|
KÊ
KÊ
KÊ DẬU 雞 鷄 鸡 酉
Phạm xuân Hy Nhân có người bạn già vong niên đến chơi
thăm tôi, ngày trời tháng bụt , lại
lún phún mưa rầm, ngồi trong nhà rỉ
rả nói truyện phiếm dông dài, gió trăng
mây nước, lan man
những truyện cà kê dê ngỗng. Con
hổ giấy. Con hổ thật. Con
chồn con cáo. Con chuột con gà. Lại
biết tôi có một dúm chữ nho, anh bèn
lấy bút viết ra mấy chữ dưới
đây :
雞
鷄 鸡 酉
KÊ
KÊ KÊ DẬU Bảo tôi cắt nghĩa và cho biết những
sự tích liên quan đến gà. Bị
hỏi đột ngột, bất ngờ,
nhất thời tôi tỏ ra lúng túng, đỏ
mặt, không biết trả lời bạn tôi
ra sao. Vả, biển học mênh mông,
chữ nghĩa chập chùng, cái vốn
chữ nho của tôi cũng chỉ có giới
hạn, nên không dám nói sằng nói bậy.
Tôi đành khất nợ với bạn. Xin
cho tôi đựợc phép rở sách ra đọc,
và trả lời bạn sau. V́ thế, hôm nay mới có bài viết này. 1-Nghĩa
của bốn chữ kê, kê, kê, dậu
雞 鷄
鸡
酉
KÊ
KÊ KÊ DẬU Ba chữ
雞 鷄
鸡 này
âm Hán Việt đều đọc là "kê",
đều là những chữ đồng âm và
đồng nghĩa, và đều chỉ một
loại gia cầm có khả năng báo hiệu
giờ giấc, mỏ ngắn, phần trên hơi
cong, trên đầu có mào, cánh ngắn, không
thể bay cao được. Tiếng Việt
dịch nghĩa là " Con Gà". Sách
"Thuyết Văn Giải Tự" giải thích
"知 時
畜 也-Tri thời
súc dă ".
Gà là gia súc có khả năng
biết giờ giấc, và báo sáng, nên ngày xưa
gà người ta nuôi gà để báo thức
dậy sớm đi làm. Nhưng ngày nay, đă có
đồng hồ, nên gà
được nuôi để ăn thịt. Tuy nhiên, ba
chữ này có sự khác biệt nhau về cách
tạo tự của chúng. -Chữ 雞.
(Đọc là kê) Theo giáp
cốt văn và kim văn, đây là một
chữ thuộc loại tượng h́nh tự.
Tự h́nh của chữ này rất giống h́nh
một con gà trống, trên có mào, chữ
được cấu tạo bởi hai thành
phần. Thành phần bên trái
gọi là thanh bàng là chữ 奚 (đọc hề), sử
dụng làm thanh phù. Thành phần bên phải h́nh
bàng là chữ 隹 (đọc chuy) sử dụng
làm ư phù. Chuy隹,
theo
sách "Thuyết Văn Giải Tự"
của Hứa Thận đời Đông Hán,
giải thích là từ dùng để gọi chung
loài chim lông đuôi ngắn (短
尾 禽
總 名-Đoản vĩ cầm tổng danh) 2-Chữ 鷄.
(Đọc
là kê) Chữ 鷄 (đọc kê) do diễn biến của chữ 雞 (đọc kê) này thành chữ
h́nh thanh tự. Hai chữ này chỉ khác nhau
ở phần ư phù bên phải, là chữ điểu 鳥 thay chữ
chuy
隹
mà thôi. C̣n thanh phù vẫn giữ nguyên chữ
hề奚,
âm và nghĩa giống nhau. Chữ
điểu鳥,
"Thuyết Văn Giải
Tự" giải thích là loại chim lông đuôi
dài (長尾禽總名-Trường vĩ cầm tổng danh) 3-Chữ
鸡.
(Đọc là kê) Có người
loại suy cho rằng chữ kê 鸡
này mới xuất hiện trên đại lục,
khi nước Cộng Ḥa Nhân Trung Hoa được
thành lập. Thật ra,
đây là chữ thuộc loại giản thể
của chữ kê
鷄 trên , thanh phù bên
trái 奚(đọc
hề ) được giản hóa
bằng chữ 又 (đọc
hựu), c̣n ư phù bên phải 鳥 (đọc điểu
) , được giản hóa thành 鸟 (đọc điểu
), âm và nghĩa như hai chữ kê trên, không
thay đổi. Chữ kê 鸡 này, người
ta đă thấy xuất hiện trong sách "Kim B́nh
Mai Kỳ Thư" và sách "Mục Liên Kư
Đạn Từ " đời nhà Thanh. Đến năm 1932 và năm 1935,
bộ giáo dục công bố bảng"Giản
Thể Tự Biểu", chữ kê giản
thể cũng đă được ghi trong
bảng giản thể biểu đó, tuy nhiên
chỉ giản hóa phần thanh phù thôi, phần ư
phù vẫn giữ nguyên. V́ là giản thể, nên chữ kê 鸡 này không thể phân tích theo như
phương pháp lục thư được. 4-Chữ 酉.
(Đọc
là dậu) Người ta thường nói :" Tôi
tuổi Dậu ", để nói rằng năm
sinh của người đó thuộc năm gà, v́
thế, đôi khi đưa đến sự
lầm lẫn cho rằng dậu 酉,
có nghĩa là gà. Thật ra,
chữ dậu là chữ thuộc loại độc
thể tự. Tự h́nh, là h́nh vẽ
một cái b́nh đựng đầy rượu,
nên nghĩa gốc của dậu 酉
ngày xưa là rượu,
nên chữ tửu 酒 mới
đầu viết là dậu 酉.
Về
sau, theo cách giả tá, dậu mới biểu
thị danh xưng của chi thứ mười
trong mười hai địa chi : Tư, sửu,
dần, măo, th́n, tỵ, ngọ, mùi, thân, Dậu,
tuất hợi. Nhưng tại sao lại dùng con
gà làm tượng trưng của chi dậu,
con chuột là tượng trưng của chi tư,
con chó là tượng trưng của chi tuất v.
v. . . ? Câu hỏi này cho đến nay, các nhà
nghiên cứu văn hóa Trung Hoa, hầu như
vẫn chưa t́m ra câu trả lời rơ rệt,
thỏa đáng. Hoặc chỉ đưa ra
những ức đoán mà không chứng minh
được, và ngay cả các học giả
Trung Hoa cũng không t́m được xuất
xứ của mười hai địa chi trên. Tuy
thế, dầu không biết xuất xứ, nhưng
ảnh hưởng
của mười hai địa chi này, như
một thực tế, ăn sâu vào những suy tư,
sinh hoạt của người Trung Hoa, không
thể chối căi được. Người
Trung Hoa từ hàng
ngh́n năm trước đă dùng mười hai
địa chi phối hợp với mười
thiên can để ghi nhớ ngày, tháng, năm. Ghi
nhớ các sự kiện lịch sử, những
ngày sinh, tháng đẻ, đến ngày tết ngày
giỗ, ngày cưới vợ gả chồng,
cất nhà mở tiệm, đi chơi xuất hành,
nhất nhất cái ǵ cũng được ghi
nhớ bằng thiên can, địa chi cả. Có
khi c̣n đến các thầy bói, các thầy địa
lư, các tử vi gia, để nhờ reo quẻ,
bấm độn cho biết sự tốt xấu
về t́nh duyên, gia đạo, buôn may bán đắt.
Các thầy bói, các thầy tử vi, các chiêm tinh
gia, hàng ngày vẫn phải lẩm bẩm nhắc
tên từng thuộc tướng tư, sửu,
dần, măo, th́n, th́n, tỵ, ngọ, mùi, thân,
dậu, tuất, hợi. . . để thỏa măn
những câu hỏi của khách hàng. Đây thật là một điều
kỳ lạ khó hiểu trong một văn minh rực
rỡ lâu đời như nền văn minh Trung
Quốc. Nhưng thôi, tôi xin gác vấn đề
này sang một bên, để dịp khác. Và xin trở lại với đề tài
về gà. 2-Những từ ngữ chữ Hán dùng
để chỉ gà. Như trên đă tŕnh bầy, chữ
dậu không có nghĩa là con gà. nhưng trong
những thư tịch và văn
thơ cổ điển Trung Hoa , người
ta thường gặp những từ ngữ sau
đây để chỉ con gà : -Song cầm 窗 禽 : Theo sách "Nghệ Văn Loại
Tụ" th́ :"Thứ sử Duyện Châu
đời Tấn, tên là Tống Xứ Tông, người
Bái Quốc, từng mua được một con gà,
có tiếng gáy rất dài, nên Xử Tông rất
lấy làm yêu quư, nuôi dưỡng rất cẩn
thận, thường để lồng gà ở bên
cửa sổ. Gà bèn dùng tiếng người
đàm luận với Xử Tông, rất là
biện bác, suốt ngày không ngừng. Nhờ
thế mà tài hùng biện của Xử Tông
tiến rất xa. Sau này, hậu thế dùng
từ ngữ "Song cầm" để
chỉ gà. - Kim cầm 金
禽 : Theo thuyết ngũ hành,
cổ nhân cho rằng gà thuộc kim, v́ thế
gọi gà là kim cầm. -Tốn vũ 巽
羽 : Trong Kinh Dịch, quẻ
tốn 巽 chỉ con gà. Gà thuộc
loại vũ trùng, v́ thế gọi gà là tốn
vũ. Như Ban Cố, tác giả Hán Thư,
từng dùng hai chữ tốn vũ để
chỉ gà " 巽羽化于宣宮兮-Tốn
vũ hóa vu Tuyên Cung hề" -Thời dạ 時
夜 : Gà có khả năng coi đêm
tối, v́ thế gọi gà là "thời
dạ". Thời, có nghĩa là chưởng
quản, trông coi . Trong sách "Trang Tử -Tề
Vật Luận " có câu " Kiến noăn nhi
cầu thời dạ 見卵而求時夜 " Có nghĩa là "Thấy
trứng th́ muốn có
gà ". -Chúc dạ 燭
夜 : Gà có khả năng coi đêm,
và quan sát trời sáng, v́ thế nên gọi gà là
chúc dạ. Chúc 燭
có nghĩa là quan sát, xem xét cho rơ. 3-Những từ ngữ có liên quan đến
chữ kê. Liên quan đến chữ kê, hán tự
có rất nhiều từ ngữ, thành ngữ, và
điển cố. Như trên đă tŕnh bầy,
chữ kê 雞
vốn là loại chữ tượng h́nh. Đó
là h́nh vẽ của một con gà trống, nhưng
các tự điển chữ Hán, hay Hán Việt
từ điển, chỉ giải thích chữ kê
có nghĩa là gà. Muốn nỏi rơ gà trống th́
phải gọi là "công kê " 公
雞,
gà mái là "mẫu kê" 母雞.
Nhưng cũng có những
từ ngữ có chữ kê , lại chỉ một
vật khác, hay ám chỉ một nghề nghiệp
khác như. Như chữ dă kê "野雞, ngoài cái nghĩa chỉ
loại chim trĩ ở ngoài đồng ruộng,
ngày xưa c̣n dùng hai chữ này để ám
chỉ những cô gái mại dâm, đứng
ở ngoài đường, lôi kéo khách về nhà.
Tôi không rơ thành ngữ "mèo mả gà đồng"
của ta, trong đó hai chữ "gà đồng"
có phải do ư từ chữ "dă kê"
này mà ra chăng ?Hay do chữ "điền
kê 田雞
mà ra? Dưới đây xin cử ra một vài
thành ngữ khác. -Kê
công xa 雞公車.
Kê công xa là tên gọi loại xe một
bánh, do vợ
Gia Cát Lượng
là Hoàng Nguyệt Anh nghĩ chế tạo ra. Nguyên
vào thời Tam Quốc, Lưu Bị sau khi mượn
được đất
Kinh Châu, nhưng lương thực không đủ
dùng, mới sai Gia Cát Lượng t́m cách khai
khẩn trồng trọt. Kinh Châu lại là vùng
đất có nhiều hồ, v́ thế muốn
khai khẩn th́ phải đào đất làm đê
để ngăn nạn lụt. Gia Cát Lượng
thấy sĩ tốt lao lụy người
cuốc người vác, vất vả, công
việc chậm chạp mà lại cực nhọc
vất vả, muốn dùng chiến xa để
chuyên trở th́ không được, mà mùa nước
lũ sắp tới. Về nhà Gia Cát Lượng
thở vắn thở dài, chưa nghĩ ra
biện pháp. Người vợ là Hoàng Nguyệt
Anh thấy vậy mới hỏi nguyên cớ, Gia Cát
Lượng đem sự việc kể lại cho
vợ nghe. Người vợ chỉ cười.
Gia Cát Lượng biết vợ đà t́m ra
biện pháp, bèn khom người vái vợ mấy
vái xin chỉ giúp. Người vợ mới nói :
"Tối nay thiếp sẽ thiết kế làm
một chiếc xe nhỏ, khi gà kêu đến
lần thứ ba sẽ giao hàng cho tướng công" Gia Cát Lượng
đứng chờ ở ngoài cửa , khi gà gáy
đến lần thứ hai, ông sốt ruột,
đẩy cửa bước vào pḥng của
vợ, th́ thấy người vợ đă hoàn
thành xong một chiếc xe nhỏ, có một bánh,
khi đẩy xe lên , th́ xe phát ra tiếng kêu cot
ket như cục tác, lại hoàn thành trước
cả dự định một tiếng gà, nên
mới đặt tên là " kê công xa". Nhờ
loại xe mới sáng chế nầy, mà công
việc vận chuyển đất để
đắp đê được nhanh chóng và
bớt vất vả hơn, giúp cho việc
khẩn hoang của Lưu Bị được
mở rộng và phát triển thêm, có đủ lương
thực để chống lại với phe
Ngụy và Ngô. - Kê
gian 雞
姦.
Chỉ việc con trai hành dâm với con
trai. Ngày xưa đó là một tội danh bị
phạt xử tử, và bị coi là một
tội hèn hạ, xỉ nhục, mất đạo
đức. Tức như bây giờ thường
gọi là bệnh đồng tỉnh luyến ái.
Bê đê. Trên thực tế bệnh kê gian,
bệnh háo nam sắc này xuất hiện đă
từ lâu đời. Nước Tầu, từ
khi Tần thống nhất cho đến nhà Măn
Thanh bị lật đổ, kéo dài 2133 năm,
gồm 564 vị hoàng đế, không thiếu
những ông vua anh hùng, tài trí thao lược, nhưng
lại mắc bệnh "kê gian", hiếu nam
sắc. Tần Thủy Hoàng có gă Triệu Cao xinh
đẹp mà gian ác. Triều nhà Hán, Hán Cao
Tổ Lưu Bang có chàng Tịch Nhũ thanh tú linh
lợi. Văn Đế Lưu Hằng có chàng
Đặng Thông xuất thân bần hàn, sống
bằng nghề lái đ̣ , nhưng nhờ khuôn
mặt đẹp như trăng, nước da
trắng như ngọc ngà mà được vua yêu. Vơ Đế Lưu
Triệt có nam sủng là Hàn Yên và Lư Diên Niên.
Vua Ai Đế đời Hậu Hán có Đổng
Hiển. Ai Đế say mê Đổng Hiền, thường
cho Hiền cùng ăn cùng ngủ. Có lần vua cho
Hiền ngủ trên tay áo của ḿnh, vua muốn
đứng dậy, nhưng
thấy Hiền c̣n chưa
tỉnh, không nỡ đánh Hiền thức
dậy, bèn dùng dao cắt đứt tay áo của
ḿnh, để cho Hiền ngủ yên. Thành ngữ
"Đoạn tụ 斷袖 -Cắt tay áo" thường được
sử dụng trong thơ văn cổ điển
để chỉ bệnh háo nam sắc của các
bậc đế vương. Háo nam sắc
đối với các ông vua, không phải là
một thứ t́nh cảm bẩm sinh, chẳng qua
chỉ là một món ăn chơi "nghiệp dư",
khi đă là "thiên tử-con trời",
muốn ǵ được nấy. Bằng cớ là
các vị thiên tử này vẫn v́ nữ sắc
mà bị mất thiên hạ . -Kê
đầu nhục 雞 頭
肉.
Nếu hiểu theo nghĩa là
"miếng thịt đầu gà" th́ không
đúng. "Kê đầu nhục" có nghĩa
là đầu vú của phụ nữ. Nhân v́
Đường Minh Hoàng là một ông vua bay bướm
đa tài lẫn đa t́nh. Một hôm vua thấy
Dương Qúy Phi tắm xong, đứng soi gương,
để lộ một đầu vú ra khỏi áo,
vua bèn lấy tay vân vê sờ lẩn, rồi
bảo với Dương Quư Phí rằng
:"Nhuyền ôn tân bác kê đầu nhục -軟溫 新
剝 雞
肉 . Mềm mại êm ấm như
thịt đầu gà mới bóc. Nhưng đầu
gà th́ chỉ toàn xương thôi, làm sao mà
mềm mại êm ấm được. Chẳng
qua là một cách nói văn hoa, ẩn dụ cho
đẹp, thay v́ nói toạc móng heo, một càch
sỗ sàng là cái đầu vú. Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai Chí Dị,
truyện Liên Tỏa, cũng dùng từ ngữ này
một cách khéo léo. Ông viết :"戲 以
手 探
胸 則 雞 頭 之 肉
依 然 處 子-Hí dĩ thủ thám hung, tắc kê đầu
chi nhục, y nhiên xử tử. -Đùa lấy tay
lần sâu vào bụng nàng, thấy đầu vú,
y nhiên c̣n là trinh nữ . " Cổ nhân dùng chữ quả thật nhiêu
khê, rắc rối. Ngoài "kê đầu nhục", trong
Hán ngữ c̣n có từ ngữ "Kê đầu
cẩu huyết -Đầu gà máu chó". -Kê đầu cẩu huyết 雞
頭 狗
血-Đầu gà mấu chó. Cổ xưa, người Trung Hoa cho
rằng gà và chó là những con vật có
nguồn gốc thần bí, khác những gia súc khác.
Gà là do Ngọc Hành Tinh tan ra mà thành. Chó là do
Đẩu Tinh mà sinh ra, nên người Trung Hoa
xử dụng một số bộ phận nào
đó của gà để làm pháp bảo phù chú,
như đầu gà máu chó. Họ tin rằng dùng
máu gà , máu chó có thể tịch tà, diệt
trừ được những điều bất
tường, xui sẻo. Theo sách Sử Kư của Tư Mă Thiên,
việc sử dụng máu chó, máu gà
bôi vào cửa để giải trừ
những thế lực "tà ma", hoặc phá
những "yêu thuật" gian ác
của kẻ thù. Đó là một hiện tượng
đă có từ đời Tần Thủy Hoàng. Tập tục chém đầu gà treo
ở trước cửa vào đêm giao thừa
để trợ trường sinh và giúp ích cho
việc trồng trọt, cấy cầy của nhà
nông cũng là một hiện tượng phổ
biến ở Trung Hoa trước cuộc Cách
Mạng Tân Hợi. Ngoài ra, người Tầu c̣n dùng xương
gà, gan gà, mỏ gà, trứng gà để bói
toán, dự đoán cát hung, may rủi. Để chấm dứt bài này, tôi
xin thuật lại sự tích "Kê cân 雞筋 -gân gà " dưới đây.
-Kê cân 雞
筋 hay kê lặc 雞
肋.
Gân gà hay xương gà ? Hồi c̣n nhỏ, tôi ham đọc
"Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa", tôi cố
để dành tiền mua được một
bản dịch truyện này, do nhà in Phúc Chi
ấn hành, nhưng lại không ghi tên người
dịch. Nguyên danh là Tam Quốc Chí Thông Tục
Diễn Nghĩa, La Quán Trung đă dựa vào Tam
Quốc Chí của Trần Thọ, đời
Tấn mà soạn ra, được các nhà phê b́nh
văn học Trung Hoa coi là đệ nhất tài
tử thư. La Quán Trung đă vẽ lại cho người
đọc thấy cuộc đấu tranh quân
sự giữa các sứ quân cát cứ, và t́nh h́nh
chính trị phức tạp kéo dài hơn nửa
thế kỷ trong thời kỳ Hán mạt-Tam
Quốc. Toàn truyện có nhiều chi tiết có
thật rút từ chính sử ra, và có khoảng
1191 nhân vật, rất khó mà nhớ hết.
Nhiều thành ngữ của Trung Quốc cũng
được rút ra từ bộ truyện này, như
"Qúa Ngũ Quan Trảm Lục Tướng- 過 五
關 斬
六 將",
"Vọng Mai Chỉ Khát -望 梅
止 渴
", "Thất Bộ Thành Thi -七
步 成
詩", "Tam Cố Thảo Lư
-三 顧
草 蘆",
Dương Tu Kê Lặc揚 修
雞 肋".
Dương Tu vốn là mưư sĩ
của Tào Tháo, con của Dương Bưu, người
Hoằng Nông Hoa Âm, nổi tiếng là một người
tài tư mẫn tiệp, học rộng biết
nhiều, nhưng thường ỷ tài,
nhiều lần mạo phạm vào những điều
cấm kỵ của Tào Tháo, lại thêm đứng
về phe Tào Thực trong cuộc tranh dành ngôi báu
với Tào Phi, càng khiến Tháo ghét thêm. Năm Kiến An nhị thập tứ niên,
tức năm 219 Công Nguyên, Tào Tháo với Lưu
Bị tranh nhau đất Hán Trung. Tào Tháo đánh
nhiều trận không thắng, lại mất viên
mănh tướng Hạ Hầu Uyên, nên Tháo có ư
muốn rút quân, nhưng trù trừ chưa
quyết định. Giữa lúc đó , bộ
hạ của Tháo là Hạ Hầu Đôn vào trong
trướng xin hiệu lệnh ban đêm . Tháo nh́n
thấy trong bát thang đang ăn của ḿnh
c̣n có cái "gân gà" chưa ăn, bèn
thuận miệng nói :"Gân gà ! Gân Gà ". Đôn ra ngoài truyền lệnh cho các
quan quân bảo là "Gân gà". Hành Quân Chủ Bạ Dương Tu nghe
thấy hai chữ "Gân gà", bèn bảo cho quân
sĩ của ḿnh
sửa soạn hành trang để đi về. Có
người đến báo cho Hạ Hầu Đôn
biết. Đôn giật ḿnh kinh sợ, cho mời
Tu vào trong trướng của ḿnh, và hỏi : -Tại sao ông lại thâu thập hành
trang vậy ? Tu đáp : -Theo như hiệu lệnh đêm nay là
biết Ngụy Vương sớm muộn ǵ cũng
rút quân về. "Gân gà " ăn vào th́ không
có thịt, mà bỏ đi th́ c̣n mùi vị. Nay ta
tiến th́ không thể thắng, c̣n lùi th́
sợ địch quân chê cười. Trong hoàn
cảnh vô ích như thế, chi bằng rút về.
Tương lai, Ngụy Vương thế nào cũng
ban sư đấy, v́ thế tôi thâu thập hành
trang trước, tránh khỏi bị hỗn
loạn lúc lâm hành. Ngụy Vương tức Tào Tháo, các
cận thần của Tháo đều tôn xưng
Tháo là Ngụy Vương. Đôn nghe nói thế, bảo: -Ông thật là người biết
hết gan ruột của Ngụy Vương đấy
! Rồi cũng cho lính thâu thập hành
trang. Thế là các tướng trong doanh
trại của quân Ngụy, chẳng ai là không
chuẩn bị để rút về. Đêm đó, Tào Tháo thấy trong ḷng
bồn chồn rối loạn, ngủ không
yên, bèn sách cương phủ đi một
ṿng quanh trại. Chỉ thấy quân sĩ trong
trại của Hạ Hầu Đôn ai nấy
đều chuẩn bị hành trang. Tháo đâm
hoảng, vội vă trở về trong trướng,
gọi Hạ Hầu Đôn lên hỏi. Đôn thưa : - Chủ Bạ Dương Đức
Tổ biết trước được ư
muốn trở về của Đại Vương
! Đức Tổ là tên chữ của Tu.
Tháo cho gọi Tu lên hỏi. Tu lấy ư
của hai chữ "Gân gà " ra giải thích.
Tháo giận quá, nói : -Nhà ngươi dám tạo ngôn, làm
loạn quân tâm à ! Rổi hét đao phủ thủ lôi Tu ra
chém đầu treo ở ngoài cửa hiên môn. Sự tích trên đây, tôi đă
dịch từ nguyên bản chữ Hán sách Tam
Quốc Diễn Nghĩa, hồi thứ bẩy mươi,
sách do Minh Lương Thư Cục ở Hương
Cảng phát hành. Đến đây
tôi xin mở một dấu ngoặc. Vốn trong
nguyên truyện bằng chữ Hán, không
hề có chữ "kê cân 雞 筋"
mà chỉ có chữ "kê lặc 雞
肋". Câu trong nguyên truyện viết là :
適 庖
官 進
雞 湯,
操 見
碗 中
有 鶵
肋, 因
而 有
感 於
懷 , 正
沈 吟
間 夏
侯 惇
入 帳
稟 請
夜 間
口 號
. 操 隨
口曰:雞 肋!雞 肋. 惇傳令眾官都稱『雞
肋. 』 (Dịch âm : Thích bào quan tiến kê thang
Tháo kiến oản trung hữu sồ lặc nhân
nhi hữu cảm ư hoài Chính trầm ngâm gian
Hạ Hầu Đôn nhập trướng bẩm
thỉnh dạ gian khẩu hiệu. Tháo tùy
khẩu viết "Kê lặc ! Kê lặc !"
Đôn truyền lệnh chúng quan đô xưng
"Kê lặc ". ) Trong nguyên bản rơ ràng là chữ
kê lặc 雞
肋 chứ không phải chữ kê
cân 雞 筋.
Chữ
lặc 肋 có nghĩa là xương, c̣n cân
筋 mới có nghĩa là gân, hai
chữ chỉ hơi giống nhau. Nh́n vội
dễ có thể đọc nhầm. Nhưng
sở dĩ tôi vẫn dịch là "gân gà",
không câu nệ phải dịch đúng nghĩa là
"xương gà", một phần v́ thương
tiếc hai chữ "gân gà", mà tôi cho là
tuyệt cú mèo và thích hợp với văn
cảnh và ư của cốt truyện , mà người
dịch giả vô danh đă
cố t́nh sử dụng một cách khéo léo,
thần t́nh. Hai nữa, cũng để hoài
cảm bộ sách cũ, tôi đă cố
để dành tiền mua được, rồi
giữ ǵn, bảo quản, đóng b́a mạ gáy,
mang theo khi vào Nam, sau 1975 bị nạn phần
thư, chung một kiếp bạc mệnh, không
c̣n nữa. Ôi !Cái t́nh " Trung thư hữu
nữ nhan như ngọc 中 書
有 女
顏 如
玉". Là thế đấy. Cố nhân hề cố nhân. Năm thân sắp qua, năm dậu
sắp lại, con khỉ đi con gà đến,
gọi là có dúm chữ nho, trả
món nợ cuối năm, và để tạ
cái t́nh của người bạn vong niên, anh
đến thăm em một chiều mưa, chẳng
có ǵ đăi đằng, ngoài tách trà "đinh"
đắng chát.
____________________________________________ |