|
Ashikari Tác
giả: Tanizaki Jun. ichirô (1886-1965)
Lời Người Dịch:
Từ năm 1923, sau trận động đất lớn ở Tôkyô và miền Đông, Tanizaki về sống ở miền Tây nên phần sau của văn nghiệp ông có nhiều tác phẩm liên quan đến vùng Kyôto - Ôsaka, trong đó phải kể đến Tuyết mịn (Sasameyuki, 1942-1947), Góp nhặt truyện cô Cầm (Shunkinshô, 1933) và dĩ nhiên, Người cắt lau (Ashikari, 1932). Trong một buổi mạn đàm văn học khoảng thời gian nhà xuất bản Chuô Kôron cho ra đời tuyển tập của Tanizaki, Mishima Yukio đă đồng ư với ư kiến của Donald Keene khi nhà nghiên cứu và dịch giả người Mỹ lập luận rằng trong Người Cắt Lau không phải chỉ có một truyện mà là hai truyện lồng làm một khi Tanizaki với chủ đích viếng thăm đền Minase nơi thờ thái thượng hoàng Gotoba (1180-1239), đă t́nh cờ biết được sự tích của người con gái hiện đại đẹp như một nữ thần tên là O-Yuu. Theo Keene, lối hành văn trong truyện này cũng giống cách Prosper Mérimée (1803-1870) viết Carmen. Nhân đi t́m những phế tích La Mă c̣n sót lại ở Tây Ban Nha mà nhà văn và nhà khảo cổ Pháp mới nghe nói đến bi kịch ái t́nh giữa Don Jose và Carmen. Có điều tuy cũng uyên bác như Mérimée nhưng thủ pháp của Tanizaki tinh xảo hơn. Trước khung cảnh hoang vu của ly cung Minase, với một giọng văn hoa lệ pha đôi chút khinh bạc, ông đă sử dụng điển cố thi văn Trung Quốc và Nhật Bản để làm sống lại được cái thế giới phong lưu của một thời đă qua. Nhân vật người cắt lau không phải là vai chính. Ông ta chỉ ḍm trộm quá khứ qua lỗ khoá và khoác lác với đời sau. Nhưng tại sao ông ta lại đội lốt người cắt lau ? Phải chăng ông là hậu thân của người đàn ông lưu lạc trong truyện dân gian, cắt lau bán độ nhật, sau được đoàn tụ với vợ ḿnh trong tác phẩm cổ điển Yamato Monogatari (do tác giả vô danh thu góp, ra đời khoảng thế kỷ thứ 10) ? Hay là một h́nh tượng dân dă cùng một loại với ông tiều, nhà sư tu trên núi, người múc nước triều làm muối ... thấy trong waka giúp cho bài thơ có một bối cảnh nhiều phong vị ? Hoặc chỉ là hồn ma trong tuồng Nô kể cho thầy tăng vân du sự tích trong vùng thầy ta đang đi qua? Người cắt lau đó cũng có thể là Tanizaki-lữ-khách, tưởng gặp một hồn ma nhưng rốt cuộc gặp chính bóng của ḿnh. O-Yuu (cô Du) trong phần thứ hai của câu truyện, một người có nhan sắc lộng lẫy kiêu kỳ mà nhân vật nam không với tới được, nhân vật nữ cũng phải tôn thờ, có phải là h́nh bóng nối tiếp trong chiều sâu lịch sử những cô gái làng chơi (du nữ) được thần thánh hóa như bồ tát trong phần đầu hay không ? Hoặc nàng là hóa thân của Kaguya-hime, cô tiên trên cung trăng bị đọa xuống trần làm con lăo tiều đốn trúc trong cổ tích Taketori Monogatari (1) của Nhật Bản? Đó cũng là một câu hỏi thú vị v́ nó liên quan đến khuynh hướng sùng bái nhan sắc phụ nữ thấy qua văn chương Tanizaki. Nguyên tác Ashikari rút từ Tuyển tập Văn Học Nhật Bản (Nihon no Bungaku), quyển thứ ba trong ba quyển dành cho Tanizaki Jun. ichirô (các quyển 23,24 và 25) mà nhà Chuuô Kôron phát hành năm 1967. Người dịch đă tham khảo Le Coupeur de Roseaux, bản dịch Ashikari sang Pháp văn của Daniel Struve, Gallimard, 1997 để học hỏi lối dịch. Văn Tanizaki trong truyện nầy cũng như bao truyện khác, lê thê, lập đi lập lại, lè nhè một cách cố t́nh, không câu nệ lối chấm câu ngắt đoạn và lược hết chữ Hán nên rất khó hiểu (nhưng phải chăng đó cũng là cái duyên dáng của thuật kể truyện như " ông già bà cả " theo phong cách Tanizaki ?). ***
Đó là chuyện xảy ra vào tháng chín một năm hồi tôi c̣n sống ở vùng Okamoto (2). Thấy trời quá đẹp, khoảng chiều chiều, nói là chiều chứ lúc ấy vừa mới hơn ba giờ thôi, tôi bất đồ thèm đi dạo mát một ṿng trong vùng. Đi xa đă không đủ thời giờ mà đi gần lại toàn những chỗ tôi viếng hết rồi. Sau khi đắn đo suy nghĩ không biết có chỗ nào thả bộ được hai ba tiếng đồng hồ, lại phải là một nơi thiên hạ quên lăng mà cả tôi lẫn người khác nếu không chịu nghĩ một chút sẽ t́m không ra th́ mới được, tôi chợt nhớ ít lâu nay ḿnh đă nuôi ư định viếng đền Minase mà chưa bao giờ có dịp. Đền Minase được cất lại trên nền cũ ly cung của thái thượng hoàng Gotoba (3) nơi được nhắc tới trong chương "Vùi trong cỏ gai" của bộ sử truyện Masu-kagami (4) như thế này: "Thái thượng
hoàng thường ngự ở các cung Toba hay
Shirakawa ngài đă cho sửa chữa nhưng c̣n xây
thêm một ly cung c̣n trang nhă hơn ở một nơi
tên gọi Minase (5) mà
xa giá đến thường xuyên. Người
đời ai cũng biết rằng ngài đến
đây để di dưỡng tính t́nh, ngắm
hoa đào mùa xuân, lá hồng mùa thu, tiêu dao ngày
tháng. Đặc biệt từ ngự sở có
thể ngắm cảnh ḍng sông đang chảy ngoài
xa. Một ngày trong năm Genkyuu (1204-1206), nhân
họp mặt b́nh thơ, thái thượng hoàng
đă gieo những vần như sau: Trên đây là sự tích mà sách sử ghi chép về dấu vết cung điện của thái thượng hoàng Gotoba. Ngày xưa, khi tôi vừa biết đọc Masu-kagami th́ câu chuyện về cung Minase luôn luôn ám ảnh tâm trí. Từ xa ngắm ḍng sông Minase dâng sương trùm chân núi và hỏi ḍng sông sao lại chuộng buổi chiều thu! Tôi thích cái tâm t́nh thái thượng hoàng đă thổ lộ qua thơ. Thơ ngài làm, biết bao nhiêu bài tôi vẫn khắc ghi trong tâm khảm, ví dụ khi ngài vịnh về bến Akashi có câu "Thuyền câu chèo vào sươngmù" hay trong thời gian ngài bị đày ngoài đảo Oki "Ta bỗng thành ra người gác đảo". Tuy nhiên, riêng lúc đọc bài thơ này, tôi thấy phong cảnh vừa bùi ngùi vừa ấm áp của một dài sông phía thượng nguồn Minase trở về trước mắt như một vật xa cách lâu ngày. Thuở ấy tôi chưa rành địa lư vùng Kansai nên chỉ phỏng đoán cung Minase tọa lạc ở một chỗ nào đó gần Kyoto. Thật t́nh lúc đó tôi cũng chẳng để tâm xem thực sự nó ở đâu nữa. Gần đây thôi, mới nghe nói nó nằm bên bờ sông Yodo, cách nhà ga Yamazaki có vài trăm mét, không xa chỗ giáp ranh giữa hai xứ Settsu và Yamashiro, và ngày nay, trên dấu vết cung xưa, người ta đă xây thêm ngôi đền thần đạo để cúng tế thái thượng hoàng Gotoba. Như thế, một cuộc viếng thăm đền Minase là chương tŕnh vừa vặn cho cuộc dạo mát cuối ngày như thế nầy. Đoạn đường đến Yamazaki, ngay đi xe lửa cũng không mất bao nhiêu thời giờ nhưng tốt hơn nên đáp xe điện Hankyu rồi đổi qua đường mới Shin-Keihan. Thế rồi, nhân hôm ấy đúng rằm tháng tám, trên đường về tôi nghĩ thế nào ḿnh cũng phải ghé ngắm trăng bên bờ ḍng Yodo. Ư đă quyết và bởi v́ nơi đó không phải là chỗ đem theo đàn bà c̣n nít, tôi bèn lên đường mà không báo ai hay. Yamazaki thuộc quận Otokuni trong xứ Yamashiro, nền cố cung Minase lại thuộc quận Mishima xứ Settsu. Nếu đi từ Osaka, tốt hơn nên lấy đường mới Shin-Keihan xuống ga Ô-Yamazaki, rồi đi ngược lại và vượt qua lằn ranh hai vùng trước khi đến được cố cung. Tôi chỉ biết về Yamazaki nhờ có một dịp nào đó đă ghé khu chung quanh nhà ga xe lửa liên tỉnh và hôm nay mới là lần đầu tiên tôi thử đi dạo dọc theo đường quốc lộ về phía tây. Đi được một đỗi, con đường chẻ làm hai nhánh. Lối bên tay mặt có một tấm cột đá chỉ đường nom đă xưa cũ . Đó là con đường đi từ sông Akuta đến Itami băng qua Ikeda. Nếu ta c̣n nhớ sự tích ghi chép lại trong tập kư sự chiến tranh Shinchôki (7), vùng này và ven tuyến đường nối Itami, Akutagawa và Yamazaki chính là nơi các danh tướng thời Chiến Quốc như Araki Murashige và Ikeda Shô. nyuusai đă để lại những chiến công hiển hách. Có lẽ ngày xưa nó là tuyến đường chính cũng nên. Con đường nương theo ḍng sông Yodo này có thể tiện lợi cho những người dùng thuyền nhưng v́ nó xuyên qua nhiều vàm sông hoặc đầm lầy lau sậy mọc tràn, có thể gây bất tiện cho khách bộ hành. Nhân đó tôi cũng biết thêm một số chuyện như bến đ̣ Eguchi (8) ngày xưa, nay nằm ngay chỗ bên cạnh đường xe lửa vừa đưa tôi đến đây. Bây giờ, Eguchi đă ở trong khuôn vi của Ôsaka mở rộng; c̣n Yamazaki th́ kể từ năm ngoái, khi diện tích Kyôto nới ra, nó đă được sáp nhập vào thành phố nầy. Tuy nhiên v́ khí hậu và phong thổ của hai vùng Kyôto và Ôsaka không được đồng nhất như vùng Hanshin (Ôsaka và Kobe), và có lẽ những khu biệt thự cây xanh và khu gia cư hiện đại khó ḷng lan rộng măi nên Yamazaki may ra giữ được khung cảnh đồng quê thêm ít lâu nữa. Đọc truyện Chuujingura(9) c̣n thấy thời ấy tả cảnh lợn rừng và cướp núi vẫn lảng vảng gần đường cái làm người ta có thể nghĩ rằng ngày xưa nơi đó c̣n rùng rợn hơn nhiều. Ngay bây giờ, đối với hành khách sử dụng đường xe điện Hankyuu vốn đă quen mắt với phố phường thôn xóm hiện đại, h́nh ảnh những ngôi nhà mái rạ xếp thành hàng hai bên đường là khung cảnh thuộc về một đời nào đâu. Theo sách Ô-kagami(10) ghi lại, cũng ở nơi này, ngài Kitano Tenjin tức đại thần Sugawara no Michizane trên bước đường lưu đày, đă qui y cửa Phật và viết bài thơ bất hủ: "Ngọn cây nhà em ở đâu?. Bước đi mỗi bước ngoái đầu ta trông". Theo cuốn sử truyện, Michizane buồn phiền cay đắng v́ người ta kết cho ông cái tội mà ông không hề phạm, nên trở thành tăng ở Yamazaki. Nếu thế th́ trên mảnh đất này xửa xưa đă có đường giao thông dịch trạm và nơi đây phải chăng là một trạm xá cái hồi kinh đô Heian vừa mới xây xong. Tôi vừa suy nghĩ như thế vừa quan sát từng căn nhà một mà những mái hiên tối âm thầm như c̣n phảng phất không khí của những thời đại đă đi qua. Muốn đi đến nền cũ cố cung, phải băng qua một cây cầu bắc ngang ḍng sông có lẽ là con sông Minase, xong lội bộ thêm chút nữa ra đến đường lớn rồi quẹo trái. Ngày nay ở đó nhà nước đă bỏ tiền xây một đền thần bậc trung để tế lễ các thiên hoàng Gotoba, Tsuchimikado và Juntoku, ba vị nầy đă chịu chung vận mệnh hẩm hiu (11) sau cuộc loạn năm Jokyuu (1221). Đối với một vùng như ở đây vốn có nhiều đền thần và chùa chiền nguy nga đẹp đẽ th́ cái đền bậc trung kia lẫn cảnh vườn của nó không có ǵ đáng kể. Chỉ v́ nhớ lời thuật lại trong sách Masu-kagami vừa mới nói tới mà ḷng tôi bồi hồi khi tưởng như nh́n được qua từng phiến đá cành cây cảnh tượng những cuộc yến ẩm vui chơi theo bốn mùa của giới quyền quí Kamakura thuở đó. Sau khi ngồi xuống vệ đường để hút một điếu thuốc, tôi bắt đầu lững thững đi qua đi lại trong khu vườn không mấy rộng của ngôi đền. Mảnh vườn chỉ cách con đường một khoảng ngắn và nấp đằng sau mấy túp nhà dân thưa thớt có những hàng dậu điểm đủ loại hoa mùa thu bao bọc. Nó thụt vào giống như cái túi con, yên tĩnh và khuất mắt người qua lại. Thế nhưng xưa kia cung điện của thái thượng hoàng Gotoba hẳn không chỉ giới hạn trong mảnh đất chật hẹp nầy mà phải trải ra đến tận bờ sông Minase đằng kia, nơi tôi vừa băng qua. Có lẽ khi nh́n mặt sông từ trên lầu cao xây bên bờ nước hay lúc đi dạo thẩn thơ trong khu vườn, thái thượng hoàng đă t́m ra nguồn thi hứng mà ngài đă đưa vào trong câu: "Dâng sương chân núi xa mờ âm u". Masu-kagami cũng ghi lại: "Một ngày mùa hè, thái thượng hoàng ngự ở đ́nh câu cá trong điện Minase. Lúc ấy ngài giải khát bằng nước mát và hạ lệnh đem một loại như cơm ướp lạnh ban cho bọn công khanh trẻ tuổi đi theo. Sau đó, khi uống rượu, ngài mới phán: "Ôi chao, cái bà Murasaki Shikibu (12) xưa kia, đáng nể thật. C̣n ǵ thú vị hơn khi biết được rằng trong Truyện Genji, bà ghi lại là bữa cơm của ông hoàng Genji có món cá hương ayu đánh được từ con sông bên cạnh hay những con cá trê loại ishibushi từ Nishiyama đem đến tiến. Phải chi ngày nay ta có thể thưởng thức những món ấy". Lúc ấy có một kẻ tên gọi Hata trong bọn tùy tùng đang đứng dưới bao lơn, không xa ngài bao nhiêu, nghe những lời đó mới hái mấy lá tre mọc bên bờ đầm, đặt lên đó ít cơm trắng đă dầm trong nước sông dâng lên ngài. Thái thượng hoàng bảo : " Trong Truyện Genji có chỗ chép "Như hạt mưa đá trên tấm lá tre. Vội tan biến khi tay ta chạm đến". Làm như ngươi cũng là một cung cách vượt người thường " Rồi ngài cởi ngự bào trao cho kẻ tùy tùng ấy và uống thêm mấy chung rượu nữa ". Khi nhớ đến đoạn văn nầy, người ta tưởng tượng là ngày trước, cái đầm có đ́nh câu cá có thể ăn thông với ḍng sông bằng lối nào đó. Hơn thế, ḍng sông Yodo phải chăng chảy đằng sau điện thờ và về hướng Nam, ở chỗ chỉ cách xa chốn nầy khoảng vài trăm mét. Từ nơi tôi đứng bây giờ, không thể nào nh́n thấy ḍng nước. Bên kia bờ, ngôi đền Hachiman và ngọn Otokoyama tṛn trịa thấy như treo ngang tầm mắt và tưởng chừng muốn đổ trùm lên người nhưng tôi cảm thấy không có ḍng sông lớn nào chắn ngang giữa nó và ḿnh. Tôi ngẩng đầu lên nh́n kè đá Iwashimizu của ngọn núi nầy xong quay qua đỉnh ngọn Tenno, mọc đối diện với nó phía bờ bên nầy, ở phía bắc điện thờ. Khi đang đi trên đường cái, tôi không để ư ǵ cả nhưng từ khi đặt chân đến đây và nh́n khắp bốn phương, tôi mới thấy ḿnh đang đứng dưới đáy một thung lũng h́nh ḷng chảo, hai phía nam bắc có núi chắn bầu trời như những bức b́nh phong. Nh́n thấy h́nh sông thế núi, ta hiểu được ngay v́ sao tự thời Heian, vương triều đă lập một cửa quan trên đất Yamazaki và vùng nầy trở thành một cứ điểm chiến lược cho những thế lực muốn tấn công kinh đô từ ngơ phía tây. Nơi này, đồng bằng Yamashiro mà trung tâm điểm của nó là Kyoto ở phía đông, và đồng bằng Setsukasen (13) ở phía tây chung quanh Ôsaka, như bị thu lại cực hẹp và ḍng sông Yodo chảy lọt chính giữa. Hai thành phố Kyôto và Ôsaka tuy được nối với nhau bằng ḍng sông này nhưng điều đó không ngăn việc khí hậu và phong thổ của hai vùng có một biên giới rơ ràng phân biệt. Dân Osaka hay bảo khi trời mưa ở Kyoto th́ bên tây Yamazaki lại nắng; mùa đông khi xe lửa vừa qua khỏi Yamazaki th́ khí hậu bỗng trở lạnh đột ngột. Do đó, cứ nh́n cảnh các lùm tre bao bọc lấy thôn làng, nh́n cách xây cất những ngôi nhà dân dă, vẻ thanh u của cây cỏ, màu đất cát, người ta thấy nó không khác chút nào cảnh chung quanh vùng Saga và có cảm tưởng miền quê Kyoto như kéo dài lên măi tận đây. Đi ra khỏi khu đền, tôi men theo con đường nhỏ phía sau quan lộ và trở lại bên bờ sông Minase rồi quẹo ngoặt lên đê. Có lẽ h́nh dáng những ngọn núi phía thượng nguồn và cả ḍng nước chắc đă chịu nhiều biến đổi trong khoảng thời gian bảy trăm năm qua nhưng cái phong cảnh như được âm thầm vẽ ra ḷng tôi mỗi khi tôi ngâm nga những bài thơ của thái thượng hoàng th́ không khác những ǵ đang trải rộng dưới mắt tôi bây giờ. Tôi vẫn thường nghĩ phong cảnh ở nơi đây phải có dáng dấp gần giống như thế này thôi. Không phải là sơn thủy hùng vĩ kỳ tuyệt với những vách núi cao ṿi vọi, những thác nước bào ṃn bờ đá và đổ xuống ào ạt nhưng chỉ có những ngọn đồi thoai thoải với ḍng nước lặng lờ. Nhờ những đợt sương chiều bao quanh, phong cảnh ở đây thêm êm ả và thanh b́nh giống như một bức tranh Yamato-e (14). Thật ra, cách thưởng thức cảnh vật thiên nhiên nơi mỗi người mỗi khác và có thể có người nghĩ nơi đây không có ǵ đáng xem cả. Tuy nhiên đối với tôi, những ngọn núi tầm thường và ḍng nước cũng tầm thường, không có ǵ là vĩ đại hoặc đem đến sự bất ngờ như sông núi nơi đây, lại có thể mời mọc tôi vào trong giấc mộng ngọt ngào và khiến tôi quyến luyến không nỡ rời chúng. Nếu phong cảnh chốn nầy không làm đă mắt hay đoạt hồn người ta, bù lại nó biết đón nhận du khách bằng cái mỉm cười dễ thương tươi tắn. Với những ai chỉ nh́n thoáng qua, nó không thổ lộ ǵ nhưng đối với những kẻ nán lại lâu hơn một chút, họ sẽ thấy ḿnh được bao bọc bằng một t́nh cảm dịu dàng như trong ṿng tay ấm áp của người mẹ hiền. Đặc biệt trong cái cô đơn lúc chiều về, ta muốn được cuốn hút vào trong lớp sương nhạt đang chơi vơi trên mặt nước và đưa tay ra vẫy gọi ta từ xa. Dầu vậy, thái thượng hoàng Gotoba đă đặt câu hỏi: "Cớ sao sông chuộng chiều thu ? " Bởi v́, như trong câu thơ gợi ư, nếu phong cảnh con sông này được đặt vào giữa buổi chiều xuân, nếu có làn sương hồng đang giăng mắc ngang chân núi êm ả, điểm thêm mấy cḥm hoa anh đào nở rải rác hai bên bờ sông, giữa những đỉnh núi và thung lũng nữa th́ sẽ ấm cúng dường nào. Ta có thể nghĩ là phong cảnh như thế đă từng bày ra trước mắt của ngài. Thế nhưng phải là một người tâm đắc với nghệ thuật như thái thượng hoàng th́ mới biết thưởng thức cái đẹp sâu sắc nấp dưới cái vỏ b́nh dị của phong cảnh chốn nầy. Cái đẹp ấy nếu là người không có tấm ḷng hoài cảm sự ưu nhă của vương triều (15) xưa th́ có lẽ chỉ coi là tầm thường thôi. Ḿnh tôi vẫn đứng lặng trên đê khi chiều dần dần buông xuống, đưa mắt về phía thượng nguồn. Nh́n qua bờ sông bên phải để t́m dấu tích ngôi đ́nh câu cá nơi ngày xưa thái thượng hoàng đă dùng món cơm dầm nước sông với đám tùy tùng và các công khanh, tôi chỉ thấy vùng đó nay đă thành rừng cây cối um tùm chạy măi tận đến đằng sau phía điện thờ. Điều này chứng tỏ rằng cánh rừng rộng kia có lẽ tương ứng với diện tích của nền cũ ly cung ngày trước. Không những thế, từ chỗ này có thể nh́n thấy ḷng sông Yodo rộng ra, biết đó là địa điểm mà khúc cuối ḍng Minase ḥa nhập vào. Giờ th́ tôi đă hiểu rơ ra vị trí tuyệt diệu của ly cung : phía nam có sông Yodo, phía đông có ḍng Minase và nhờ nước ở chỗ mũi đất nơi hai con sông hợp lưu có thể kiến tạo một khu vườn hoành tráng rộng cả mấy vạn tsubo (16). Nếu đúng như thế th́ xuống thuyền đi từ Fushimi, thái thượng hoàng có thể cập bến dưới mái hiên đ́nh câu cá và gặp ngay được quần thần. Việc ngài đi lại được dễ dàng giữa kinh đô và ly cung phù hợp với những ǵ ghi lại trong Masu-kagami " Thái thượng hoàng ngự giá thường xuyên tới cung Minase ". Tôi không khỏi nhớ đến những biệt thự của các tay phú hào soi bóng trên ḍng nước mà thời trẻ tôi đă thấy xây san sát ở Hashiba, Imado, Komatsujima, Kototoi , đối mặt nhau dọc theo hai bờ sông Sumida (ở Tokyo) . Có lẽ sự so sánh của tôi không được cân xứng nhưng tôi h́nh dung thái thượng hoàng đă đến ly cung này để tổ chức những cuộc yến ẩm và đôi lúc thốt lên: " Chao ôi, cái bà Murasaki Shikibu xưa kia, đáng nể thật ! Có điều làm sao bây giờ thưởng thức được những món ấy nữa " " hay khen ngợi một kẻ tùy tùng : " Trong Truyện Genji có chỗ chép: Như hạt mưa đá trên tấm lá tre. Vội tan biến khi tay ta chạm đến. Làm như ngươi cũng là một cung cách vượt người thường " th́ quang cảnh ấy phải chăng đă có vài điểm tương đồng với cái lề thói phong lưu của người dân sành chơi đất Edo bây giờ ? Tuy nhiên, cảnh sắc con sông Yodo, mỗi sáng mỗi chiều in bóng cái đỉnh màu xanh thẫm của ngọn Otokoyama, và trên ḍng thuyền bè như mắc cửi nối liền sự giao thông với kinh đô, đă đem đến cho thái thượng hoàng một niềm an ủi và khiến những cuộc yến ẩm hội họp của ngài có thêm nguồn hứng. Đó là điều mà con sông Sumida nhạt nhẽo kia đâu thể so b́. Về sau, khi ngài thất bại trong việc lật đổ Mạc Phủ và chịu đựng 19 năm lưu đày ngoài đảo Oki, trong tiếng sóng vỗ gió gào (17), t́m lại kỷ niệm của quá khứ huy hoàng, phải chăng cảnh sơn thanh thủy tú của vùng này và những cuộc ngự du hào hoa một thời là những cái thường xuyên ám ảnh tâm trí thái thượng hoàng hơn cả ? Tiếp tục ch́m đắm trong mộng ảo, trí tưởng tượng của tôi lần lượt vẽ nên cảnh tượng sinh hoạt thời đó với từng chi tiết một trong khi bên tai tôi tưởng chừng như c̣n vọng lại dư âm của đàn sáo cũng như tiếng suối chảy róc rách và tiếng cười nói hoan lạc của các bậc đ́nh thần sang trọng. Giữa khi ấy, tôi nhận ra trời đă hoàng hôn và khi lấy đồng hồ xem mới biết sáu giờ rồi. Ban ngày quá sức nóng, tôi không thể đi mà không vă mồ hôi nhưng khi mặt trời vừa lặn, đă cảm thấy gió chiều thu nổi lên làm se lạnh thịt da. Bụng đoi đói, tôi nghĩ phải đi kiếm bữa cơm chiều trong khi chờ trăng mọc. Và như thế, tôi bước xuống con đê, quay trở lại đường cái. Không hy vọng có một cửa hàng ăn nào vừa ư ở cái thị trấn nầy, và chỉ muốn có miếng ǵ ấm bụng đỡ ḷng, tôi bắt gặp ngọn đèn hiệu của một quán ḿ miến. Tôi bèn gọi hai lượng sake và hai bát kitsune-udon, thứ bánh canh bột ḿ có kèm b́a đậu phụ rán. Ăn xong, tôi nhờ nhà hàng hâm nóng một nậm rượu hiệu Masamune, cắp kè kè theo và bắt đầu đi xuống băi bằng bên sông bằng con đường chủ quán chỉ dẫn để đến bến đ̣. Khi chủ quán biết tôi có ư định lấy thuyền ngắm trăng trên ḍng sông Yodo, đă cho biết : " Tốt quá, vừa vặn xa chỗ nầy một đỗi, có bến đ̣ cho người muốn qua thị trấn Hashimoto phía bờ bên kia. Thưa gọi là đ̣ chứ sông ở đây rất rộng nên giữa sông có một cồn cát, trước tiên phải đi qua phân nửa sông đến bên cồn rồi từ đó lấy một con đ̣ khác qua bờ đối diện. Dạ thầy có thể lợi dụng khoảng thời gian đó mà ngoạn cảnh ". Ông quán c̣n tốt bụng chỉ thêm : " Bên Hashimoto đó lại có xóm chơi bời, con đ̣ nầy cập bến lên bờ ngay dưới xóm đó, mười giờ mười một giờ đêm hăy c̣n có chuyến nên nếu muốn, thầy có thể lấy thuyền đi qua đi lại nhiều lần nh́n cho măn nhăn ". Biết chuyện hợp t́nh hợp cảnh như vậy tôi vui mừng quá và bắt đầu cất bước, mặc cho làn gió đêm thổi lên khuôn mặt đă ửng hồng hơi men. Con đường ra đến bến đ̣ xem ra dài hơn khoảng cách ông chủ quán cho biết nhưng khi đi đến nơi, tôi nhận ra ở giữa sông quả có một cồn cát. Phần cuối băi về phía hạ lưu nghĩa là trước mắt tôi đây, có thể trông thấy rơ ràng nhưng về phía thượng lưu th́ đường nét chu vi của nó càng xa càng ch́m theo ánh sáng mờ nhạt đang bao bọc một quăng sông nên tưởng như kéo dài măi đến vô cùng. Nếu thế th́ cồn cát nầy không phải là một cái đảo nhỏ nằm giữa con sông lớn đâu, hẳn nó là mũi đất nơi hai ḍng Yodo và Katsura gặp gỡ ! Dù sao, đây là vùng đất làm điểm hẹn của các ḍng sông Kizu, Uji, Kamo và Katsura và là nơi tụ hội của nước từ năm tỉnh Yamashiro, Ômi, Kawachi, Iga và Tanba. Một quyển địa dư cổ bằng tranh vẽ nhan đề " Đại cương h́nh thể hai bờ sông Yodo " có chép về một bến đ̣ ở phía thượng nguồn tên là " Bến Chồn Qua " mà khoảng cách giữa hai bờ là 110 ken (18), ḷng sông ở cái bến tôi đang đứng đây chắc phải rộng hơn ở bến trên đó một chút. Hơn thế nữa, cồn cát nầy không chia con sông thành hai phần bằng nhau. Cồn có vẻ sát với phía bờ tôi đang đứng hơn nhiều. Trong khi ngồi trên băi sỏi bên bờ sông để chờ, tôi thấy con đ̣ tách khỏi thị trấn Hashimoto tít đằng xa nơi lấp lánh mấy ánh đèn và chèo về phía cồn cát ; thế rồi khách đi đ̣ bước xuống và cuốc bộ băng ngang cồn cát đến cái bến của con đ̣ thứ hai để đến nơi tôi. Thật ra đă lâu tôi chưa đi đ̣; nhưng nếu so sánh với những lần ở các bến San-ya, Takeya, Futako và Yaguchi mà tôi c̣n giữ lại trong kư ức về thời thơ ấu th́ cái bến đ̣ nầy, phải chăng v́ có cồn cát chia đôi ḍng nước, nên có không khí thong thả chây lười hơn một bậc. Lạ cái nữa là giữa Kyôto và Ôsaka ngày nay sao vẫn c̣n một phương tiện giao thông cũ kỹ như thế nầy. Tôi có cảm tưởng như vừa nhặt được một vật ǵ quí báu không ngờ. Trong tập sách về sông Yodo mà tôi vừa nói tới, bức tranh khắc gỗ phong cảnh Hashimoto cho thấy một vầng trăng treo giữa bầu trời đằng sau đỉnh núi Otoko, có kèm thêm một bài thơ waka của Kageki (19) : Nhờ trăng
lên Otoko, Và một bài haiku khác của Kikaku (20) : Trên Otokoyama, Trong khi chiếc đ̣ đưa tôi chèo đến gần cồn cát, vầng trăng tṛn vằng vặc đă treo sau núi Otoko (Con Trai), giống hệt như thấy trong bức họa. Cây cối xanh um bóng như nhung, ngọn núi giống một tảng mực thẫm màu vươn lên giữa không trung hăy c̣n vương chút ánh sáng hoàng hôn. Người lái đ̣ ở phía bờ bên kia cồn cát mời tôi : " Nầy ông, mau mau leo lên thuyền, c̣n phải đi tiếp đó " nhưng tôi nói với lại: "Dạ không, tôi nán lại trên cồn hóng gió một chút, thôi để chuyến sau!", rồi đạp vẹt đám cỏ hoang ướt sương, một ḿnh tiến về phía đầu mũi cồn cát và ngồi xổm xuống trên băi mọc đầy lau. Ngồi như thế chẳng khác nào giữa một con thuyền đang trôi trên ḍng nước và có thể ngắm tùy thích hai bên bờ sông đang trải dài dưới ánh trăng. Đầu tôi nh́n về phía hạ lưu, con trăng nằm ở bên trái, nhưng có một vầng ánh sáng xanh lơ êm dịu ôm trọn cả vùng sông làm tôi có cảm tưởng con sông lúc nầy như tỏa rộng ra so với khi thấy nó dưới ánh sáng ban ngày hồi chiều. Bài thơ Đỗ Phủ vịnh hồ Động Đ́nh cũng như những câu trong Tỳ Bà Hành hay một đoạn của Xích Bích Phú, những áng văn thơ chữ Hán êm tai nầy lâu ngày tôi đă quên khuấy tự dưng lại trở về âm vang trên môi tôi. Nếu nói thế th́ đoàn "thuyền trẩy trên ḍng sông Yodo" mà nhà thơ Kageki đă vịnh, vào một buổi chiều ngày xưa giống như chiều nay, với cả những chiếc thuyền lớn, " thuyền ba mươi thạch ", đă xuôi ngược như mắc cửi trên mặt sông nầy. Ngày nay trên sông không c̣n có thuyền nào đáng gọi là thuyền mà chỉ c̣n những chiếc đ̣ chở được năm sáu người là cùng. Tôi đưa nguyên nậm rượu Masamune đem theo lên miệng tu, vừa uống vừa chếnh choáng cao giọng : Tầm Dương giang đầu dạ tống khách, Phong diệp địch hoa thu sắt sắt (21). Trong khi đang ngâm mấy vần thơ ấy tôi bất chợt nhớ ra ngày xưa những nơi lau lách đ́u hiu thế nầy đă xảy ra những t́nh huống tương tự từng thấy trong Tỳ Bà Hành của Bạch Lạc Thiên. Nếu những thôn làng như Eguchi và Kanzaki thực sự nằm ở phía hạ lưu một chút th́ hẳn có không ít những nàng kỹ nữ đă lai văng quanh vùng trên những con thuyền nhỏ len lỏi giữa mấy khóm lau. Hồi thời vương triều, có văn nhân Ôe no Masahira (22) đă viết thiên thuật sự " Quang Cảnh Gái Làng Chơi " (Yuujo wo miru no Jo) để nói đến hoạt động nhộn nhịp của các chị em và không khí trăng hoa suốt một dăi sông này : " Vùng Kayô (Yamazaki) (23) nằm giữa địa giới ba xứ Yamashiro, Kawachi và Settsu, là một cửa biển trọng yếu trong thiên hạ, khách bốn phương đông tây nam bắc khi đi lại đều phải ghé qua. Những kẻ buôn hương bán phấn ở dưới ṿm trời này, không kể già trẻ đều dắt nhau đến đây. Xóm ăn chơi đối mặt hai bên bờ, họ cột thuyền trước cửa nhà, chèo kéo khách giữa ḍng sông. Những cô trẻ làm xao xuyến ḷng các ông bằng son phấn và tiếng cười giọng hát, các cô luống tuổi th́ nấp dưới bóng dù, ra hiệu cho hay ḿnh đang trống bằng cách chống ngọn sào. Ôi thôi, màn thúy buồng hồng, cho dù không theo lễ giáo con nhà nhưng một cuộc vui vầy trong thuyền trên sóng không đáng để đời hay sao ! Mỗi lần đi ngang qua đây và nh́n quang cảnh nầy, ta không sao nén được tiếng thở dài ". Qua nhiều thế hệ, con cháu Masahira có người tên Ôe no Masafusa (24) lại viết " Bút kư về gái làng chơi " (Yuujoki), trong đó ông tả kể lại cuộc sinh hoạt diễm t́nh và sống động ven bờ sông này : " Bờ nam bờ bắc không biết bao nhiêu là xóm làng. Một phân nhánh con sông chảy vào xứ Kawachi. Trong vùng gọi là Eguchi có hai trang trại, một cái tên là Miharagi thuộc về Sở Dược Thảo, một cái tên là Oniwa thuộc về Sở Bảo Tŕ. Khi sông vào xứ Settsu, lại qua các vùng Kanzaki và Kanishima. Nhà cửa nơi đây cứ mọc san sát, không c̣n chỗ lọt. Gái làng chơi tụ lại thành nhóm, chèo những chiếc thuyền con cập vào thuyền buôn lớn và rủ rê khách chung chăn gối. Tiếng hát của họ vọng đến mây trời, âm nhạc ḥa theo gió nước trên ḍng. Thấy nói người qua lại không ai c̣n nhớ về nhà và thuyền câu, thuyền buôn cứ liên tiếp mắc vào nhau lấp cả ḍng sông, hết c̣n thấy được mặt nước. Chốn này quả là địa điểm hành lạc số một trong thiên hạ ". Bấy giờ tôi vừa thử đi t́m trong đáy kư ức mơ hồ của ḿnh một số đoạn văn mà tôi góp nhặt và đem ra được, vừa ngắm mặt sông vắng vẻ, chỉ có làn nước trôi buồn bă dưới vầng trăng vằng vặc. Ai trong chúng ta không có chút ḷng hoài cổ. Nhưng sắp đến cái tuổi năm mươi dễ xúc cảm th́ nỗi buồn bâng khuâng lúc thu về mà hồi son trẻ tôi chẳng đoái hoài ǵ, lại đè nặng không sao tưởng tượng. Một ngọn lá sắn lay động trước ngọn gió thôi cũng đủ làm ḷng tôi dậy lên niềm cảm xúc khôn nguôi. Huống chi trong buổi chiều như hôm nay, lại ngồi bó gối ở nơi như chốn nầy, làm sao tôi không cảm thấy cái mong manh bèo bọt của những mưu đồ do con người mà nay không c̣n vết tích, cũng như làm sao không luyến tiếc về thời đại hoa lệ đă tan biến vào quá khứ. Trong tập " Bút kư về gái làng chơi " có ghi lại tên tuổi nổi như cồn của các nàng kỹ nữ thưở ấy : Kannon (Quan Âm), Nyo. i (Như Ư), Kôro (Hương Lô), Kuujaku (Khổng Tước). Ngoài ra c̣n truyền lại danh tiếng những Kokannnon (Tiểu Quan Âm), Yakushi (Dược Sư), Yuya (Hùng Dă), Naruto (Minh Độ). Những nàng con gái chọn cuộc đời sóng nước ấy bây giờ đă về đâu ? Nếu các nàng chọn biệt hiệu có hơi hướm Phật giáo như thế bởi v́, cứ theo lời người ta, các nàng đinh ninh chuyện bán dâm là một sở hành của bồ tát. H́nh dáng những người con gái tự cho ḿnh là hoá thân của đức Phổ Hiền (25) và có lúc đă được các vị cao tăng cúi lạy kia có c̣n bao giờ xuất hiện trở lại trên ḍng nước để rồi tan biến đi như những bọt sóng hợp tan ? Tăng Saigyô (26) viết : "Khi dạo quanh những vùng kỹ nữ sống như Eguchi hay Katsuramoto, ta thấy nhà cửa của họ chen chúc nhau hai bên bờ nam bắc của ḍng sông. Tội nghiệp thay, họ phải kiếm ăn bằng cái nghề chiều theo ư khách ! Rồi họ sẽ ra sao khi rời bỏ cuộc sống vô nghĩa này để sinh về kiếp sau ? Hay cái nghiệp chướng từ những đời trước lại bắt họ phải tiếp tục đời buôn hương bán phấn ? Để sống cho được một kiếp người chỉ thoáng như giọt sương, họ đă làm cái nghề mà Đức Phật nghiêm cấm. Nào chỉ có mang tội vào thân một ḿnh, họ c̣n đáng trách v́ đă làm cho tan nát bao nhiêu cuộc đời khác. Thế nhưng đă có bao nhiêu kỹ nữ được siêu sinh về cơi tịnh độ v́ tuy làm hại cuộc đời của khách trên bến, cũng có những kẻ thực sự có ḷng tốt ". Có lẽ như thế th́ các nàng kỹ nữ, như Saikyô nghĩ, đă thác sinh về đất Phật và giờ đây, với một nụ cười thương cảm, đang ngắm nh́n sự sa đọa của thế nhân, cái điều duy nhất không hề thay đổi trên cơi dương trần. Giữa khi một ḿnh đang tiếp tục đắm ch́m trong ḍng suy tưởng, một đôi tứ thơ lại chợt đến trong đầu, sợ nhỡ quên, tôi mới lấy sổ tay ra chép lại bằng bút ch́ dưới ánh trăng. Dè sẻn chút rượu c̣n sót lại, tôi tợp một ngụm, cầm bút chép, rồi lại tợp thêm ngụm nữa để chép tiếp, lập đi lập lại như thế cho đến giọt cuối cùng, xong ném cái nậm không thật xa ra ngoài ḍng. Chính lúc đó tôi nghe tiếng lá lau lay động xào xạc cách chỗ tôi không xa và vừa khi tôi ngoảnh về phía phát ra tiếng động, tôi thấy một người đàn ông đang ngồi xổm trong đám lau, kiểu giống như tôi tựa bóng với h́nh. Ngạc nhiên, trong một chốc tôi lặng người nh́n bộ dạng ông ta không chút e dè nhưng người đàn ông ấy vẫn tỉnh queo, lên tiếng chào tôi với một giọng thoải mái : " Trăng đẹp quá, ông hén ! Tôi thấy ông chịu chơi hết chỗ nói. Thiệt ra tôi ngồi đây năy giờ lâu rồi nhưng không dám quấy rộn sự thanh thản của ông. Hồi năy có trộm nghe ông ngâm Tỳ Bà Hành làm tôi cũng ngứa ngáy muốn đọc mấy câu thơ. Vậy th́ ông có cho phép tôi làm nhàm tai ông một chút không ? " Ở Tokyo đâu thấy ai bắt chuyện trơ trẽn với người không quen như cái ông nầy nhưng từ lâu tôi đă hết lấy làm lạ với tính bộp chộp của người dân miền Kansai nếu không nói đă trở thành giống họ nên trả lời không chút khách sáo: " Thế th́ quí hóa quá. Ông cho nghe đi chứ ! " Người đàn ông đó liền đứng dậy, rẽ lau tiến đến bên cạnh tôi: "Xin vô phép hỏi ông nhưng ông có dùng chút rượu không?" Ông ta vừa mời vừa đưa tay gỡ một vật ǵ buộc bằng một sợi dây trên đầu cây gậy bằng gỗ thô. Nh́n lại th́ đă thấy tay trái ông ta đang nắm một quả bầu c̣n trên tay mặt ch́a về phía tôi một cái chén sơn . "Tôi vừa thấy ông vứt nậm rượu mà tôi lại c̣n chút đỉnh đây nè. " Ông ta lắc lắc quả bầu. "Xin ông dùng chút rượu nhạt để tôi được cảm ơn ông chịu nghe mấy câu thơ tào lao tôi sắp ngâm đây. Nếu đang mềm môi mà phải ngừng th́ c̣n ǵ hứng. Ở đây gió sông lại mát, có quá chén một chút chắc cũng không sao". Chưa biết tôi có chịu hay không th́ ông đă bắt tôi cầm lấy cái chén. Rượu rót vào gây âm thanh ục ục vui tai. "Cám ơn, tôi không làm khách đâu!", vừa nói tôi uống một hơi sạch bách. Không hiểu rượu này là loại ǵ nhưng sau khi đă uống một nậm Masamune nóng rồi, tôi mới nghiệm ra đây là một loại sake lạnh, d́u dịu, thơm mùi hương gỗ, để lại một cảm giác mát mát trong miệng. "Nầy, ông làm thêm chén nữa đi...Nầy, chén nữa nào!" Ông ta bắt tôi uống hết ba chén và khi tôi vừa uống xong chén thứ ba th́ ông ta bắt đầu hát một điệu trong tuồng Nô nói về nàng Kogô (27). Có lẽ v́ ông ta đă uống nhiều rượu nên làn hơi không được dài, phải gân cổ. Giọng ông lại không ngọt lắm mà cũng chẳng to nhưng được cái sâu lắng và lăo luyện. Dầu sao cách hát của ông có vẽ trầm tĩnh chứng tỏ là người đă khổ công tập luyện lâu năm. Hơn nữa, lúc ngồi hát không ngượng ngùng trước một người khách lạ là tôi, ông đă để ḿnh ch́m đắm vào thế giới của vở tuồng, không cho bất cứ điều lo lắng nào có thể xáo trộn. Nghe ông hát, tôi thấy tâm hồn bay bổng của ông giao cảm được với hồn tôi, làm tôi nghĩ cho dầu tài nghệ chưa đạt đến mức cao diệu nhưng trong nghề chơi mà nuôi dưỡng được cái tâm hồn nghệ sĩ như ông ta th́ đă không phải là chuyện đùa. "Thật hay hết chỗ nói. Cảm ơn ông đă cho tôi được hưởng những giây phút thú vị như thế nầy!". Ông bạn cũng đă hết hơi, mới uống một ngụm rượu giải khát, xong lại ch́a cái chén về phía tôi: "Ông làm chén nữa coi!". Cái nón lưỡi trai của ông ta chụp tới mí mắt để lại một cái bóng đen che cả nửa trên khuôn mặt nên dưới ánh trăng, khó ḷng quan sát từng chi tiết, chỉ đoán ông có vẻ trạc tuổi tôi, tuy hơi gầy và nhỏ con hơn. Ông mặc trơn mỗi cái áo dài kiểu Nhật ngoài choàng thêm áo khoác đi đường (28): "Xin lỗi hơi đường đột nhưng ông có phải người Osaka không?", tôi hỏi ông ta v́ sau vài câu trao đổi, tôi thấy giọng ông ta người miền Tây chứ không phải dân vùng Kyôto. -"Dạ đúng đó. Tôi có mở một tiệm nho nhỏ bán đồ cổ ngoạn ở phía nam Osaka". -"Thế ông trên đường đi hóng mát về chắc?" -"Không, không. Tôi mới tới đây hồi chiều để thưởng trăng thôi. Thường mọi năm tôi lấy đường Keihan nhưng năm nay tôi lại đánh ṿng theo đường mới Shin Keihan trước khi lấy đ̣ vượt sông. Đến được đây, tôi thích quá!". Ông ta vừa nói vừa rút ra một bọc thuốc lá rời và nhồi thuốc vào tẩu. -"Chớ năm nào ông cũng chọn một địa điểm để đi thưởng trăng hay sao?" -"Dạ phải" Người đàn ông ngừng giây lát để có thời giờ châm tẩu thuốc, xong, tiếp lời: "Thường tôi đi ngắm trăng ở bên đầm Ogura. T́nh cờ chiều này đến đây tôi mới được xem cảnh trăng sông tuyệt diệu như thế nầy. Tôi phải thưa thật là may có ông đang ngồi nghỉ ở đây mà tôi nhận ra chỗ nầy mới đáng xem. Xin cảm ơn ông đă gợi ư cho tôi. Nh́n con trăng từ đám lau giữa hai nhánh chẻ đôi của con sông Yodo này đúng là đẹp gấp mấy nơi khác". Ông ta gạt tàn vào cái hộp thuốc mang theo người rồi lại nhồi thuốc mới vào tẩu châm lửa cho hồng, vừa nói: - "Năy giờ nếu ông có viết được câu thơ nào vừa ư, xin cho tôi nghe với!" -"Không, không!" Tôi trả lời và vội vàng cất quyển sổ tay vào trong ngực áo. " Được có mấy câu vụng lắm, đâu đáng để tŕnh ông". -"Ôi, ông đừng dạy thế!" Ông ta tuy nói như vậy nhưng không có ư ép mà cũng chẳng nài nỉ ǵ thêm. Rồi như đă quên khuấy chuyện đó, ông ta chầm chậm ngâm nga một ḿnh: Giang
nguyệt chiếu, tùng phong xuy, Được một lúc, đến lượt tôi cất tiếng hỏi thăm: "Ông ở Ôsaka chắc biết lịch sử và địa lư vùng nầy. Tôi có chuyện muốn hỏi ông: có phải khắp khu vực này ngay cả băi cát mà chúng ḿnh đang ngồi đây ngày xưa là bến đậu thuyền của gái làng chơi, chẳng hạn cái bà Eguchi no kimi (30) mà người ta hay kể? Khi tôi ngắm con trăng nầy, tôi có cảm tưởng như hồn ma bóng quế của những nàng con gái ấy đang phảng phất trước mắt. Từ năy giờ, tôi đă khổ tâm ra sức mà không t́m ra câu thơ nào kha khá để diễn đạt được cái ảo tưởng đó của tôi". -"Thật là đồng thanh tương ứng" người đàn ông kia không dấu được vẻ ngạc nhiên, như reo lên: "Tôi cũng mới có cái cảm giác y hệt điều ông hỏi". Không dấu được xúc động, ông ta tiếp lời: " Nh́n ánh trăng nầy, trong đầu tôi cũng hiện ra h́nh ảnh một bóng ma trong quá khứ". -"Theo như tôi phỏng đoán. tuổi ông và tuổi tôi chắc cũng sàn sàn" Tôi vừa nói vừa nh́n cho thật rơ khuôn mặt người đàn ông. "Có lẽ v́ ảnh hưởng của thời gian đối với bọn ḿnh hay sao chớ như trong trường hợp của tôi th́, mỗi khi thu về là niềm cô quạnh và sự buồn chán cứ tăng lên, năm ngoái đă hơn năm kia, năm nay c̣n hơn năm ngoái. Nói tóm lại, mỗi mùa thu, tôi thấm thía thấy một nỗi buồn vô cớ trở về trong ḷng. Phải ở tuổi chúng ḿnh th́ mới thưởng thức được với những vần thơ cổ như "Nghe tiếng gió thổi mà đâm giật ḿnh" (31) "Gió thu lay động bức rèm buồng ta" (32) Nói như vậy đâu phải v́ mùa thu buồn mà ḿnh ghét nó. Ngược lại đằng khác. Hồi c̣n trẻ, trong bốn mùa, tôi thích mùa xuân nhưng có tuổi rồi th́ tôi nôn nao đợi mùa thu đến c̣n hơn cả đợi xuân về. Cùng với thời gian, con người ta như trở nên cam chịu và mở rộng ḷng ḿnh để vui mà chấp nhận qui luật có sinh có diệt của thiên nhiên, muốn sống một cách b́nh lặng và thăng bằng hơn, có phải không ông?Do đó thay v́ ngắm phong quang đẹp đẽ th́ t́m nguồn an ủi trong cảnh vật bi thương, cũng có khác ǵ thay v́ tham luyến cái lạc thú hiện thực th́ đắm đuối nhớ về những niềm vui thỏa trong quá khứ. Nói cách khác, tâm t́nh hướng về quá khứ, đối với những người trẻ, chỉ là điều không tưởng, chả mảy may dính líu với hiện thực nhưng đối với người già th́ nó là cách duy nhất để có thể tiếp tục sống với hiện tại". -"Ông hoàn toàn có lư!" Người đàn ông gật gù ra vẻ đồng cảm. "Nếu ai ai cũng phải trải qua sự thay đổi tự nhiên như thế khi ḿnh có tuổi th́ điều đó cũng phải xảy đến cho tôi. Tôi c̣n nhớ lúc tôi hăy c̣n nhỏ xíu, cứ đến đêm rằm tháng tám, ông già tôi bắt tôi phải lội bộ theo ông hai, ba dặm (33) đường trong đêm trăng. Ngay bây giờ, tới ngày nầy tháng nầy tôi vẫn c̣n nhớ lại những kỷ niệm của thời xưa ấy". Ông già tôi hồi đó cũng như ông bây giờ, ổng thường bảo tôi: "Tuổi con chưa hiểu hết được cái buồn của đêm thu đâu, nhưng đến lúc nào đó rồi mầy sẽ hiểu, con ạ!". -"Rốt cục, ông cụ hành động như thế với mục đích ǵ vậy? Bộ ông cụ thích ngắm trăng rằm lắm hay sao? Lại c̣n bắt ông lúc c̣n non nớt như vậy mà phải lội bộ hai ba dặm đường như thế th́ ..." -"Lần đầu tiên ông già ổng kéo tôi đi theo th́ tôi mới có bảy, tám tuổi nên không hiểu ǵ hết. Cha con sống ở một căn nhà sâu trong ngơ hẻm, mà lúc đó bà già tôi mất đă được hai, ba năm rồi. Nhà chỉ có hai cha con, liệu chừng v́ vậy, đi đâu, ổng bắt buộc phải dắt tôi theo. Dù sao, tôi nhớ ổng hay rủ: "Này, thằng nhóc! Bố đưa con đi xem ông trăng nhá !". Tôi c̣n nhớ, hai cha con ra khỏi nhà lúc trời hăy c̣n nắng rồi xuống bến Hachiken-ya lấy tàu thủy chạy bằng hơi nước - hồi đó chưa có xe điện - để đi ngược ḍng sông. Hai cha con rời thuyền ở Fushimi, sau này tôi mới biết, và tôi lặng lẽ bước theo cha mải miết suốt một quăng đê dài. Cuối cùng chúng tôi đến cạnh bờ đầm lớn. Bấy giờ th́ tôi hiểu đó là bờ đê Ogura và cái đầm cùng tên. Con đường tôi vừa đi qua khoảng một dặm rưỡi đến hai dặm mỗi một chiều". Tôi mới xía miệng hỏi: " Thế nhưng, ông cụ bắt ông đi xa như thế để làm ǵ hở? Chẳng lẽ cụ đưa ông đi ḷng ṿng chỉ để xem ánh trăng chiếu trên mặt đầm thôi à? -"Tôi chỉ biết cha tôi lâu lâu lại dừng chân trên đê, nh́n đăm đăm mặt đầm rồi hỏi tôi "Con thấy cảnh đẹp không nào!" . Vẫn tiếp tục bước theo ông, nghe cha nói trong tâm hồn nhỏ dại của tôi cũng cảm thấy ừ nó đẹp thật. Khi chúng tôi đi ngang qua một trang viện có lẽ là phủ đệ của một gia đ́nh quyền quí, tôi nghe có tiếng đàn koto, shamisen và kokyuu (34) vọng ra ngoài cḥm cây lá rậm rạp. Cha tôi dừng chân một đỗi lâu trước cửa ngôi nhà, lắng tai nghe, xong không biết bất chợt suy nghĩ thế nào mà lại bắt đầu đi ḷng ṿng dọc theo bức tường vây quanh phủ đệ rộng lớn ấy trong khi tôi rảo bước đi theo. Tiếng đàn koto và shamisen mỗi lúc nghe càng rơ hơn, và có cả tiếng người vẳng nhẹ ra, chứng tỏ chúng tôi đi đến gần ngôi vườn phía sau nhà. Ở đây, ngôi tường đă nhường chỗ cho một hàng rào cây xanh. Cha tôi bèn kiếm một chỗ thưa cây để có thể nh́n xuyên qua. Tôi không hiểu sao ông ta lại cứ bất động như thế và không bỏ đi đâu nữa. Tôi cũng bắt chước ông, tḥ mặt vào đằng sau một khoảng thưa giữa cḥm lá ḍm vào bên trong. Đó là một băi cỏ rộng với nhiều ngọn đồi nhân tạo, có một con lạch nước tràn trề, trên đó là một cái sàn cao với hàng hiên lát chiếu có bao lơn bao chung quanh. Năm sáu người vừa đàn ông vừa đàn bà đang dự tiệc. Bên cạnh lan can có trưng bày một số cỗ bàn, rượu và đèn đuốc, mấy cái ṿ lớn cắm các loại hoa lau susuki và hagi (35) tươi ...cho ta biết mục đích của buổi gặp gỡ là để thưởng trăng. Một bà, ngồi ở vị trí chủ tọa, đang gảy đàn koto, trong khi một người đàn bà khác, búi tóc theo kiểu Shimada (36) , có vẻ là một người hầu gái, đang chơi shamisen. Ngoài ra c̣n có một ông già mù, chắc là nhạc sư hay lăo nghệ nhân môn nào đó, đang kéo kokyuu. Từ chỗ tôi đứng, không thể nào quan sát tường tận các nhân vật nhưng đối diện với chúng tôi là một bức b́nh phong vàng ánh, đằng trước có một người hầu gái trẻ khác đầu cũng búi tóc kiểu Shimada, đang nâng quạt múa một điệu vũ. Cho dù không nh́n rơ nét mặt của người đó, chúng tôi cũng có thể theo dơi từng động tác một. Một phần v́ thời đó làm ǵ điện đă bắt đến nơi, một phần có lẽ muốn tăng thêm không khí tao nhă, họ có thắp mấy chùm đèn nến bên hàng hiên mà ánh sáng chập chờn in lên trên những cột gỗ bóng và bức b́nh phong dát kim nhũ. Ánh trăng chiếu sáng mặt nước của con lạch, bên bờ có cột một chiếc thuyền con: nước của con lạch có lẽ lấy từ đầm Ogura vào và chiếc thuyền con có thể đưa người ta ra thẳng ngoài đầm. Một chốc sau, điệu vũ chấm dứt và mấy người hầu gái đem mấy gáo rượu sake đến rót cho thực khách. Từ chỗ chúng tôi đứng, nh́n cung cách lễ phép của những người hầu, có thể phỏng đoán bà đánh đàn koto là nữ chủ nhân và những nhân vật khác trong tiệc là khách đến chơi cho có bạn. Quang cảnh nầy xảy ra cách đây đă trên bốn mươi năm; vào thời đó, người giúp việc của những nhà cố cựu ở vùng Kyôto và Ôsaka vẫn con ăn mặc như thị nữ trong phủ đệ. Ngoài lời ăn tiếng nói, lối cư xử lễ độ, nhà chủ nếu có sở thích đặc biệt, có thể cho dạy họ cả những nghệ thuật tiêu khiển. Cái ngôi nhà mà chúng tôi đến phải là biệt thự của một nhà giàu có và người đàn bà đánh đang koto hẳn là người trong gia đ́nh nhà chủ. Tuy nhiên bà ta ngồi măi trong xa và gương mặt của bà bị bóng mấy cây hoa lau hagi và susuki chưng bày làm tối đi nên chúng tôi không thể quan sát rơ ràng từ chỗ ḿnh đứng. Cha tôi như thể kiếm cho bằng được cách nh́n thật gần, đi đi lại lại không ngừng dọc hàng rào để thay đổi vị trí nhưng tầm mắt ông cứ vướng mấy cành hoa lau kia. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào nét trang điểm đậm nhạt và màu áo kimono bà chủ ấy mặc, ta không có thể bảo đó là một người lớn tuổi. Giọng bà ta c̣n son trẻ lắm. Cho dù v́ cách nhau khá xa, chúng tôi không hiểu được họ đang nói chuyện ǵ, chỉ riêng cái giọng nói ấy nó tách ra khỏi những giọng khác với dấu nhấn cao cuối câu, đặc điểm của tiếng nói vùng Ôsaka như "Vậy hở?", "Chắc thế đấy!"... vang lên trong khu vườn làm ta cảm thấy ngay cái tươi tắn, giàu âm hưởng, đầy sinh khí của nó, rất trong trẻo và ngân măi ra. Người đàn bà ấy h́nh như đă ngà ngà say nên lâu lâu phát ra một tiếng cười khanh khách làm cho toàn thể khuôn mặt một nét vui tươi rạng rỡ đồng thời vẫn giữ được vẽ thanh lịch và đượm chút ngây thơ. Tôi thử lên tiếng hỏi : "Bố ơi, thế mấy người nầy đang làm cỗ trông trăng, hở bố?" th́ nghe cha tôi trả lời "Chắc vậy đó con!"nhưng ông vẫn không ngừng nh́n xuyên qua hàng dậu. Tôi lại gặng thêm: "Bố có biết đây là nhà ai không?" nhưng lần nầy cha tôi chỉ ậm ừ gật đầu và có vẻ như đang bị thu hút hoàn toàn bởi cảnh tượng trước mắt. Bây giờ nghĩ lại mới thấy khoảng thời gian cha tôi cứ đứng như vậy dài tưởng như không bao giờ chấm dứt, v́ trong lúc đó, mấy cô hầu đă đứng lên cắt bấc nến cũ ít nhất hai ba lần. Sau khi xem tŕnh diễn một điệu múa nữa, nữ chủ nhân cất giọng trong thanh ca một bài, vừa đánh đàn koto đệm theo. Chúng tôi nh́n họ măi đến cuối tiệc, lúc các thực khách đă rời hàng hiên. Tôi không nhớ rơ đường về như thế nào, chỉ biết là một quăng đi bộ rất dài và chán ngấy dọc theo mặt đê. Ông có thể hiểu tại sao tôi c̣n giữ được kư ức rơ ràng về một chuyện xảy ra đă quá lâu, khi hăy c̣n quá trẻ không? Trên thực tế, như tôi vừa có dịp thưa với ông xong ,từ hôm đó trở đi cho đến nhiều năm sau, mỗi khi đến rằm tháng tám, cha tôi lại đưa tôi đi trên con đê ấy; thế rồi, chúng tôi lại ngừng trước cánh cổng của ngôi biệt thự bên mặt đầm, lại nghe tiếng đàn koto và shamisen; để rồi cha tôi lại đi ṿng bức tường thăm ḍ qua bờ dậu những ǵ xảy ra trong vườn. Quang cảnh ngôi biệt thự hầu như không có ǵ thay đổi theo năm tháng, mỗi lần đều thấy lại người đàn bà có lẽ là nữ chủ nhân ngôi nhà ấy với mấy người bạn nghệ sĩ và hầu gái như thường lệ tiêu khiển quanh một bữa cỗ trông trăng. Tuy rằng kỷ niệm về những điều quan sát được vào cái năm đầu tiên sẽ được bổ túc bằng chi tiết mới thu lượm trong mấy năm sau nầy nhưng phải nói là cảnh tượng mà tôi vừa mô tả cho ông nghe cứ lập đi lập lại như vậy hằng năm. -" Ra là thế! ". Tôi như bị lôi cuốn vào thế giới kỷ niệm của người đàn ông. "Nhưng ngôi biệt thự ấy nó là cái ǵ thế , hở ông? Chắc cụ nhà phải có lư do ǵ đặc biệt mới cứ trở lại chốn đó mỗi năm chứ? -" Lư do ấy à?". Người đàn ông trả lời sau khi chần chừ một chút : "Nói cho ông nghe thật ra không hề ǵ. Nhưng dù sao ông là người không quen không biết nên tôi chỉ ngại câu chuyện tôi kể nó nhàm tai và làm mất th́ giờ ông thôi ". -" Nghe đến đây rồi mà ông không cho nghe tiếp th́ ức quá. Thật đấy ! " -" Cảm ơn ông đă không quan ngại. Nếu ông có ḷng quí hóa như vậy th́ tôi xin được kể tiếp câu chuyện của tôi ". Ông ta vừa nói vừa kéo cái bầu rượu khi năy ra. " Nhân nói đến ức, trong bầu nay hăy c̣n một ít rượu, chúng ḿnh thanh toán nó cho xong để khỏi tiếc nuối ǵ nữa ". Ông ta trao cái chén cho tôi rồi lại nghiêng bầu đổ rượu vào ục ục. Sau khi cẩn thận dốc bầu rượu, chắt cho thật kiệt, người đàn ông kể tiếp : -" Trong những dịp cuốc bộ hàng năm đêm rằm trên đê với cha tôi như thế, mỗi khi cha tôi đề cập đến câu chuyện, mặt ông lúc nào cũng nghiêm trang và nói với tôi bằng một giọng như thể với một người cùng lứa tuổi : "Con c̣n trẻ nên chưa hiểu được bố nói ǵ đâu nhưng khi nào con lớn lên, bố mong con nhớ lại những chuyện hôm nay. Do đó, bố không coi con là con nít, bố muốn nói chuyện với con như một người lớn. " Trong trường hợp nầy , để chỉ nữ chủ nhân của trang viên mà ông dắt tôi đến mỗi năm, ông gọi " người ấy" hay " Yuu phu nhân " " Con đừng quên " Yuu phu nhân ", con nhé ! Nếu bố đưa con đến đây thường xuyên mỗi năm, là để sau nầy con có thể nhớ lại xưa " phu nhân " đă sống như thế nào!". Ông nói bằng một giọng nghẹn ngào, và tuy tôi không hiểu hết lời ông nói nhưng v́ tính ṭ ṃ thường thấy ở trẻ con, lại thêm nhờ sự nhiệt thành toát ra từ cha tôi, tôi đă có thể chăm chú nghe những điều ông nói. Rốt cục, tôi có phần nào hiểu được và thông cảm với những điều ông muốn bày tỏ. Người mà cha tôi gọi là " Yuu phu nhân " sinh trong gia đ́nh Kosobe ở Ôsaka. Theo lời cha tôi, năm mười bảy tuổi, nàng về làm dâu họ Kayukawa và nổi tiếng là một người tuyệt đẹp. Tuy nhiên chỉ được bốn năm năm th́ chồng qua đời nên mới hăm hai hăm ba, nàng đă góa bụa. Nếu là thời bây giờ, không ai ép một người đàn bà ở vậy suốt đời và những người chung quanh sẽ sẳn sàng can thiệp nếu chuyện đó xảy ra nhưng hồi đó mới đầu thời Meiji và tập tục cổ lỗ cuối Mạc Phủ hăy c̣n ảnh hưởng mạnh lắm. Ngoài ra, dường như trong gia đ́nh ruột thịt cũng như phía nhà chồng có những người thân thích già cả lắm mồm, lại thêm, như lời cha tôi kể, giữa nàng và ông chồng quá cố chừng có một mụn con trai, làm cho những dự tính bước đi bước nữa của nàng không sao thực hiện được. Không những thế, O-Yuu c̣n được mẹ chồng lẫn chồng hết sức quí trọng v́ họ cất công cưới nàng về nên chi từ khi làm dâu cô ta càng được nuông ch́u, chẳng phải làm lụng, sướng hơn hồi c̣n con gái. Ngay sau khi đă lâm vào cảnh góa bụa, nàng vẫn c̣n dắt theo một đám kẻ hầu người hạ thăm núi nầy, viếng cảnh nọ, tự do sống xa hoa như thế. Người ngoài nh́n vào th́ thật là một cuộc đời không chút lo âu, c̣n người trong cuộc ngày ngày cứ thỏa măn sung sướng nên không cảm thấy có ǵ đáng nói. Đó là cuộc sống của O-Yuu ngày cha tôi mới gặp nàng lần đầu. Lúc đó cha tôi mới hăm tám, tôi th́ chưa ra đời và ông hăy c̣n độc thân. O-Yuu hăm ba tuổi. Theo lời cha tôi kể, chuyện xảy ra vào đầu mùa hè một hôm ông đi xem hát ở khu Dôtombori cùng với vợ chồng người em gái, tức là cô dượng tôi ; O-Yuu ngồi ở một lô ngay phía sau họ, đi cùng một người con gái tuổi độ mười sáu, mười bảy và một bà già, h́nh như là nhũ mẩu hay quản gia cùng với hai cô tớ gái. Ba người hầu cận này ngồi đằng sau cô và thay nhau lấy quạt để quạt mát cho cô. Cô tôi cúi đầu chào O-Yuu và khi cha tôi hỏi ai đó th́ được cho biết là cô dâu góa nhà Kayukawa. Thiếu nữ đi theo chính là em ruột nàng, cũng là con gái họ Kosobe. " Ba mới gặp đă mê liền ! " , cha tôi sau đó thường lập đi lập lại với tôi như vậy. Hồi thời đó, người ta lấy vợ lấy chồng rất sớm và trường hợp cha tôi, trưởng nam và kẻ thừa kế trong nhà, đă hai mươi tám tuổi mà hăy c̣n độc thân, chứng tỏ ông ta rất kén và đă từ chối tới tấp bao nhiêu đám người ta làm mai cho. Thiên hạ đồn và chuyện này thật ra cũng có là ông hay lui tới các pḥng trà và cho dầu ông cũng có một số liên hệ t́nh cảm với các cô ở đó nhưng ông không chịu lấy cô nào trong đám ấy làm vợ cả. Nói cách khác, cha tôi lại - nói sao cho đúng nhỉ - khá công tử hay quan cách, nên chỉ thích đàn bà có dáng dấp quí phái, kiểu các cô như tiểu thơ trong phủ đệ, lượt là áo choàng uchikake và bắt người ta đọc Truyện Ông Hoàng Genji cho nghe giữa trướng phủ màn che cơ ! Một cô geisha không thể nào được thế. Tại sao sở thích của ông lại có vẻ không dính líu ǵ với bối cảnh gia đ́nh thuộc tầng lớp buôn bán của ông ? Thật ra ngay ở Ôsaka, các gia đ́nh thuộc loại dân có cửa hàng trong khu Senba cũng bắt kẻ ăn người làm xử sự có lề lối, phép tắc. Họ hết sức chú trọng đến kiểu cách bề ngoài và ở nhiều điểm c̣n tỏ ra quí phái hơn gia đ́nh của một tiểu lănh chúa (daimyô). Điều này giải thích được tính nết của cha tôi, một người sinh ra trong môi trường như vậy. Dù sao di nữa, khi gặp O-Yuu lần đầu, cha tôi đă cảm thấy ngay nàng là mẫu người đàn bà mà ông mơ tưởng từ lâu. Tôi không biết cái ǵ đă làm cho t́nh cảm ấy đă nẩy ra trong ông, có thể là giọng nói của nàng khi nàng chuyện tṛ cùng với mấy người tùy tùng mà cha tôi đă nghe được v́ nàng ngồi ngay sau ông. Cũng có thể là trong cử chỉ và thái độ khác của nàng mà cha tôi đă bắt gặp được vẻ khoan thai của các mệnh phụ phu nhân. Trong các bức ảnh của nàng, ta thấy O-Yuu có đôi má tṛn căng, khuôn mặt bầu bĩnh như trẻ con, thế nhưng theo lời cha tôi kể, tuy nét mắt nét mũi của nàng thanh tú như mắt mũi của tất cả những người đàn bà đẹp nhưng mặt nàng lúc nào cũng như ch́m trong sương khói, đôi mắt, cánh mũi, khoé miệng đều có cái ǵ không rơ ràng như bao phủ bởi một tấm màn mỏng, xóa đi được những nét quá cứng và nhọn. Nếu người nào chăm chú nh́n vào đôi mắt nàng sẽ có cảm tưởng nó bị che mờ và một vầng sương mù như bao phủ lấy con người của nàng. Theo lời bố tôi, chữ " quí phái thanh lịch " mà ta thường thấy trong sách xưa đúng là để chỉ một khuôn mặt như vậy, đặc biệt nó nâng giá trị của " Yuu phu nhân " lên. Ông hẳn phải có lư do ǵ để suy luận như vậy. Những người đàn bà nào có khuôn mặt bầu bĩnh thường lâu già nhất là khi không bị những khổ cực của cuộc đời làm cho tàn héo, và nếu tin lời của cô tôi kể lại th́ nét mặt O-Yuu, trong khoảng thời gian nàng mười sáu mười bảy cho đến bốn sáu bốn bảy, không có một tí thay đổi, bao giờ cũng giữ nguyên vẻ tươi mát thanh xuân. Riêng cha tôi th́ ông bị thu hút trong lần gặp gỡ đầu tiên v́ những đường nét mơ hồ của khuôn mặt, v́ cái gọi là " thanh lịch đài các " ấy. Chỉ cần quan sát một tấm ảnh chụp O-Yuu và nhớ lại những sở thích của cha tôi th́ đă hiểu tại sao ông bị nàng thu hút như thế. Nói tóm lại, con người O-Yuu toát ra cái hương thầm của những con nộm Izukura (37) trong cung đ́nh xưa, vừa sặc sỡ lại vừa cổ kính, gợi cho ta nhớ đến h́nh ảnh của những phụ nữ đài các hay tiên nữ cung trăng mà ta không với tới được. Mùi hương đó đă thấm đượm vào từng nét mặt của O-Yuu. Cô tôi, em gái út trong nhà, bạn ngày c̣n bé của O-Yuu, nay lớn lên lại đi học cùng một lớp đàn koto, đă thuật cho cha tôi nhiều chi tiết mà cô được biết về gia thế, về thời thơ ấu, cuộc hôn nhân của O-Yuu. . . Nàng có nhiều anh chị em, ngoài cô em út mà nàng đưa đi xem hát cùng, hăy c̣n có các chị các em khác, thế nhưng chỉ có nàng được cha mẹ cưng yêu hơn cả, họ dành cho nàng mọi sự chiều chuộng và chấp nhận tất cả mọi sự khó tính của nàng. Có lẽ họ đối xử như vậy một phần là do sắc đẹp lộng lẫy của nàng so với mấy anh chị em ; những người này cũng coi O-Yuu như một sự tồn tại đặc biệt bên cạnh họ và xem chuyện nàng được cha mẹ ưu đăi như một việc tự nhiên. Hay nói như cô tôi " Số O-Yuu nó có phước ! ". O-Yuu không đ̣i hỏi thiên hạ cung phụng ḿnh, nàng cũng không kênh kiệu kiêu kỳ chút nào ; thế mà những người chung quanh lúc nào cũng t́m cách đỡ đần để nàng khỏi phải cực khổ. Họ chăm chút và lo lắng cho nàng như đối với một cô công chúa. Ai cũng muốn hy sinh bản thân để cho nàng khỏi phải chịu những sóng gió cuộc đời. Tính t́nh O-Yuu làm cho cả thảy - từ cha mẹ, anh chị em cho đến bạn bè và những người tiếp xúc với nàng - ai ai cũng đối xử với nàng cùng một cách. Khi cô tôi c̣n là một thiếu nữ, bà có đến nhà họ chơi và cũng chứng kiến việc O-Y Yuu được nâng niu như ḥn ngọc quí của gia đ́nh Kosobe. Họ không để cho nàng phải đụng tay vào việc nhà, các chị em khác thiếu điều hầu hạ nàng như thể họ là những con sen và xem chuyện đó không có ǵ đáng kể. Trong khi ấy, O-Yuu, đối tượng của sự nuông ch́u, cũng tiếp nhận sự chú ư về ḿnh một cách ngây thơ. Khi được nghe từ cô em gái những tin tức về O-Yuu, cha tôi càng yêu nàng thêm lên, nhưng sau đó, thời gian tuy trôi qua mà cha tôi chẳng tạo ra được cơ hội thuận tiện nào cả. Cho đến một ngày nọ, cô tôi biết được O-Yuu đang chuẩn bị tham dự một buổi tŕnh tấu đàn koto, mới đến báo tin cho cha tôi. Cô tôi lại đề nghị nếu ông muốn gặp, cô sẽ tháp tùng. Hôm ấy O-Yuu tóc láng mượt, mặc áo khoác uchikake dành cho ngày hội, và sau khi đốt trầm, mới đánh bản Yuya (38). Cho cả đến ngày nay, khi muốn tŕnh tấu một số tác phẩm cần có sự cho phép đặc biệt (39) trước của bậc thầy, người ta thường tổ chức một buổi ra mắt cực kỳ tốn kém và đ̣i hỏi một chi phí kết xù, cho nên những người thầy hay đề nghị những đệ tử giàu có nhất trong đám học tṛ của ḿnh chơi những tác phẩm chọn lọc ấy. Để tiêu khiển, O-Yuu đă theo học một khóa đàn koto và có lẽ đă được thầy ḿnh đề nghị tŕnh diễn bản đó. Tôi là người từng nghe nàng hát cho nên tôi có thể, như đă thưa trước, đánh giá được phẩm chất của tiếng hát đến độ, sau khi đă biết về con người của nàng, tôi chỉ cần ngồi nhớ lại về tiếng hát đó để cảm thấy thêm một lần nữa tất cả chiều sâu của nó . Cha tôi lần đầu trong đời được nghe nàng hát và đệm koto, tỏ ra rất xúc động, Ông cũng ngạc nhiên thích thú khi thấy nàng mặc cái áo khoác kiểu cung đ́nh dành cho ngày hội ; như thế giấc mơ mà ông ấp ủ từ bấy nay đă được thực hiện đến nổi ông vừa sung sướng, vừa nghi ngờ cả cặp mắt ḿnh. Buổi tŕnh diễn chấm dứt, cô tôi đi kiếm O-Yuu lúc ấy c̣n ở trong buồng tṛ, nàng vẫn mặc chiếc áo ngày hội đó. Nàng giải thích cho cô tôi là nàng không quan tâm cho lắm về năng lực tŕnh diễn của ḿnh nhưng luôn luôn thèm có dịp khoác chiếc áo kia, cho dù chỉ một lần thôi. Nàng c̣n muốn người ta chụp cho ḿnh một bức ảnh trong chiếc áo uchikake trước khi thay đổi trang phục. Khi cha tôi nghe nói về những ước muốn của O-Yuu, ông rất vui v́ thấy ḿnh và nàng ta có chung một sở thích. Tự nhủ nếu không lấy được O-Yuu ông sẽ không lấy ai khác và nàng chính là người trong mộng từ bấy lâu nay, ông mới thổ lộ một cách kín đáo điều đó với cô tôi. Thông cảm với ước nguyện của ông anh nhưng lại biết rơ hoàn cảnh O-Yuu, cô tôi đành khuyên ông từ bỏ cái giấc mơ không bao giờ có thể thực hiện được. Cô tôi cho biết nếu không có chuyện con cái dính vào thời không sao nhưng O-Yuu lại có một mụn con trai c̣n non nớt và đang có trách nhiệm nuôi dạy nó. Hơn nữa, cậu bé đó là người nối dơi tông đường và gia đ́nh đang đặt tất cả kỳ vọng trên vai cậu ấy. Không thể nào họ cho phép nàng xa con và từ bỏ gia đ́nh Kayukawa ra đi. Không những nàng c̣n bà mẹ chồng, tuy mẹ ruột của nàng đă qua đời nhưng ông bố hăy mạnh khoẻ. Nếu những người trưởng thượng nầy để nàng được tự do thoải mái cho đến nay bởi v́ họ tội nghiệp số phận góa bụa của nàng và muốn giúp nàng khuây khỏa trong kiếp sống cô đơn ; bù lại, đó cũng là một h́nh thức họ đ̣i hỏi nàng phải suốt đời ở vậy nuôi con. O-Yuu hiểu rơ điều đó nên cho dù nàng tận hưởng những thú vui lộng lẫy xa hoa nhưng không bao giờ làm ǵ để thiên hạ có thể đàm tiếu về hành vi của ḿnh. V́ lẽ đó, cô tôi mới đi đến chỗ phỏng đoán là nàng sẽ không bao giờ bước đi bước nữa. Thế nhưng cha tôi không chịu lùi, ông cứ nài nỉ cô tôi làm thế nào cũng phải dàn xếp để ông đôi lúc gặp được O-Yuu. Ông c̣n cho cô tôi biết chỉ cần gặp mặt nàng một đôi khi thôi là đă thỏa ḷng. Trước sự ỉ ôi của cha tôi, cô tôi không nỡ nào từ khước cái giải pháp thứ hai nầy nhưng v́ cô tôi và O-Yuu tuy quen thân tự ngày c̣n bé, lớn lên lại trở thành xa cách nên chuyện cha tôi nhờ cũng không phải dễ thực hiện. Do đó, sau khi nghĩ đi nghĩ lại, cô tôi bàn với anh là chi bằng ông chịu khó đi hỏi cô em gái út của O-Yuu làm vợ. Nếu việc cầu hôn O-Yuu gặp nhiều cản trở th́ việc tiến tới với cô em xem ra không có vấn đề ǵ. Cô em này tên O-Shizu, người con gái mà O-Yuu đă dẫn theo khi đi xem hát. Một cô em khác, lớn hơn O-Shizu th́ đă có nơi có chốn trong khi O-Shizu mới vừa đến tuổi lấy chồng . Cha tôi đă được thấy mặt nàng trong buổi xem hát nên lời khuyên của cô tôi đă làm ông suy nghĩ. Không thể bảo O-Shizu không đẹp, nét mặt của cô ta có khác O-Yuu nhưng dù sao họ cũng là chị em, nh́n mặt cô cũng hao hao giống bà chị. Có cái hơi buồn một chút là, so với chị, cô ấy thiếu dáng dấp " đài các thanh lịch ", một đặc điểm chỉ có nơi O-Yuu. Nếu cô ấy đứng một ḿnh th́ không ai nhận ra điều ǵ cả nhưng khi cô ở cạnh chị th́ người ta cảm thấy như một người thị nữ đứng bên cô công chúa. Nếu O-Yuu và O-Shizu không phải là hai chị em th́ có thể kế hoạch hôn nhân này không có lư do ǵ để được đặt ra ; nhân v́ O-Shizu là em gái út của O-Yuu, họ có chung ḍng máu cho nên cha tôi mới có cảm t́nh luôn cả với cô. Tuy nhiên v́ yêu cô chị mà nhẫn nhục đến mức đi cưới cô em không phải là một quyết định dễ dàng đối với cha tôi. Trước hết, nếu đă rắp tâm cô chị như thế mà đi cưới cô em th́ ông thành ra không tốt với O-Shizu, hai là ông muốn cảm t́nh dành cho O-Yuu được trọn vẹn và không gợn lấy một điều ǵ để được măi măi trung thành với người vợ mà ông đă âm thầm cưới trong tâm tưởng. Việc kết hôn với một người đàn bà khác, cho dẫu là em gái nàng, sẽ làm đầu óc ông mất đi sự thanh thản. Nhưng mặt khác, khi nghĩ lại, ông thấy nếu ḿnh cưới cô em th́ sẽ có nhiều dịp gặp gỡ và tṛ chuyện với nàng. Trong trường hợp ngược lại, suốt đời ông chỉ có thể bằng ḷng với đôi lần gặp gỡ t́nh cờ. Nghĩ thế, đầu óc cha tôi rối bời. Trong khi cha tôi tiếp tục khổ tâm như vậy th́ rốt cục, một buổi lễ coi mắt đă được tổ chức cho ông để gặp O-Shizu. Thật ra, lúc đó cha tôi hăy dùng dằng chưa quyết ḿnh có nên hỏi O-Shizu làm vợ hay không, và buổi lễ coi mắt này, đối với ông chỉ là một dịp may, dầu chỉ là một, để gặp lại O-Yuu mà thôi. Cái đ̣n của cha tôi như thế mà lại thành công v́ O-Yuu lúc nào cũng đến dự những buổi lễ coi mắt hay hội họp trong gia đ́nh. Phía nhà Kosobe v́ bà mẹ đă qua đời và O-Yuu trong cảnh hiện tại là người có nhiều thời giờ rảnh nên O-Shizu một tháng có thể sang ở chơi bên nhà Kayukawa hai tuần, đến độ người đằng đó coi cô như con cái trong nhà. Tự nhiên là O-Yuu xuất hiện thường xuyên trong mọi dịp liên quan đến cuộc đời cô em gái, điều đó đối với cha tôi là một dịp may ngoài sức tưởng tượng. V́ tự buổi đầu mục đích của cha tôi chỉ có thế nên ông t́m cách kéo dài sự việc, xin gặp một lần thứ hai, rồi lần thứ ba, dây dưa khoảng sáu tháng trời rồi mà câu chuyện cưới xin vẫn chưa ngả ngũ. Trong khi ấy, O-Yuu bắt đầu lui tới thường xuyên nhà cô tôi để bàn bạc. Khoảng thời gian nầy, nàng có dịp chuyện tṛ với cha tôi và dần dần hiểu thêm về con người ông. Thế rồi một hôm, nàng mới hỏi cha tôi :
®
"Khi phát hành lại thông tin từ trang này cần phải có sự đồng ư
của dịch giả .......... |