Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

Kawabata Yasunari ( Wikipedia)
Chú ư:
Chỗ in đậm là các tác phẩm tương đối dài hay thường được biết tới)
1899 (Meiji 32) Ra đời ở
thành phố Ôsaka, khu Tenma Kotohana. Bố tên Eikichi, một y sĩ. Ông
này học Nho, biết làm thơ chữ Hán, biết vẽ theo truyền thống văn
nhân (Bunjinga), lại yêu thích văn học. Mẹ tên Gen, bà vốn là con
gái họ Kuroda. Kawabata c̣n có một người chị tên Yoshiko.
1900 (1 tuổi) Bố mất. Về nhà ngoại ở quận Mishima trong
thành phố Ôsaka.
1901 (2 tuổi) Mẹ mất. Lại về chánh quán ông bà nội ở
làng Toyokawa cũng thuộc quận Mishima. Chị là Yoshiko được giao
cho một bà cô nuôi nhưng khoảng 7, 8 năm sau th́ chết trẻ.
1906 (7 tuổi) Học tiểu học ở Toyokawa. Bà nội mất. Từ
đó, sống với ông nội trong ṿng 9 năm.
1912 (Meiji 45 - Taishô 1) (13 tuổi) Theo học Trung học
Ibaraki ở Ôsaka.Lúc học tiểu học Kawabata muốn theo nghề vẽ nhưng
lên lớp cao hơn th́ mê đọc sách. Năm thứ hai trung học, định trở
thành tiểu thuyết gia.
1914 (15 tuổi) Mùa hè năm này, ông nội mất.Từ đó về ở
với người chú cũng sống trong làng Toyokawa.
1915 (16 tuổi) Tháng giêng, vào ở trong Kư túc xá Trung
học Ibaraki cho đến khi tốt nghiệp.
1916 (17 tuổi) Theo học bạn cùng lớp Shimizu Masaaki,
người cũng có chí hướng trở thành nhà văn. Gửi truyện ngắn và đoản
văn cho tạp chí Danran (Sum họp) của tỉnh nhà. Truyện ngắn ấy nhan
đề “Đám tang của thày Kuraki” (Kuraki sensei no sôshiki).
1917
(18 tuổi) Tháng 3, rời Ôsaka lên Tôkyô ngay sau khi tốt nghiệp
trung học Ibaraki. Ở nhờ nhà người anh em họ trong xóm Kuramae
thuộc khu vực Asakusa. Học thi và ghi danh ở trường luyện thi của
Đại học Meiji. Đến thấng 9 th́ được nhận vào trường Dự Bị Đại Học
(Ichi-Kô) ban Anh văn. Được người anh em họ giới thiệu với nhóm
nhà văn tân tiến của Tạp chí Mita.
Suốt 3 năm ở Ichi -Kô, chỉ sống trong kư túc xá nhà trường. Đọc
nhiều sách về văn học Nga.
1918 (19 tuổi) Mùa thu, đi chơi vùng bán đảo Izu và
trên đường, làm quen với một đám con hát rong (tabi-geinin). Từ
đó, trong ṿng 10 năm, năm nào cũng xuống quán trọ Yumoto ở suối
nước nóng Yugashima. Có khi một năm đă ở đấy hết hơn 6 tháng.
1919 (20 tuổi) Đăng Chiyo (Nàng Chiyo) trên tạp chí
trường Ichi-Kô.
1920 (21 tuổi) Tháng 3, ông tốt nghiệp Ichi–Kô. Tháng
4, nhập học ban văn chương Anh Đại
học Đế Quốc Tôkyô (nay là ĐH Tôkyô). Cùng với nhóm bạn cũ từ
Ichi-Kô (Ishihama Kinsaku, Sakai Masato, Suzuki Ganjirô) cộng thêm
Kon Tôkô dự định tái băn tạp chí Shinshichô (Tân tư trào). V́ việc
đó, phải đến thăm nhà đàn anh Kikuchi Kan để được sự đồng ư. Từ
đó, giữa hai người sẽ có một mối liên hệ mật thiết.
1921 (22 tuổi) Shinshichô bộ thứ 6 ra đời. Tháng 4, ông
chuyển từ khoa Anh qua khoa Quốc văn. Được Kikuchi Kan giới thiệu
với Yokomitsu Riichi, Kume Masao, Akutagawa Ryuunosuke. Đăng “Một
cảnh lễ chiêu hồn (Shôkonkai no ikkei) trên Shinshichô bộ mới số 2
và được đánh giá tốt. Tháng 7, đăng “Dầu” (Abura) trên Shinshichô.
Qua tháng 12, lần đầu tiên nhận 10 Yen nhuận bút với “Tác phong
của ông Nambu” (Nambu-shi no sakufuu).
1922 (23 tuổi) Tháng giêng, bắt đầu dịch truyện ngắn
của Anton Tchekov và John Galsworthy cho tờ Bunshô Kurabu (Câu lạc
bộ viết văn). Sau đó viết phê b́nh văn nghệ cho tờ Jiji Shimpô
(Thời sự tân báo) rồi nhân đó mà trên 20 năm, đă theo đuổi công
việc phê b́nh. Tháng 7 viết “Luận về cách viết của các nhà văn
hiện đại” (Gendai sakka no bunshô wo ronzu), “Một khuynh hướng của
nhà văn Satomi Ton” (Satomi Ton-shi no hitotsu keikô) (đăng trên
Shinchô, số tháng 7 và 8).
1923 (24 tuổi) Tháng 1, Kikuchi Kan lập ra tạp chí
Bungei Shunjuu (Văn nghệ xuân thu), Ông cùng 4 bạn văn ở
Shinshichô bèn tham gia. Ông viết cho số đầu của nó “Nỗi u uất của
Lâm Kim Hoa” (Rinkinka no yuu-utsu), tác phẩm sau này sẽ được đưa
vào tập Băng chị em son phấn ở Asakusa (Asakusa Kurenaidan).
Tháng 5, đăng Tay đưa đám ma lành nghề (Sôshiki no meijin) cũng
trên báo ấy. Tháng 7, đăng một phần của Lửa phương Nam (Nampô no
hi). Mồng 1 tháng 9, xảy ra trận địa chấn lớn khu vực Kantô nhưng
ông may mắn vô sự. Tháng 11 viết Luận về bút pháp mới (Shin
Bunshôron)
1924 (25 tuổi) Tháng 3, tốt nghiệp khoa Quốc văn Đại
học Tôkyô. Viết Kagaribi (Lửa tuần đêm) và Chúng tôi nghĩ thế nào
về văn đàn hiện tại (Wareware wa kisei bundan wo ikani miru ka).
Tháng 9, cùng với khoảng 20 nhà văn, tham gia nhóm Bungei Jidai
(Văn nghệ thời đại) -tạp chí vận động cho phong trào Tân Cảm
Giác.Tháng 11, đăng tập đầu của thể loại tiểu thuyết trong ḷng
bàn tay (Tenohira no shôsetsu) dưới tên Đoản biên tập (Tambenshuu)
trên Bungei Jidai và tác phẩm Chuyện bất ngờ (Hijô) trên Bungei
Shunjuu.
1925
(26 tuổi) Tháng giêng đăng Bàn về văn học văn đàn
(Bundan
bungakuron). Tháng 2 viết Lá rụng và bố mẹ (Ochiba to fubo) sau
đổi tên thành T́nh cảm trẻ mồ côi (Koji kanjô) đăng trên tạp chí
Shinchô. Tháng 3 viết Tŕnh bày về trường phái Tân cảm giác
(Shin-kankaku ha no ben). Tháng 8 đăng tự truyện Nhật kư năm 16
tuổi (Juurokusai no nikki) trên Bungei Shunjuu. Thấng 11 và 12
lần lượt đăng tập 2 và 3 của Tiểu thuyết trong ḷng bàn tay trên
Bungei Shunjuu. Cùng năm, đi chơi Yugashima ở Izu và lưu lại ít
lâu.
1926 Taishô 15 – Shôwa 1 (27 tuổi) Tháng 2, cho ra mắt
Cô đào miền Izu (Izu no odoriko) trên Bungei Jidai. Qua
tháng 4, đăng Tập thứ 4 của truyện ngắn trong ḷng bàn tay trên
Bungei Shunjuu.Tháng 6, tập hợp những tác phẩm đầu tiên thành
Điểm tô t́nh cảm: 36 thiên tiểu thuyết trong ḷng bàn tay (Kanjô
shôshoku -Tenohira no shôsetsu 36 hen) do nhà Kinseidô (Kim
tinh đường) xuất bản. Lại viết Konrei to sôrei (Hôn lễ và Tang
lễ).
1927
(28 tuổi) Tháng 3, từ Yugashima về lại Tôkyô, mướn nhà ở xóm
Kôenji. Biên tập lại Izu no odoriko, cũng giao cho Kinseidô xuất
bản. Cùng khoảng 20 bạn văn cho ra đời Tạp chí chuyên về tùy bút
mang tên Techô (Sổ tay), được cơ sở Bungei Shunjuu phát hành.Tháng
5, in Tuyển tập thứ 5 các truyện ngắn trong ḷng bàn tay (do
Bungei Shunjuu). Tháng 12, mướn biệt thự ở Atami và dọn về đấy.
Năm đó, tham gia phong trào điện ảnh trường phái Tân Cảm Giác
(Shinkankaku)
với Kishida Kunio, Kataoka Teppei, Yokomitsu Richi và đạo diễn
Kinugasa Teinosuke. Kawabata viết kịch bản cho phim Một trang điên
(Kurutta Ichipêji) nhưng nhóm bạn này chỉ làm xong cuốn phim này
th́ ngừng hoạt động.
1928 (29 tuổi) Tháng 5, nghe theo lời khuyên của nhà
văn đàn anh Ôzaki Shirô, lại đổi nhà về Ômori Umagome như ông ta.
Viết “Quyển sách của người chết” (Shisha no sho)
1929
(30 tuổi) Đăng Kẻ cung cấp xác chết (Shitai no shôkainin, tháng 4)
và tiếp theo đó là Xác chết phục thù (Shitai no fukushuu, tháng
8). Tháng 8 năm sau lại viết Tiếng chân người đêm canh xác (Tsuuya
no ashioto). Tháng 8, nhà Heibonsha phát hành “Toàn tập các truyện
đặc sắc của Kawabata” (Kawabata Yasunari-shuu) và được biết tới
như một tác gia tân tiến. Tháng 10 lại dọn về Ueno Sakuragicho gần
công viên Asakusa. Quen biết với các nữ vũ công của rạp Casino
Follies gần đó.Viết “Một phong cách sống của thời đại và một phong
cách miêu tả (Aru jidai no jifuu to gafuu) đăng trên Bungei
Shunjuu. Cùng với hai bạn Yokomitsu Riichi và Inukai Ken tham gia
tạp chí Bungaku (Văn học) của nhóm Yoshimura Tetsutarô, Hori
Tatsuo, Fukada Hisami và Nagai Tatsuo, Từ tháng 12, đăng Asakusa
Kurenaidan (Băng chị em son phấn ở Asakusa)
nhiều kỳ trên nhật báo Tôkyô Asahi.
1930 (31 tuổi) Tháng 4 đăng Tấm ảnh có hoa (Hana aru
shashin) trên Bungei Jidai. Nxb Shinchô in và phát hành Mẫu thí
nghiệm của tôi: 47 truyện ngắn trong ḷng bàn tay (Boku no
hyôbonshitsu: tenohira no shôsetsu 47 hen). Tháng 5 đăng Cô
đào hát và cái chết của Onikuma (Onikuma no shi to odoriko) trên
tờ Kaizô (Cải tạo), tháng 7 đăng Truyện kiểu Mỹ về ông vua phong
linh (Fuurin kingu no America-banashi) trên tạp chí Chuô Kôron.
Tháng 10, ra mắt tuyển tập Hana aru shashin (trong Tùng thư của
các nhà văn tân tiến do Nxb Shinchô). Tháng 11 đăng Cây kim, thủy
tinh và sương mù (Hari to garasu to kiri) trên Bungaku Jidai. Đến
tháng 12 th́ Asakusa Kurenaidan được Nxb Senshinsha (Tân tiến xă)
phát hành. Nhân Kikuchi Kan trở thành Giám đốc Viện văn học,
Kawabata được mời làm giảng sư ở đó. Cùng lúc, với Nakamura Murao
(1886-1949), tham gia Câu lạc bộ 13 người. Cũng là thành viên nhóm
Kindai Seikatsu (Sinh hoạt cận đại).
1931 (32 tuổi) Tháng 1, đăng Huyễn tưởng pha lê
(Suishô gensô) trên Kaizô và phần kế tiếp nhan đề Kagami
(Kính) cũng trên tạp chí này vào tháng 7. Từ tháng 1, đăng 2 bài
về xóm Asakusa gồm Asakusa Nikki (Nhật kư Asakusa) trên Tuần san
Asahi và Asakusa no onna (Người đàn bà ở Asakusa) trên Shinchô.
Tháng 4, Nxb Kaizô phát hành Tuyển tập Kawabata như một phần của
bộ Nhật Bản cận đại văn học toàn tập. Tháng 10 đăng Hoa thủy tiên
(Suisen) và tháng 12 đăng Lá rụng (Ochiba) đều trên tạp chí
Shinchô.
1932 (33 tuổi) Tháng giêng, Nxb Shunyôdô (Xuân Dương
Đường) lại in Tuyển tập của ông như một bộ phận của Toàn tập các
nhà văn thế hệ Meiji Taishô. Tháng 4 đăng Cô đào hát (Odoriko)
trên Bungei và tháng 6 đăng Mùa hè (Natsu) trên Bungei Shunjuu.
Cũng vào tháng 4, Nxb Kaizô xuất bản tập truyện ngắn có Huyễn
tưởng pha lê (đă nói bên trên). Tháng 5, đăng Tự truyện văn học
(Bungakuteki Jiden) trên Shinchô. Từ tháng 9 trở đi, đăng Lễ hội
Asakusa (Asakusa-sai) nhiều kỳ trên Bungei. Tháng 12, Shôchiku
Shobô (Tùng trúc thư pḥng) cho ra mắt Khúc t́nh ca (Chojôka).
1935
(36 tuổi) Tháng 1, đăng Tấm kính cảnh sắc buổi chiều (Yuukeishiki
no kagami, 1/1935) tức phần đầu của Yukiguni (Xứ Tuyết)
trên Bungei Shunjuu. Từ đó là các phần sau của nó như Tấm kính
buổi sáng trắng (Shiroi asa no kagami, 1/1935) trên Kaizô, Câu
chuyện kể (Monogatari, 11/1935) và Hoài công (Torô, 12/1935) trên
tờ Nihon Hyôron (Nhật Bản b́nh luận).
Tháng 5, viết Tuồng hát nhà quê (Inaka shibai) để đăng trên Chuuô
Kôron. Chim muông (Kinjuu) cũng được Nxb Noda Shobô phát
hành vào lúc này. Tháng 6 cho đăng Phản ứng trước chủ trương tiểu
thuyết thuần túy (Junsui shôsetsuron no hankyô) trên Bungei
Shunjuu. Tháng 7, đăng tùy bút Tiếng nói thuần túy (Junsui no koe)
trên mặt báo phụ nữ Fujin Kôron. Tháng 9, dược mời làm giám khảo
giải Akutagawa đúng vào dịp hai giải thưởng văn học Akutagawa và
Naoki được cơ sở Bungei Shunjuu của Kikuchi Kan thiết lập. Tháng
10, đăng Những bài đồng dao (Dôyô) trên tờ Kaizô.
1936
(37 tuổi) Tháng 1, đăng Chuyến đi Ư (Italia no tabi) trên tờ Kaizô
và Khi nh́n tận mắt (Kore wo mishitoki) trên Bungei Shunjuu.Tháng
tư, đăng Điệu luân vũ của hoa (Hana no warusu) trên Kaizô. Phần kế
tiếp của Hana no Warusu là Saigo no odori hay Vũ khúc cuối sẽ được
đăng trên Bungei tháng 1 năm sau. Tháng 10, đăng Bố mẹ (Fubo) trên
Kaizô và tháng 12 đăng Mở mắt bạn gái (Josei kaigen)
thành nhiều kỳ trên nhật báo Hôchi. Ra mắt tuyển tập truyện ngắn
Hana no warasu (Nxb Kaizô). Năm này, theo lời mời của nhà văn
Hayashi Fusao, Kawabata về Kamakura làm bạn láng giềng rồi tiếp
tục sống ở đấy măi.
1937 (38 tuổi) Tháng 6, cùng với Tấn kịch đời người:
phần Tuổi xuân (Jinsei gekijô: Seishunhen) của Ôzaki Shirô,
Yukiguni nhận giải thưởng của Hội các nhà phê b́nh (Bungei
Konwakai). Tháng 7, Nxb Shôchiku Shobô xuất bản cho ông Tuyển tập
truyện ngắn nhan đề Ḷng người thiếu nữ (Musumegokoro).
Tháng 11, Josei kaigen cũng được Nxb Sôgensha in thành sách.
1938 (39 tuổi) Tháng 1, đăng Hoa tươi (Seika) trên Chuô
Kôron và vào tháng 4, đăng Khối vàng (Kinkai) trên Kaizô. Tháng 6,
đi xem trận đấu cuối cùng của cao thủ cờ vây Hon.inbô Shuuya trước
khi ông này giải nghệ.Tháng 12, thuật lại kỷ niệm về trận đấu trên
các báo ở Tôkyô và Ôsaka. Tháng 7, Nxb Kaizô đúc kết văn chương
Kawabata cho đến lúc đó trong Toàn tập 9 quyển. Tháng 10, đăng
Thầy Bách Nhật Đường (Hyakunichidô sensei) trên Bungei Shunjuu.
Tháng 11, Nxb Iwanami in cho ông Tuyển tập truyện Khúc t́nh ca
(Chojôka). Tháng 12, đăng Cao nguyên (Kôgen) trên báo Nihon
Hyôron, phần tiếp nhan đề Căn nhà cây bách (Momi no ie) sẽ được
đăng tiếp vào tháng 12 năm sau trên tờ Kôron.
1939 (40 tuổi) Mùa đông, sống ở Atami. Nxb hội cờ vây ở
đó nhân đấy có in một tập truyện ngắn của ông.Kawabata là một
người hiểu rơ về cờ vây.
1940 (41 tuổi) Từ tháng 1 đến tháng 12, lần lượt đăng
trên Chuô Kôron một loạt các truyện ngắn Mối t́nh đầu của mẹ
(Haha no hatsukoi), Người đến giữa chiêm bao (Onna no yume),
Lá thư về một nốt ruồi (Akusai no Tegami / Hokuro no tegami),
Tiếng gieo xúc xắc trong đêm (Yoru no saikoro), Bé gái trên con
tàu tốc hành (Tsubame no dôjo), Vợ chồng êm ấm (Fuushôfuwa), Một
đứa con (Kodomo hitori), Người đi (Yuku hito), Ngày cuối năm
(Toshi no kure). Chín tác phẩm này sẽ được Nxb Shinchô tập hợp để
in thành tập Những người yêu nhau (Aisuru hitotachi) vào
năm sau. Tháng 2, Điệu luân vũ của hoa được Shin chô chọn đăng
trong tuyển tập Những truyện hay thời Shôwa. Tháng 12, Nxb
Shinseikaku (Tân thanh các) in cho ông tập truyện ngắn nhan đề Ba
ngày Tết (Shôgatsu sankajitsu).
1941 (42 tuổi) Tháng 1, đăng Mắt giả (Gigan / Ireme)
trên Bungei Shunjuu và Gió lạnh (Kanfuu) trên Kaizô. Các phần tiếp
theo của nó là Truyện xảy ra vào mùa đông (Fuyu no koto) được đăng
vào tháng 2 trên Kaizô, Chân đỏ (Akai ashi) cũng trên Kaizô vào
tháng 4 năm sau. Nhận lời mời của Măn châu nhật nhật tân văn (=
Mỗi nhật tân văn, Mainichi), cùng hai bạn văn sang thăm Măn châu
từ mùa xuân cho đến đầu hè. Rời đoàn ở Harbin (tỉnh Hắc Long
Giang), sang Thừa Đức (Nhiệt Hà) rồi Bắc Kinh rồi về nước qua ngơ
Đại Liên. Đầu thu, lại được quân Quan Đông (quân Nhật trú pḥng
Măn Châu) mời qua đó, đi cùng với một số nhà văn khác đến Phụng
Thiên, Bắc Kinh, Đại Liên...Về đến Nhật được vài hôm th́ Chiến
tranh Thái B́nh Dương (1941-45) bộc phát.
1942 (43 tuổi) Tháng 4, ra mắt tập tùy bút Văn chương
(Bunshô) (Nxb Tômine) và một Tuyển tập gồm 3 danh tác của ḿnh
(Nxb Kawade). Tháng 7, in Tuyển tập Cao nguyên (Kôgen). Tháng 8,
cùng các văn hữu Shimazaki Tôson, Shiga Naoya, Satomi Ton, Takii
Kôsaku, Takeda Rintarô tham gia quí san (tập san ra mỗi năm 4 số)
nhan đề Yakumo (Tám tầng mây). Nhân dịp này quen biết với Shiga.
Đă đăng Cao thủ cờ vây (Meijin) bản sơ khởi trong số báo
đầu của quí san
1943 (44 tuổi) Tháng 3, đăng Tên cha (Chichi no na)
trên Bungei. Tháng 4, đăng Quê nhà (Koen) trên Bungei cho đến
tháng 2 năm sau nhưng không kết thúc. Tháng 8 và tháng 12, chia ra
và đăng làm 2 lần Yuuhi (Ánh trời chiều) trên tạp chí Nihon
Hyôron.
1944 (45 tuổi) Tháng 7, đăng Một lá cỏ, một cánh hoa
(Issô ikka). Năm này, hai tác phẩm Meijin và Koen giúp ông đoạt
Giải Kikuchi Kan.
1945 (46 tuổi) Tháng 4 làm phóng viên cho Hải quân đi
thăm các phi trường vùng Kagoshima trong ṿng 1 tháng. Đăng Khúc
nhạc mùa đông (Fuyu no kyoku) trên Bungei. Cũng trong năm này, hợp
tác với các bạn văn như Kume Masao, Nakamura Yoshihide, Takami Jun
mở văn pḥng cho mượn sách tên là Kamakura văn khố (Kamakura
Bunko) ở Kamakura. Sau chiến tranh, nhóm này sẽ hợp tác để thiết
lập một cơ sở xuất bản cùng tên.
1946 (47 tuổi) Tháng giêng, cơ sở Kamakura Bunko lập ra
Tạp chí Ningen (Con người). Kawabata phụ trách biên tập.Tháng 2,
đăng Tái ngộ (Saikai) trên tờ Sekai. Phần tiếp của nó là Quá khứ
(Kako) th́ đăng trên Bungei Shunjuu vào tháng 7. Tháng 2, đăng
Chuyện lặt vặt (Sôwa) trên Shinchô và tập truyện ngắn Asagumo (Mây
buổi sáng) được Nxb Shinchô ấn hành. Tháng 5 đăng “Tadeda Rintarô
và Shimaki Kensaku” (tên hai văn hữu) sau đó đến Gió và tuyết
(Fuusetsu) liên tiếp tận tháng 3/1949 trên tạp chí Ningen. Tháng
12, đăng Hoa sơn trà (Sazanka) trên Shinchô.
1947 (48 tuổi) Năm này, tiếp tục phụ trách tờ Ningen.
Tháng 7, bản cập nhật của Mở mắt bạn gái (Josei kaigen) được Nxb
Eikôsha xuất bản. Tháng 10, đăng Cây cầu vồng (Sorihashi) và tháng
12, Mộng (Yume).
1948 (49 tuổi) Tháng 1, đăng Shigure (Mưa rào cuối năm)
trong số khai trương của Tạp chí Bungei Ôrai, Bà góa (Mibôjin)
trên Kaizô và Kẻ tái hôn (Saikonsha) trên Shinchô. Tháng 5, đăng
Những năm mới lớn (Shônen) trên tờ Ningen. Từ năm này cho
đến 1954, Nxb Shinchô lần lượt xuất bản toàn tập Kawabata Yasunari
gồm 16 quyển. Tháng 6, trở thành Hội trưởng Pen Club Nhật Bản sau
khi Shiga Naoya từ chức.Tháng 11, nhân dự khán phiên ṭa xử tội
phạm chiến tranh, viết Những ông lăo trong Phiên ṭa Tôkyô (Tôkyô
saipan no rôjintachi).Tháng 12, bản Xứ Tuyết hoàn chỉnh được Nxb
Sôgen ấn hành.
1949
(50 tuổi) Tháng 1, hai truyện Chim cưỡng (Kakesu) và Mùa đông gần
kề (Fuyu chikashi) được đăng trên Kaizô Bungei.Tháng 4, Truyện ở
Sumiyoshi (Sumiyoshi Monogatari) được đăng trên Kosei. Từ tháng 5
bắt đầu đăng Ngàn cánh hạc
(Sembazuru)
Tháng 9 khởi đăng phần đầu Tiếng rền của núi (Yama no oto)
trên tờ Kaizô Bungei.
Tháng 10, đăng Hốt cốt (Hone-hiroi) trên Bungei Ôrai. Tháng 11,
theo lời mời của thành phố Hiroshima, cùng phái đoàn Pen Club đến
thăm các nạn nhân bom nguyên tử. Tháng 12, Nxb Toyokawa ấn hành
Tuyển tập truyện ngắn và tùy bút nhan đề Sầu thương (Aishuu). Cũng
vào năm này, Tạp chí Kaizô lập giải thưởng Yokomitsu Riichi
(1898-1947) và Kawabata được mời vào ban giám khảo. Cùng lúc, cơ
sở Bungei Shunjuu phục hồi lại Giải Akutagawa vốn bị đứt đoạn và
ông cũng trở lại làm nhà tuyển khảo cho giải này.
1950 (51 tuổi) Tháng 2, đăng Con cầu tự (Tenju no ko)
và phần tiếp theo nhan đề Ḥn ngọc pha lê (Suishô no tama) trên tờ
Bungakukai. Tháng 3, đăng Niji ikutabi (Mấy độ cầu vồng mọc) trên
Fujin Seikatsu và kéo dài đến tháng 4 năm sau. Đến tháng 4, cùng
các hội viên Pen Club đến thăm nạn nhân bom nguyên tử ở Hiroshima
và Nagasaki. Tháng 5 đăng Địa ngục (Jigoku) trên Bessatsu Bungei
Shunjuu. Tháng 12, đăng Từ biển Bắc (Kita no umi kara) cũng với
báo ấy và Nữ vũ công (Maihime) trên nhật báo Asahi (tất cả
là 109 hồi).
1951
(52 tuổi) Tháng 1, đăng Ṿng đeo cổ (Kubiwa) trên Shinchô, Louis
(Rui) trên Chuô Kôron, tháng 5 đăng Tiếng ngọc chạm / Một thoáng
(Tamayura) trên Bessatsu
Bungei Shunjuu. Tháng 7, Nhật báo Asahi xuất bản Maihime. Tháng 8,
đăng Tín điều của tôi (Watashi no shinjô) trên Sekai. Tạp chí
Kaizô lần lượt đăng lại hai phần Cao thủ cờ vây (Meijin, tháng
8/1942) và Tịch dương I, II, III (Yuuhi I, II, III, 1943-47) thành
Cao thủ cờ vây (Meijin) bộ mới và bắt đầu nó với Giới thiệu
cao thủ (Meijin kaikô, 8/1951) trên Shinchô, Cuộc đời cao thủ
(Meijin shôgai, 8/1951) trên Sekai.Tháng
9, đăng Người thứ ba (Sanninme) trên đặc san văn nghệ của Chuuô
Kôron, tháng 10 đăng Về quê (Satogaeri) trên Bungei.
1952 (53 tuổi) Tháng 1, đăng Mặt trời lẫn mặt trăng (Hi
mo tsuki mo) nhiều kỳ trên Fujin Kôron cho đến tháng 5/1953. Sau
đó là tùy bút Hoa cúc trên ghềnh đá (Iwa no kiku) trên Bungei, Nửa
ngày mùa đông (Fuyu no hannichi) trên Chuô Kôron và Ngày Tết
(O-shôgatsu) trên Bessatsu Bungei Shunjuu. Tháng 2, Nxb Chikuma
tập hợp Sembazuru và Yama no oto vào một quyển và ấn hành. Quyển
này được giải thưởng lần thứ 26 của Viện Nghệ Thuật.Tiếp đó, cho
đăng Tuyết trắng (Shirayuki) trên Bessatsu Bungei Shunjuu cũng như
Tập tùy bút Cánh cổng dưới trăng (Gekka no mon) chia làm bảy kỳ
trên Shinchô. Tháng 4, đăng Lại bàn về bút pháp (Shin Bunshôron)
trên Bungakukai. Tháng 10, đăng Thiên nhiên (Shizen) trên Bungei
Shunjuu. Tháng 11, đăng Trăng sáng (Meigetsu) trên Bungei rồi đến
tháng 12, đăng Tuyết đầu mùa trên đỉnh Phú sĩ (Fuji no
shosetsu) trên All Yomimono.
1953 (54 tuổi) Tháng 3, đăng Truyện khu phố b́nh dân có
ḍng sông (Kawa no aru shitamachi no hanashi) chia làm nhiều lần
trên Fujin Gahô. Sau đó là Người hay nói tới (Itsumo hanasu hito)
trên Gunzô. Nxb Mikasa ấn hành Kẻ tái hôn (Saikonsha). Tháng 3,
Nxb Kadokawa cho in Tuyển tập Kawabata trong Toàn tập văn học thời
Shôwa. Tháng 4, đăng Vô ngôn / Lặng thinh (Mugon) trên
Chuuô Kôron và Namichidori (Chim di trên sóng) - tức một chương
của Sembazuru tục biên - trên Shôsetsu Shinchô. Sau đó xuất
hiện các phần khác của Sembazuru tục biên như các chương Chia tay
trong cuộc hành tŕnh (Tabi no betsuri, tháng 5), Trăng trên thành
hoang (Kôjô no tsuki, tháng 9), Gia đ́nh mới (Shin katei, tháng
10), Giữa những làn sóng (Namima, tháng 12). Tháng 8, Nxb Shinchô
lại gom góp các truyện dài của ông làm thành một Toàn tập truyện
dài. Sau đó, ông về lại Karuizawa lần đầu tiên sau chiến tranh và
lưu lại đó khoảng mươi hôm. Tháng 11, cho đăng Trăng lồng bóng
nước (Suigetsu) trên Bungei Shunjuu.Năm này, ông c̣n được bầu
vào Viện nghệ thuật (Hàn lâm viện) Nhật Bản.
1954 (55 tuổi) Tháng 1, đăng Một ngày tiểu xuân
(Koharubi) trên Bungei, bắt đầu đăng liên tục Hồ (Mizuumi)
trên Tạp chí Shinchô cho đến tháng 12. Tháng 3, đăng Mắt mùa xuân
(Haru no me) trên Shôsetsu Shinchô và Phố trong con hẻm (Yokochô)
trên Bessatsu Bungei Shunjuu. Tháng 5, đăng Người Tôkyô (Tôkyô
no hito) trên Nhật báo Nishi Nihon làm nhiều kỳ cho đến hết
(tất cả là 505 hồi). Tháng 7, đăng Nghĩ cho vợ (Tsuma no omoi)
trên Shôsetsu Shinchô và sang tháng 9, đăng Hợp tan (Rigô) trên
Chisei (Tri tính).
1955 (56 tuổi) Tháng 1, đăng Trong cuộc sống của một
con người (Aru hito no sei no naka ni) trên Bungei làm nhiều kỳ
đến tháng 5 mới hết. Người Tôkyô (Tôkyô no hito) được Nxb Shinchô
ấn hành (tất cả là 4 tập). Tháng 4, đăng Cố hương (Kokyô) trên
Shinchô. Hồ (Mizuumi) lại được Nxb Shinchô in thành sách. Tháng 5,
đăng Cuốn tiểu thuyết tạo ra giấc mộng (Yume wo tsukutta shôsetsu)
trên Bungei Shunjuu. Tháng 6, đăng Cái giá phải trả cho nỗi buồn
và những cái khác (Kanashimi no taika to sonota) trên Bungei.
Tháng 7, đăng Người đàn bà trong xe (Shachuu no onna) trên Gunzô.
Nxb Kadokawa ấn hành Tuyển tập Tamayura. Tháng 11, Nxb Chikuma
soạn xong Tập về Kawabata trong Toàn tập văn học Nhật Bản hiện
đại.
1956 (57 tuổi) Tháng giêng, đăng Nước này, nước kia
(Ano kuni, kono kuni) trên Shôsetsu Shinchô. Phần kế tiếp nhan đề
Người láng giềng (Tonari no hito) cũng được đăng cùng nơi nhưng
vào tháng 4. Rồi đến Giọt nước mưa (Amadare) trên Shinchô và Ánh
nắng chiều (Yuuyake) trên Chuuô Kôron. Nxb Shinchô lại ấn hành
Toàn tập 10 cuốn về Kawabata. Tháng 3, đăng Sư tử và thiếu nữ
(Raion to shôjo) trên Bessatsu Bungei Shunjuu và Phận đàn bà
(Onna de aru koto) trên Nhật báo Asahi (tất cả 150 hồi). Tháng
5 đăng Một ngày nào đó (Aru hi) trên Bungakukai. Đến tháng 10 th́
phần đầu của Onna de aru koto được cơ sở Shinchô in thành sách,
c̣n phần sau phải đợi đến tháng 2/1957.
1957 (58 tuổi) Tháng 3, Kawabata đại diện Nhật Bản tham
dự hội nghị ban chấp hành Pen Club quốc tế ở Anh. Đến tháng 5 mới
về nước. Tháng 8, đăng Âu châu (Yoroppa). Đến tháng 9, khai hội
Pen Club Thế Giới lần thứ 29 trong vai tṛ Hội trưởng Pen Club
Nhật Bản
1958 (59 tuổi) Tháng 1, đăng Thị trấn Yumiura / Vịnh
cánh cung (Yumiura-shi) trên Shinchô và Hàng cây bên đường
(Namiki) trên Bungei Shunjuu, Sự khéo nhịn của người chồng (Otto
no shinai) trên Shuukan Shinchô. Tháng 2, đắc cử Phó chủ tịch Văn
Bút (P.C.) thế giới. Tháng 4, Nxb Shin chô ấn hành Tập truyện
Tuyết đầu mùa trên núi Phú Sĩ (Fuji no shosetsu). Tháng 6, đi thăm
Okinawa. Mắc chứng sạn mật, cuối năm phải vào mổ ở Bệnh viện ĐH
Tôkyô.
1959 (60 tuổi) Tháng 5, dự Đại hội Văn Bút Quốc tế ở
Frankfurt (Đức). Được trao tăng Huy chương Goethe (Geothe Medal).
Tháng 7, đăng bài phát biểu Nhà thơ vĩ đại từ đất nước xa xôi
(Tôku aoide kita daishijin) trong Chuuô Kôron, Đặc san ai điếu
Nagai Kafuu). Tháng 12, Nxb Shinchô lại ấn hành Toàn tập Kawabata
gồm 12 quyển, hoàn tất năm 1961.
1960 (61 tuổi) Tháng 1, đăng Những người đẹp ngủ say
(Nemureru Bijo) làm nhiều kỳ trên Shinchô cho đến cuối năm
1961). Trong khoảng thời gian này, thường du lịch Nara và Kyôto.
Được chính phủ Pháp trao tặng huân chương Hiệp sĩ văn hóa và nghệ
thuật (Chevalier des Arts et des Lettres). Tháng 5 được Bộ Ngoại
giao Mỹ (States Department) mời qua Mỹ thăm viếng.Tháng 7, nhân
Đại hội quốc tế Pen Club được tổ chức ở Brasil, sang đó tham dự và
ở cho đến cuối tháng 8.
1961 (62 tuổi) Đăng liên tiếp trong nhiều kỳ Vẻ đẹp
và nỗi buồn (Utsukushisa to Kanashimi) trên tạp chí phụ nữ
Fujin Kôron (đến tháng 10/1963 mới hoàn tất). Tháng 10 nhân Nxb
Yuuki Shobô biên tập Hồ (Mizuumi), ông bèn viết lời dẫn nhập
(maegaki). Lại đăng Kinh đô xưa / Cố đô (Koto) nhiều kỳ
trên Nhật báo Asahi (cho đến tháng 1/ 1962 mới xong). Tháng 12,
Nxb Kadokawa lại in xong Tập Kawabata trong bộ mới về Văn học thời
Shôwa.
1962 (63 tuổi) Tháng 6, Koto được Nxb Shinchô in riêng
và Nxb Kôdansha in trong tập về Kawabata trong Toàn tập về Văn học
Nhật Bản hiện đại. Tháng 10, chấp nhận tham gia nhóm 7 ủy viên kêu
gọi ḥa b́nh thế giới. Đăng nhiều kỳ Nước chảy hoa trôi (Rakka
ryuusui) trên tạp chí Fuukei (Phong cảnh). Năm này, Nemureru Bijo
được tặng Giải thưởng văn hóa của Nxb nhật báo Asahi.
1963 (64 tuổi) Tháng 2, đăng Bên trong con người
(Ningen no naka) trên Bungei Shunjuu. Tháng 4, cơ sở Nhật Bản
Cận Đại Văn Học Quán (một quỹ văn hóa) được thành lập và ông trở
thành người quản trị (kanji).Tháng 8, Cánh tay rời (Kataude)
được đăng nhiều kỳ trên Shinchô (đến tháng 1/ 1964 mới hoàn
tất). Tháng 10, ông đứng ra phụ trách cuộc triển lăm về văn học sử
cận đại do Văn Học Quán tổ chức.
1964
(65 tuổi) Tháng 2, Nxb Kôdansha ấn hành Toàn tập đoản thiên của
Kawabata rồi đến tháng 3, Tập về Kawabata Yasunari cũng được Nxb
Chuuô Kôron in trong bộ Văn Học Nhật Bản. Tháng 6, Kawabata sang
Oslo (Na Uy) dự Đại hội Quốc Tế của Pen Club. Khi về nước, ông bắt
đầu cho đăng nhiều kỳ Hoa
bồ công anh (Tampopo)
trên tạp chí Shinchô.
Tháng 11, Nxb Chikuma lại ấn hành Tập về Kawabata Yasunari trong
bộ tùng thư chủ đề (taikei) Văn học Nhật Bản Hiện đại.
1965 (66 tuổi) Tháng 2, Nxb Chuô Kôron ấn hành
Utsukushisa to Kanashimi. Tháng 9, Tamayura được đăng liên tục
trên Shôtsu Shinchô (cho đến tháng 3/1966).Tháng 10, Nxb Shin chô
ấn hành tập tiểu thuyết Kataude.
1966 (67 tuổi) Tháng 1, đăng Hoàng phi Michiko điện hạ
(Michiko hidenka) trên nhật báo Tôkyô Shimbun. Nxb Kawade lại cho
ra mắt một tuyển tập về ông trong bộ Nhật Bản Văn Học Toàn Tập. Từ
tháng 1 đến tháng 3, Nhà văn mắc chứng viêm gan. Tháng 6, tập tùy
bút Nước chảy hoa trôi (Rakka Ryuusui) được Nxb Shinchô ấn
hành. Tháng 10, Nxb Bungei Shunjuu lại in sách nói về Kawabata
Yasunari do Cận Đại Nhật Bản Văn Học Quán phát hành. Tháng 10 lại
đến phiên Nxb Shuueisha với tập I về Kawabata trong Toàn tập về
Văn học Nhật Bản.Tháng 12, cuộc trao đổi giữa Kawabata và học giả
văn học Pháp Kawamori Yoshizô (1902-2000) được đăng trên Shôsetsu
Gendai.
1967 (68 tuổi) Tháng 6, tập II về Kawabata của Nxb
Shuueisha được ra mắt công chúng. Tháng 7, tập Kawabata Yasunari
phiên bản màu (color) của Nxb Kawade cũng được họ tŕnh làng.
1968 (69 tuổi) Tháng 6 đến tháng 7, vận động tuyển cử
cho bạn lâu năm của ḿnh là Kon Tôkô (một nhà sư và cũng là văn
nhân, 1898-1977) vào Thượng nghị viện, phải ra đầu phố diễn
thuyết. Chính vào năm này, ông trúng giải Nobel văn học.Tháng 12,
sang Stockholm (Thụy Điển) dự lễ phát giải. Đă đọc diễn từ lănh
giải trước Hàn Lâm Viện Thụy Điển (Sweden Academy) thường được
biết với nhan đề Nước Nhật đẹp đẽ và tôi (Utsukushii Nihon to
watakushi) mà sau đó, ông đă đổi chữ to thành no để
trở thành Tôi của một nước Nhật đẹp đẽ (Utsukushii Nihon no
watakushi) trong ấn bản cuối cùng.Dịch giả Seidensticker vẫn
giữ nhan đề cũ (Japan the Beautiful and Myself) trong phiên
bản tiếng Anh.
1969 (70 tuổi) Tháng 1, về nước sau chuyến đi Thụy Điển
và ṿng quanh Âu châu.Tháng 3, sang Hawai tŕnh bày về Văn học
Nhật Bản. Ở lại đến tháng 6 (trừ khoảng tháng 4 đến đầu tháng 5
phải quay lại Tôkyô để dự cuộc triển lăm “Kawabata Yasunari” tại
pḥng triển lăm cửa hàng bách hóa Isetan -Shinjuku mà Nhật báo
Asahi đă tổ chức để vinh danh ông). Sau đó, cuộc triển lăm đă được
chuyển xuống các thành phố lớn như Nagoya, Ôsaka và Fukuoka. Đầu
tháng 5 trở lại Hawai, diễn thuyết về đề tài Sự tồn tại của cái
đẹp và việc phát hiện nó (Bi no sonzai to hakken) ở Đại học Hawai.
Tháng 7, bài nói chuyện ấy được dịch sang tiếng Anh bởi Ban biên
tập Nhật báo Mainichi. Sau đó sẽ có các bản dịch sang tiếng Thụy
Điển, Tây Ban Nha, Hung ...
1970 (71 tuổi) Tháng 5, Hội nghiên cứu văn học Kawabata
ra đời. Tháng 6 và 7, sang dự Đại hội các nhà văn Á châu ở Taipeh
(Đài Bắc) và Đại hội Pen Club quốc tế lần thứ 38 ở Seoul (Hán
Thành).
1971 (72 tuổi) Tháng 1, làm chủ lễ tang cho Mishima
Yukio (người tự sát vào cuối tháng 11 năm trước). Tháng 3 và 4, đi
cổ động cho ứng cử viên bảo thủ Hatano Akira vào ghế Thị trưởng
Tôkyô nhưng không có kết quả như ư.. Từ cuối tháng 5 qua đầu tháng
6, tổ chức triển lăm cá nhân về bút tích ở Nihonbashi, trung tâm
Tôkyô. Tháng 12, trở thành Quán trưởng của Nhật Bản Cận Đại Văn
Học Quán.
1972 (73 tuổi) Tháng 1, thảo luận về đề tài “Nghĩ về
cái đẹp Nhật Bản” (Nihon no bi wo kangaeru) ở đài truyền h́nh Fuji
TV. Đăng bài viết nhan đề Shiga Naoya trên tạp chí Shinchô và tác
phẩm Như một cơn mộng huyễn (Mugen no gotoku nari) trên Bungei
Shunjuu. Tháng 3, mắc chứng sưng ruột thừa phải mổ. Ngày 16 tháng
4, người ta thấy ông nằm chết trong căn pḥng số 417 của chung cư
cao cấp Marina Mansion mới tậu ở Zushi (gần Yokohama) để làm nơi
viết lách. Điều tra của nhà chức trách cho biết đây là một cuộc tự
sát bằng cách mở hơi gas (khí đốt) với một liều lượng thuốc ngủ
Hyminal (phiên âm) mà ông đă dùng từ lâu năm. Cho đến này, gia
đ́nh ông vẫn phản bác kết luận này. Tang lễ tổ chức trong ṿng
người nhà (mật táng).Pháp danh do người bạn lâu năm Kon Tôkô dặt
cho ông là “Văn kính viện điện Cô Sơn Khang Thành đại cư sĩ”. Lễ
tang dành cho công chúng được tổ chức ngày 27 tháng 5 cùng năm với
sự chủ lễ của Serizawa Mitsujirô (1897-1993), một tiểu thuyết gia
đồng thời đại với ông và là nhà tôn giáo phái Tenri (Phật giáo).
Viết theo Ban biên tập
Nxb Kadokawa
Tôkyô ngày 15/12/2020
(NNT)