emile
Zola (Pháp), Gerhart Hauptmann (Đức), xem
việc miêu tả thực tế không che
đậy, không lư tưởng hóa mới là
văn học chân chính.
2) Bên cạnh đó, có khuynh hướng duy
mỹ (aestheticism) đề cao giá
trị của thẩm mỹ và nhục
cảm trong nghệ thuật theo tinh thần
của Charles Baudelaire (Pháp) hay Oscar Wilde (Anh).
3) Khuynh hướng bản xứ gọi là cao
sang (yoyuha) được đại
diện bởi cách viết đặt
trọng tâm vào việc làm giàu có kiến
thức (refinement) như kiểu Natsume Sôseki
hay có thái độ bàng quan (nil admirari),
chịu phép (resignation) trước những
vấn đề xă hội đặt ra như
Mori Ogai.
4) Trong khi đó, trường phái Shirakaba
(Bạch Hoa, cây bạch dương), ra
đời cuối thời Meiji (Meiji 43, 1910),
tập trung những cây bút xuất thân
từ giới thượng lưu, sớm nh́n
thấy mâu thuẫn giữa cuộc sống
sung túc của giai cấp ḿnh và những
bất công xă hội họ chứng
kiến, t́m cách xác định bản ngă
bằng cách viết và thực hiện
những công tŕnh xă hội [2] có tính
cách không tưởng (utopianism).
Bước
qua thời Taisho, phái duy mỹ vẫn
tiếp tục và Shirakaba bắt đầu
hưng thịnh. Chỉ có văn học
tự nhiên chủ nghĩa là bị suy thoái
và nhường bước cho trào lưu
tự thuật của watakushi shosetsu (c̣n
đọc là shi-shosetsu, tư tiểu
thuyết, tức ḍng văn học lấy cái
tôi làm trung tâm) và ḍng văn học theo
chủ nghĩa tân hiện thực
(neo-realism), dùng khả năng của lư trí
để phán đoán một cách lạnh lùng,
khách quan những dữ kiện xă hội dù
thuộc về hiện tại hay đă lui vào
quá khứ. Akutagawa được các nhà phê
b́nh văn học liệt kê vào ḍng văn
học thứ hai này.
1.
Phát triển của bộ môn tiểu
thuyết trong giai đoạn cuối Meiji
đầu Taisho:
Được in bằng chữ
nghiêng là 3 khuynh hướng đối
lập với ḍng văn học chính
thời đó (chủ nghĩa tự nhiên) và
phong trào tư-tiểu thuyết [3].
Thời
đại |
Khuynh hướng
/Tác gia
1
|
2 |
3 |
4 |
Meiji
40
(1907) |
-
Chủ nghĩa tự nhiên (Yamada Katai,
Shimazaki Toson, Tokuda Shusei, Masamune Hakucho,
Kunikida Doppo) |
- Khuynh hướng duy
mỹ (Sato
Haruo, Nagai Kafu, Tanizaki Jun-ichiro) |
- Khuynh hướng cao sang
(Mori Ogai,
Natsume Soseki) |
-
Văn phái Shirakaba (Bạch Hoa) |
Taishô
10
(1921)
15
(1926) |
- H́nh
thức tư-tiểu thuyết
(watakushi-shosetsu) |
- Chủ
nghĩa tân hiện thực
(Akutagawa Ryunosuke, Kume Masao, Kikuchi Kan) |
|
(Arishima
Takeo, Shiga Naoya, Mushakoji Saneatsu) |
1.1. Akutagawa Ryunosuke và trường phái Tân
hiện thực
Những nhà văn của trường phái
tân hiện thực là người có chung
quan điểm sử dụng khả năng
suy luận của lư trí để phân tích
và chỉnh lư những vấn đề mà
cả hai trường phái duy mỹ và
Shirakaba kia đă để vuột mất.
Tuy được xem như chung một trường
phái Tân hiện thực, nhưng họ
lại đứng ở những vị trí
nhiều khi rất xa nhau và dĩ nhiên có tác
phong khác nhau.
1.2. Nhóm Shinshicho [4] (Tân tư
trào)
Một nhóm bè bạn quen biết nhau ở
Đại Học Đế Quốc Đông
Kinh (tiền thân của Đại Học
Đông Kinh) cùng chung chí hướng đă
tái bản tạp chí
Shinshicho (Trào lưu
mới) (lần thứ 3 năm 1914 và
lần thứ 4 năm1916). Tạp chí đó
đă đóng vai tṛ giới thiệu
với văn đàn những tên tuổi
mới như Akutagawa Ryunosuke, Kikuchi Kan, Kume
Masao, Yamamoto Yuzo, Toyoshima Yoshio.
2. Điểm khởi hành của Akutagawa
Ryunosuke (1892-1927)
Ông là con gia đ́nh Niihara, được
đặt tên Ryu (Long = con rồng) v́ sinh ngày
th́n, tháng th́n, năm th́n, khu Irifune, nhượng
địa cho người ngoại quốc
ở Tokyo. Ông là con trưởng của
Niihara Toshizo
[5]. Bố ông có xưởng
chế sữa ḅ ở ngoại ô Tokyo,
nhiều khách hàng ngoại quốc, sau làm
ăn thất bại, v.v... nhưng gốc gác
này không dính dáng ǵ tới văn nghiệp
ông bao nhiêu. Ông mới ra đời
được bảy tháng th́ bà mẹ
đẻ phát bệnh tâm thần nên ông
được đem về phía họ hàng
bên mẹ (Akutagawa) làm dưỡng tử.
Cha nuôi là Akutagawa Michiaki. Họ Akutagawa xưa
kia đời đời vốn giữ
chức hầu lễ trà đạo trong
phủ chúa, đến thế hệ Michiaki
vẫn c̣n giữ được nếp văn
nhân, tao nhă (bunjin), biết vẽ và làm thơ.
Đó là điểm khởi hành của
Akutagawa nhà văn.
Ông có khiếu văn chương từ
hồi tiểu học, thích sử và
muốn trở thành nhà nghiên cứu sử.
Học rất giỏi, đến nỗi vào
ban văn trường Ikko được
miễn thi. Lúc bé đă ham đọc
Tây
Du Kư,
Thủy Hử,
Hakkenden (Bát
Khuyển Truyện, một tiểu thuyết
kiếm hiệp của Bakin thời Edo) cũng
như tác phẩm của Kyoka, Katai, Rohan,
Ichiyo và Ogai là những nhà văn hàng đầu
thời ấy. Ông cũng thích các tác
giả ngoại quốc, đặc biệt
kịch Henrik Ibsen (Na Uy), thơ William Butler
Yeats (Ái Nhĩ Lan) và văn Anatole France (Pháp).
Tác phẩm đầu tiên của ông là
Tuổi
già (Ronen, 1914) tuy có thuyết cho là tùy bút
Nước gịng sông cái
(Okawa no Mizu,
1912). Vào thời điểm đó, ông c̣n
viết kịch
Tuổi xuân và Cái
chết (Seinen to Shi), một nhan đề
định mệnh!
Cô Yoshida Yayoi, mối t́nh đầu của
ông (1914-15), là con gái một người quen
với gia đ́nh. Ông định cầu hôn
nhưng họ lại ngăn cản. Sự
kiện này làm ông chán ngán cái xấu xa, ích
kỷ của người đời và ôm
lấy ư nghĩ bi quan “sinh ra làm người
đă là khổ rồi”. Đó cũng là
cơ sở triết lư của
Rashomon,
tác phẩm nổi tiếng của ông.
Ông là nhà văn tiêu biểu của phái
Shinshicho. Trong lần tái bản lần
thứ 5 của tạp chí, số ra mắt
(tháng 2/1916) ông đă cho đăng
truyện ngắn
Cái
mũi (Hana) và được văn hào
Natsume Soseki nhiệt liệt tán thưởng
như sau:
Truyện của ông viết
thực hay. Điềm đạm, không
đùa cợt, cứ kể tự nhiên mà làm
cho người ta thấy buồn cười
một cách nhẹ nhàng. Hơn nữa
chất liệu dùng trong truyện lại
rất mới mẻ. Văn từ gọn gàng,
tŕnh bày đầy đủ những điểm
cần thiết. Tôi phục lắm. Cứ
tiếp tục viết thêm độ hai ba mươi
tác phẩm như vậy th́ ông sẽ
trở thành một nhân tài hiếm có
của văn đàn cho xem.
3. Điểm qua các tác phẩm nổi
tiếng của Akutagawa
Truyện
Hana nói trên lấy cảm
hứng từ
Truyện bây giờ đă
xưa (Konjaku Monogatari). Trong giai đoạn
đầu tiên, khi sáng tác, ông hay mượn
đề tài từ
Konjaku hay
Truyện
xưa do ông Uji Dainagon góp nhặt (Uji Shui
Monogatari), hai tác phẩm của thời trung
cổ Nhật Bản. Chẳng hạn các
truyện ngắn
La Sinh Môn (Rashomon,
1915),
Cháo khoai
(Imogayu, 1916),
Bức b́nh
phong tả cảnh địa ngục (Jigokuhen,
1918)…
Phạm vi đề tài và không gian của
Akutagawa dần dần nới rộng.
Hứng
sáng tác (Gesaku Sammai, 1917),
Cánh đồng
khô (Karenosho, 1918); lấy bối cảnh
thời Edo,
Cái chết của một con
chiên (Hyokyonin no shi, 1918),
Truyện thánh
Christopher (Kirishitohoroshonin-den, 1919) viết
về thời ngoại quốc đến
truyền giáo;
Tiệc khiêu vũ
(Butokai,
1920),
Mấy con nộm (Hina, 1923) nói
về sự tiếp thu văn minh Âu Tây
thời Meiji. Ngoài ra c̣n có
Sợi tơ
nhện (Kumo no Ito),
Cậu bé Đỗ
Tử Xuân (Toshishun, 1920) mượn đề
tài Ấn Độ và Trung Quốc đời
Đường.
Yếm thế và ư thức về tội
lỗi đă đưa ông đến
với ḷng tin tôn giáo.
Sợi tơ
nhện (Kumo no Ito),
Chúa Ki-Tô ở Nam
Kinh (Nankin no Kito),
Cái chết của
một con chiên (Hokyonin no shi),
Truyện
Thánh Christopher (Kirishitohoro shonin-den) đều
nằm trên một quĩ đạo. Trước
khi chết không bao lâu ông c̣n viết
Người
phương Tây (Seiho no Hito)
và
tục biên của nó,
Shoku Seiho no Hito,
lại viết về chúa Kitô. Đó không
phải là điều ngẫu nhiên. Trong các
tác phẩm sau này, không c̣n đâu cái
mỉa mai của
Rashomon. Ông đă t́m
về ḷng tin tôn giáo. Bên cạnh những tác
phẩm kết án về sự ích kỷ
của con người như
Một
vụ án mạng thời mới mở mang (Kaika
no Satsujin),
Ḷng
đă trót yêu (Kesa to Morito),
Bốn
bề bờ bụi (Yabu no naka), may
thay, ông đă để lại những
truyện ngắn nhẹ nhàng và cảm
động như
Chiếc
xe gọng (Torokko),
Cậu bé Đỗ
Tử Xuân (Toshishun),
Tu
tiên (Sennin), thường thường
là những bài viết cho thiếu niên,
độc giả của tạp chí
Akai
Tori [6] (Con chim đỏ).
Những tác phẩm vừa kể đă
chứng tỏ văn tài của ông, nhưng
đột nhiên, năm Taishô thứ 9 (1920),
nhân viết
Mùa thu
(Aki), ông thoát ly
lập trường “nghệ thuật
vị nghệ thuật” và, sau giai đoạn
tiểu thuyết gọi là Yasukichi-mono
(truyện với nhân vật chính tên là
Yasukichi, có lẽ là chính tác giả),
bắt đầu bước vào lănh
vực tiểu thuyết tự thuật
với
Thời trẻ của chàng Shinsuke
chùa Daidoji (Daidôji Shinsuke no hansei; Đại
Đạo Tự Tín Phù bán sinh, 1925).
Cuối đời, người ta cho
rằng một phần v́ dao động trước
những biến cố xă hội dưới
sức ép của cao trào văn học vô
sản, một phần sức khỏe suy
sụp do thần kinh suy nhược (có dính
líu đến bệnh điên của người
mẹ), ông mang một nỗi bất an thường
trực. Phải chăng v́ thế mà ông
đă miêu tả trạng thái tinh thần
của chính ḿnh trong
Ảo ảnh
cuộc đời (Shinkirô, 1927) và
Kappa
(“Xă hội quái thú Kappa”, 1927) và sau đó,
tự kết liễu đời ḿnh
bằng độc dược.
Cái chết của Akutagawa được xem
như tượng trưng cho số phận
của trí thức, đă gây nhiều xúc
động cho người đương
thời. Ông để lại di cảo
Guồng
máy (Haguruma),
Đời một chú
ngốc (Aru aho no issho). Một tác phẩm
ông viết khoảng năm 1923-1925 và
được in ra sau khi ông mất (tháng
12/1927) nhan đề
Lời phát biểu
của một người hèn kém (Shuju no
kotoba) có những nhận định như
sau:
- Đời người:
Đời người giống như cái
hộp diêm. Đừng có dại mà dùng nó
vào chuyện lớn. Dùng vào chuyện
lớn là nguy hiểm.
Đời người giống như
quyển sách thiếu nhiều trang. Khó
thể gọi nó là quyển được.
Nhưng nó lại là một quyển đấy.
-Tự do:
Tự do giống như không khí trên đỉnh
núi cao. Kẻ yếu không thể nào
chịu nổi cả hai thứ đó.
Tự do chủ nghĩa. Tự do luyến ái.
Tự do mậu dịch. Đáng tiếc là
trong cái cốc nào chứa tự do cũng có
pha thật nhiều nước. Nói chung toàn
nước đọng.
Hăy thử điểm qua các tác phẩm
nổi tiếng của ông.
Hana là đoản
thiên mượn ư truyện nói về cái mũi
dài quá khổ của một nhà sư, chép
trong tác phẩm trung cổ
Uji Shuui. Sư
Zenchi (Thiền Trí) chùa Ike-no-O (Đuôi Ao)
của Akutagawa khổ sở v́ muốn làm
cho mũi ngắn lại, giống như con
người ta khổ sở v́ quá chú ư
về ḿnh trong khi những kẻ sống
chung quanh lại vô t́nh có ác ư.
Rashomon
lấy cảm hứng từ truyện
cổ trong Konjaku qua câu truyện một tên
trộm khám phá đống xác người
chết bỏ trên lầu cổng Rashomon.
Triết lư của nó nằm ở chỗ,
con người v́ muốn sống c̣n nên
phải nhúng tay vào điều ác, và
chỉ khi nào làm một điều ác khác
mới ngăn chặn được điều
ác trước. Nhân sinh quan của một
con người lúc đó mới 24 tuổi
như Akutagawa quả là quá đậm màu
sắc yếm thế. Trong đoạn
kết của
Rashomon, tên người
ở sau khi trách mụ già đă làm điều
ác là nhổ tóc xác chết kết thành búi
tóc giả đem đi bán, lại lột
quần áo mụ:
- Vậy ta có lột quần áo mụ,
mụ cũng đừng có hận. Không
lột mụ, ta cũng thành ma đói.
Tên người ở nhanh nhẹn lột
hết quần áo mụ già. Thế rồi
giữa khi mụ c̣n đang đeo cứng vào
chân, hắn hung bạo đá phốc mụ
ta lên trên đống xác chết. Từ
chỗ hắn đứng đến cầu
thang chỉ cách có năm bước. Tên người
ở ôm lấy mớ áo quần màu nâu
vỏ dà, lật đật xuống thang
rồi mất hút vào bóng tối.
Trong
Kappa (“Xă hội thủy quái
Kappa”), Akutagawa thác ngụ thế thái nhân t́nh
của thời đại ông vào xă hội
của loài thủy quái. Tác phẩm phản
ánh nỗi buồn và sự chán ghét
cuộc sống của ông.
Guồng máy (Haguruma)
là một thế giới mà nhân vật chính
nh́n thấy qua huyễn ảnh, c̣n “địa
ngục hơn cả địa ngục”. Nó
đánh dấu những ngày tháng cuối cùng
ông sống trong thác loạn thần kinh, có
những câu khiến độc giả
phải rùng ḿnh:
Đó là một kinh nghiệm mà cả
đời tôi chưa hề biết. Tôi
hết sức cầm bút để viết
tiếp nữa rồi. Tôi không thể
sống mà chịu đau khổ như
thế này măi. Có ai đó chịu đợi
tôi ngủ mà bóp cổ giùm cho tôi chết
đi không?
Về sự “thất bại của lư
trí”, chính Akutagawa đă nhận định
như thế này trong
Đời một chú
ngốc (Aru aho no isho):
Hắn giương đôi cánh nhân
tạo ra, tung tăng bay bượn trong
bầu trời. Cùng một lúc, bao nhiêu
niềm vui nỗi buồn của đời
người chan ḥa ánh sáng của lư trí
đang hạ thấp xuống dưới
tầm mắt hắn. Hắn tung những câu
nói mỉa mai và nụ cười chế
nhạo trên các phố phường đang
thu nhỏ lại, bay vút lên ṿm cao không thoáng
gợn về hướng mặt trời, dường
như quên bẳng chuyện người Hy
Lạp [7] ngày xưa, vào lúc đó,
cũng mang đôi cánh nhân tạo bị
mặt trời thiêu cháy và rơi vùn
vụt xuống biển mà chết.
Sau đây là đôi lời ông phát biểu
trong thư tuyệt mệnh gửi cho Kume
Masao, người bạn thân và cũng là văn
hữu trong nhóm Shinshichô.
Tôi chưa
thấy ai viết ra một cách không che
đậy về tâm lư của một người
tự sát. Lư do có thể là người
sắp tự sát c̣n chút ḷng tự
trọng hoặc bản thân họ thấy tâm
lư người ở trong cảnh ngộ
của ḿnh không có ǵ hấp dẫn để
mà t́m hiểu. Tuy vậy, trong lá thư
cuối cùng tôi gửi cho cậu đây, tôi
muốn thuật lại thật rơ ràng tâm lư
ấy, nhưng nếu bảo tôi không đặc
biệt cho cậu biết động cơ
nào đă đẩy tôi đến chỗ
tự sát th́ cũng được. Régnier [8]trong
một truyện ngắn của ông có
lần miêu tả người tự sát. Anh
chàng vai chính trong truyện này cũng
chẳng biết lư do tại sao anh ta
muốn kết liễu đời ḿnh.
Chắc khi cậu giở trang ba mục tin
lặt vặt mấy tờ báo cũng
nhận ra được là có biết bao
nhiêu động cơ có thể thúc đẩy
người ta đến chỗ tự sát,
nào là cuộc sống khó khăn, bệnh
hoạn dày ṿ hay đau khổ tinh thần.
Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, tất
cả những thứ đó chỉ là
một phần của động cơ. Cùng
lắm nó chỉ là những cái mốc
đánh dấu những chặn đường
đưa đến động cơ
ấy mà thôi. Có lẽ người tự sát,
giống như Régnier đă miêu tả, không
biết lư do ǵ đưa anh ta đến
chỗ chết. Nó cũng giống như hành
vi của ta vẫn thường xuất phát
từ nhiều động cơ phức
tạp. Riêng trường hợp của tôi
th́ chỉ là nỗi lo âu mơ hồ. Làm
như có một sự lo lắng bàng
bạc về tương lai. Cậu có
thể không tin lời tôi nói v́ không ai chung
quanh đă sống hoàn cảnh tương
tự của tôi suốt mười năm
qua. V́ thế, dù cậu có coi lời
của tôi đây như tiếng hát tan vào
cơn gió thoảng, tôi sẽ chẳng trách
cậu đâu.
Trong đêm 23 tháng 7 năm 1927, ông đă
b́nh tĩnh uống một lần hai
loại thuốc ngủ trí mạng dù
vợ đă biết trước và canh pḥng
kỹ lưỡng. Thuốc ở đâu ra?
Trong thư để lại, ông cho biết
có một người đàn bà nào đó
mang đến. Thế thôi! Miyamoto Kenji
bảo ông tượng trưng cho “sự
thất trận của văn chương tiểu
tư sản (petit bourgeois)”. Kobayashi Hideo, ngược
lại, ca ngợi mỹ học của ông và
đổ cho định mệnh éo le.
[9]
4. Ảnh hưởng của văn
học ngoại quốc đối với
Akutagawa
Không riêng chi trường hợp của
các nhà văn Meiji (lúc Nhật Bản
mới t́m đến với Tây Phương),
kiến thức Âu Mỹ của một nhà
văn đời Taisho (1912-1926) như
Akutagawa cũng bắt nguồn từ sách
dịch. Kato Shuichi
[10] cho biết
Akutagawa đă dẫn ra trong tác phẩm
của ḿnh hết Strindberg, Nietzsche, Tourguenev,
Tolstoi, Gogol, Dostoevski, Flaubert đến
Baudelaire… từ những bài viết của
họ được dịch qua tiếng Anh
(ông tốt nghiệp đại học khoa
Anh).
Cách miêu
tả của ông cũng có màu sắc
ấn tượng. Cách tả con chồn
trong Cháo khoai giống như cách Prosper
Merimée (1803-70) tả con chó trong Colomba. Cái
mũi (Hana) có lấy ư của tác
phẩm cổ điển Konjaku Monogatari
của Nhật nhưng chủ đề “h́nh
dạng cái mũi đánh mất và t́m
lại được” vốn mượn
truyện cùng tên (1835) của Nicolai V. Gogol
(1809-1852), nhà văn châm biếm người
Nga. Để viết Kappa, ông
phải hiểu biết về cả Jonathan
Swift lẫn Samuel Butler. Kiến thức
của Akutagawa trải rộng từ
Shakespeare cho đến các nhà soạn
kịch Ái Nhĩ Lan, các thi nhân Pháp từ
François Villon đến Paul Valéry. Nhân
vật trong truyện của ông nêu cả tên
Pierre Loti tức sĩ quan hải quân Pháp
Julien Viaud (trong Butokai) lẫn Whilhem
Liebknecht [11], triết gia khuynh hướng
xă hội Đức (trong Gengaku sanbo).
Tuy ông không tiếp xúc trực tiếp
với Âu Mỹ qua kinh nghiệm bản thân
như Ogai (từng sống ở Đức),
Soseki (Anh) hay Kafu (Pháp và Mỹ) nhưng
kiến thức của ông không v́ thế mà
kém phần phong phú. Nó đă pha trộn
với cổ điển Trung Hoa mà ông
nằm ḷng, cũng như văn chương
thời Edo (nhà thơ Basho, nhà tiểu
thuyết Bakin...) ông thường dùng làm
đề tài.
Văn chương ngoại quốc ảnh
hưởng đến nhà văn Nhật
Bản bằng một cách nhiều khi
phức tạp hơn ta tưởng. Bốn
bề bờ bụi
(Yabu no naka, 1925)
của Akutagawa, đă trở thành sườn
của cuốn phim Rashomon bất hủ
của đạo diễn Kurosawa Akira. Ta
đă chỉ biết nó bắt nguồn
từ Konjaku Monogatari (quyển 29,
truyện 23, kể truyện một cặp
vợ chồng nhà quan gặp cướp núi,
sau khi bị cướp làm nhục trước
mặt chồng, vợ lại nẩy ra ư
muốn giết chồng) là một tác
phẩm cổ điển do tác giả vô
danh viết ra vào tiền bán thế kỷ
12, chỉ có mục đích khuyên người
đời nên cẩn thận khi liên hệ
với kẻ khác (v́ người chồng
muốn đổi cây cung của ḿnh để
lấy thanh kiếm của tên cướp nên
bị mắc lỡm). Thế nhưng, có
chứng cứ khác cho thấy rằng khi
viết truyện này, Akutagawa cũng đă mượn
nguồn cảm hứng từ văn học
Tây Phương.
Yasuda Yasuo (theo Tomita Hitoshi [12]) đă
dẫn ra hai tác phẩm Âu Mỹ có thể
liên quan đến nó: vở kịch thơ Chiếc
nhẫn và quyển sách của Browning
(1812-89) và Phục thù của Henry de Régnier
[13]mà Mori Ôgai đă cho đăng
trong Truyện các nước (Shokoku
Monogatari, Chư Quốc Vật Ngữ). Ông
đă so sánh và phân tích từng điểm
giống nhau giữa hai truyện đó
với Yabu no naka. Ngoài ra, vẫn theo
Tomita, Yoshida Seiichi lập ra mối liên
hệ giữa Con đường trăng
sáng (The Moonlight Road) trong tập truyện Sao
xảy ra được nhỉ? (Can
Such Thing Be?) của nhà văn Mỹ Ambroise
Pierce. Trong truyện của Pierce, nhân một
vụ án mạng, ba người trong
cuộc đă tŕnh bày sự việc liên
quan tới họ và cuối cùng, người
vợ là kẻ bị giết đă mượn
lời đồng cốt để tŕnh bày
sự thật về phía ḿnh. Thế nhưng
theo Tomita Hitoshi (sđd, tr. 66) th́ Yabu no naka gần
với Người con gái của bá tước
Ponthieu, một tác phẩm của Pháp
thế kỷ 13 hơn là truyện của
Pierce. Tác phẩm của Pháp kể
truyện con gái của bá tước
Ponthieu, v́ không con nên cùng chồng là Thibaut
đi hành hương ở Santiago bên Tây Ban
Nha để cầu tự, giữa
đường gặp cướp. Thibaut dũng
cảm chống cự nhưng rốt
cục bị trói, chứng kiến cảnh
cướp làm nhục vợ trước
mắt. Khi cướp đi rồi, Thibaut
nhờ vợ cởi trói hộ nhưng
ngạc nhiên thay, lúc đó, vợ lại dùng
thanh kiếm tên cướp bỏ lại
định chém chết chồng. Thibaut khéo
léo tránh và nhờ đó, dây trói trái
lại được cắt đứt.
Thibaut thoát hiểm, lôi vợ xuống núi và
gửi vào tu viện làm ni, một ḿnh
về nước. Bá tước biết
chuyện, nhục nhă quá nên t́m đến
nơi, đóng con gái vào thùng rồi
quẳng xuống biển.
Có một sự t́nh cờ lạ lùng là
Akutagawa đă viết tiểu luận
tốt nghiệp đại học với
nhan đề Nghiên cứu về William
Morris [14]. Thêm một sự trùng
hợp nữa là câu chuyện dịch qua
tiếng Anh của Người con gái
của bá tước Ponthieu đă
được in trong toàn tập của
Morris. Vẫn chưa t́m ra bằng chứng xác
thực xem Akutagawa đă đọc nó trong
đó hay không, nhưng chi tiết “vợ
muốn giết chồng” của truyện
Pháp này trùng hợp với mấu chốt
chính trong truyện kể của Konjaku.
(Xem tiếp phần 2/2)
_________________
Chú thích:
(*)
Xin hiểu “từ A đến R” như
là một sự không trọn vẹn.
(**)
Người viết đặc biệt
cảm ơn các góp ư của Văn Lang Tôn
Thất Phương và Việt Châu.