|
I. LỊCH SỬ CÁC HĂNG QUẢNG CÁO Các hăng quảng cáo đóng vai tṛ đầu tàu trong kỷ nghệ quảng cáo. Chúng thực hiện những đồ án quảng cáo của xí nghiệp. Khởi thủy, chúng là những hăng đại lư hay môi giới (agency) đóng vai tṛ trung gian giữa chủ quảng cáo và báo chí, được thù lao bằng một món huê hồng (commission). Theo Inada, có thuyết cho rằng hai người Anh đă sáng lập hăng quảng cáo đầu tiên năm 1611 ở London, thuyết khác lại xem Théophastre Renaudot, nhà báo Pháp, mới là người lập hăng quảng cáo trước nhất ở Paris năm 1612. Dẫu sao, cũng theo tác giả nói trên, măi đến thế kỷ 19, hai hăng quảng cáo có h́nh thức hiện đại mới ra đời ở Anh (Reynel Son , 1812) và ở Philadelphia trên đất Mỹ (hăng của Volney B. Palmer, 1841). Thật ra, ở Mỹ, trước thời nội chiến Nam Bắc (Civil War), các hăng quảng cáo bắt đầu bằng công việc mua sỉ khoảng trống trong nhật báo và tạp chí để bán lẻ lại cho chủ quảng cáo. Người mua đi bán lại nhận từ nhà xuất bản một món tiền khấu trừ, món tiền đó là huê hồng (Commission) trả cho công khó của họ. Số tiền khấu trừ thường không đồng đều và giá bán cũng không được ấn định theo một phương thức nào, cao hạ tùy trường hợp. Chủ quảng cáo muốn sửa soạn một thương điệp phải nhờ sự tiếp sức từ bên ngoài xí nghiệp ḿnh. Vai tṛ đó được ủy thác cho người bán khoảng trống trên mặt báo. Anh ta có khi được trả tiền, khi không, nhưng bề ǵ cũng đóng trọn vai người cố vấn hoặc nhân viên kỹ thuật bên cạnh chủ quảng cáo, khích lệ cổ vơ hoặc có khi khuyến cáo họ. Ngày nay, tuy các hăng quảng cáo không hề mua hộ khoảng thời gian (truyền thanh, truyền h́nh) hoặc không gian quảng cáo (nhật báo, tạp chí) cho người cậy quảng cáo nhưng họ luôn luôn kư kết để xí phần nơi nhà xuất bản hoặc đài truyền thanh, truyền h́nh. Thông thường, khi chủ quảng cáo chung tiền, họ sẽ lấy tiền đó để trả cho những cơ sở nói trên. Thế rồi, từ việc bán khoảng thời gian trên đài truyền h́nh, hăng quảng cáo bán năng lực, sự hiểu biếtvề công việc quảng cáo cho chủ quảng cáo.Họ nhận 100% tiền mua thời gian phóng ảnh từ tay chủ quảng cáo, giữ lại cho ḿnh 15% theo tiêu chuẩn. Dù là chủ quảng cáo lớn hay nhỏ, đều bắt buộc qua tay họ, có muốn đi tắt cũng không được đài truyền h́nh giảm bớt tiền. Ngày nay, h́nh thức độc quyền này đang trở thành một vấn đề của ngành quảng cáo, điều này chúng ta sẽ bàn thêm sau. Theo Printer?s Ink, năm 1955 ở Mỹ có trên 3000 hăng quảng cáo, mỗi hăng có trung b́nh 30 khách. Khi hăng quảng cáo nhận hóa đơn của đài truyền h́nh, họ thường nhân nó lên 1,1765 để vừa vặn đúng số 100 (85*1,1765) mà quảng cáo chủ phải thanh toán. Như đă đề cập tới, ngoài món huê hồng (Commission) đó, hăng quảng cáo c̣n đ̣i hai loại chi phí (Fee), một trực tiếp, một gián tiếp.Chi phí trực tiếp là tiền mướn diễn viên, chi phí làm phim...trên số tiền này hăng quảng cáo nhận thêm 17,65% huê hồng nữa. Trên nguyên tắc, thù lao cho công việc phụ trách bởi nhân viên của hăng quảng cáo th́ được coi như gồm trong 15% (hay 17,65%) kia rồi nhưng có trường hợp, nếu công việc ấy quá lớn, hăng quảng cáo có thể tính dôi ra và đ̣i trả thêm. Có khuynh hướng lại xem mức độ 15% này thiết lập từ thời quảng cáo báo chương không c̣n hợp thời và vận động tăng thêm.Về phía chủ quảng cáo, họ cho 15% là quá lớn v́ đài truyền h́nh đă sắp sẵn chương tŕnh phóng ảnh theo khung thời gian của họ, hăng quảng cáo ngoài việc chuẩn bị thương điệp, có phải bận tâm lo ǵ khác đâu. Cuộc tranh luận về tiền huê hồng đến nay vẫn chưa hoàn toàn ngă ngũ. Năm 1955, bộ Tư Pháp Mỹ áp dụng Đạo Luật Chống Độc Quyền (Anti-Trust Law) đối với Hiệp Hội Các Hăng Quảng Cáo (American Association of Advertising Agencies, viết tắt là AAAA) và năm đoàn thể thuộc giới báo chí và xuất bản. Lư do lịch sử này là từ năm 1917, ngành quảng cáo được tự do cạnh tranh cho dến khi con số 15% huê hồng được đưa ra, trói buộc người cậy quảng cáo. Họ không c̣n được phép thương lượng trực tiếp với các nhà xuất bản mà phải thông qua hội viên của AAAA, điều mà phía chính phủ không chấp nhận.Từ đó về sau, một số hăng quảng cáo đă tỏ ư muốn chuyển hướng và tính hóa đơn dựa trên kinh phí chính xác chứ không đ̣i hưởng huê hồng theo độ bách phân cố định nữa. Một số hăng quảng cáo Mỹ ngoài huê hồng cũng đ̣i hỏi một món tiền công tính theo mức tăng của doanh số mà chủ quảng cáo đạt được.Tuy nhiên, chế độ tiền công (fee basis) này không được áp dụng lâu dài bởi v́ một thương điệp có thể làm tăng doanh số ở một thời điểm hay địa phương nào đó nhưng có thể bị thất bại ở lúc khác và ở một chỗ khác.Hơn nữa, việc đo lường hiệu quả của quảng cáo không thể thực hiện ngày trước ngày sau mà phải đợi một thời gian dài v́ hiệu quả quảng cáo có khi đến từ từ. Do đó, tính tiền công hăng quảng cáo theo huê hồng cố định lại được xem là lối tính toán phải chăng nhất. Kết luận hợp lư nhất có lẽ nằm trong phúc tŕnh của hai giáo sư A. Frey và K. Davis (Darmouth College, 1958) gửi cho Hiệp Hội các Chủ Quảng Cáo Mỹ (The Association of National Advertisers, viết tắt là ANA): trong tương lai, cách thù lao các hăng quảng cáo ngày càng phải sát với thực tếhơn xưa. Theo thống kê của Bộ Kỷ Nghệ và Mậu Dịch Quốc Tế (MITI), năm 1993, ở Nhật cũng có đến 4746 hăng quảng cáo với 93.481 nhân viên , 73% là nam và 27% là nữ. Phần lớn (42%) làm trong việc bán dịch vụ, 19% sản xuất, 20% trong quản trị,?% trong khuyến măi và giao thiệp (SP & PR), 7% phụ trách về môi thể và 4% trong điều tra hiệu quả quảng cáo. Phần lớn các hăng quảng cáo ở Nhật tổ chức rất gọn nhẹ (90% các hăng có dưới 30 nhân viên, 30% có dưới 3 người) và tập trung ở các thành phố lớn như Tokyo (23,7%) và Osaka (16,3%) . Riêng hai địa điểm này, trong năm 1986, đă thực hiện được 76,5% doanh thu của cả nước. Các hăng quảng cáo Nhật cũng có lịch sử lâu đời. Dentsu thành lập từ năm 1901, cùng với Hakuhodo, chẳng thua kém ǵ các tên tuổi lớn trong nghề như Young & Rubicam, Mc Can Erikson, BBDO hay Ogilvy &Mather... Sau đây chúng ta thử nh́n tầm cở của các hăng và tập đoàn quảng cáo đa quốc gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền h́nh nói riêng (theo Advertising Age, 27/04/1998 trích dẫn bởi Niên Giám về Tiếp Thị và Quảng Cáo Nhật Bản 1999, Japan 1999 Marketing and Advertising Year Book,):
Các hăng quảng cáo cỡ lớn như thế đều có thể phụ trách tất cả các môi thể. Ở Nhật chẳng hạn, Dentsu và Hakuhodo thuộc loại "đa khoa" này. Tuy nhiên, ta cũng nhận ra rằng do những điều kiện đặc biệt, một hăng quảng cáo có thể đảm đương một môi thể tốt hơn những môi thể khác. Đó là trường hợp của Asatsu đối với hai bộ môn Tạp Chí-Truyền H́nh, Tokyu đối với những môi thể ngoài bốn môi thể đại chúng chính yếu (Truyền Thanh, Truyền H́nh, Nhật Báo và Tạp Chí). Trong khi các hăng quảng cáo Âu Mỹ bao trùm hầu hết các lục địa nhất là từ những năm 1980 khi có sự ra đời của các tập đoàn quảng cáo quốc tế, các hăng quảng cáo Nhật chỉ sở trường về quảng cáo quốc nội (và như thế ngăn chặn các hăng khác vào xí phần). Ở Nhật, sự liên kết và trung thành giữa xí nghiệp và một hăng quảng cáo rất thường thấy. Khi nói về doanh thu và lợi nhuận thô của một hăng quảng cáo hay một tập đoàn quảng cáo đa quốc gia, người ta chỉ nói một cách tổng quát. Trong những con số tŕnh bày như trên phải chia ra ít nhất làm hai phần: -Quảng cáo trên bốn môi thể truyền thông đại chúng (major media) -Quảng cáo bằng những phương pháp khuyến măi (sales promotion) Bảng phân tích về chi phí cho quảng cáo ở Nhật Bản trong thời gian từ 1995 đến 1997 cho ta những chi tiết sau: -Quảng cáo trên 4 môi thể truyền thông cơ bản (major media): 65,7% (trong đó nhật báo chiếm 21,1%, tạp chí 7,3%, truyền thanh 3,8%, truyền h́nh 33,5%) -Quảng cáo trên tân môi thể (new media) như truyền h́nh vệ tinh, truyền h́nh bằng mạng dây cáp..) mới bắt đầu chưa lâu nên chỉ chiếm 0,3%. -Quảng cáo bằng các phương pháp khuyến măi (sales promotion) : 34,0% (trong đó triển lăm, trưng bày 6,1%, niên giám điện thoại 3,1%, quảng cáo tiệm quán (point of purchases hay POP) 2,8%, quảng cáo trên xe tàu 4,2%, quảng cáo bảng hiệu bích chương 5,5%, quảng cáo truyền đơn bươm bướm 7,0%, quảng cáo trực tiếp (điện thoại, viếng tận nhà, direct marketing hay DM) 5,3%. Chúng ta thấy cứ 100 bỏ ra cho kinh phí quảng cáo th́ có 1/3 đă dùng vào truyền h́nh. Có những quốc gia, quảng cáo trên báo chí hăy c̣n khá mạnh (Pháp, Đức) v́ truyền thống tôn trọng chữ viết ở nơi đó, nhưng nói chung, phân số 1/3 này thấy ở nhiều nơi như Mỹ và Nhật mà 1/3 trên tổng số chi phí quảng cáo có nghĩa là trên 1/2 ( tỷ lệ 33,5:65,7) trên chi phí cho bốn môi thể đại chúgg (mass media). Hăng quảng cáo không cần nhiều tư sản, máy móc thiết bị, bất động sản. Vốn lớn nhất của một hăng quảng cáo là con người : năng lực sáng tạo, kỹ thuật chuyên môn, sự gắn bó với nghề nghiệp, kinh nghiệm ngoại giao... Những hăng nào có đầy đủ các yếu tố đó sẽ giữ được khách hàng lâu dài. Sau đây, chúng ta thử t́m hiểu cơ cấu tổ chức một hăng quảng cáo: II. CƠ CẤU VÀ CHỨC NĂNG TRONG MỘT HĂNG QUẢNG CÁO Hăng quảng cáo, tùy theo nguồn vốn và phương pháp làm việc, có thể có những loại h́nh khác nhau: -Hăng phục vụ toàn diện (Full-Service Agency) thường là những hăng lớn, có tầm cỡ quốc tế như Young & Rubicam hay Mc Cann-Erickson Worldwide. Họ phụ trách mọi lănh vực từ hành chánh đến tiếp thị, từ nghiên cứu đến soạn thảo và thực hiện. ?-Hăng sáng tác (Creative Boutique) giới hạn công việc của họ trong lĩnh vực nghệ thuật. Loại hăng này cung cấp ư kiến mới và độc đáo (Idea Factory). Xí nghiệp sử dụng dịch vụ của loại hăng này phải tự đảm đương hay nhờ người khác đảm trách những phần việc c̣n lại. Nhiều hăng dịch vụ toàn diện như Mc Cann-Erickson mở thêm một hăng con để chuyên trách về mục sáng tạo. -Hăng mua môi thể (Media-Buying Service) hăng này chuyên mua không gian (trang báo) và thời gian (giờ phát thanh hoặc truyền h́nh) của các môi thể và bán lại cho chủ quảng cáo. Khi lập phương án quảng cáo, chủ quảng cáo tùy thuộc vào họ để biết phải phân chia ngân sách trong những điều kiện nào. Những hăng này có thể cung cấp không gian và thời gian quảng cáo rẻ tiền v́ họ đă bao thầu trước (mua sỉ) ở những môi thể.Tuy nhiên, ngược lại, họ cũng có thể lợi dụng vị trí ưu tiên của ḿnh nếu không có một sự cạnh tranh nào đáng kể từ phía các đồng nghiệp của họ. -Hăng quảng cáo song phươnghay giao hỗ(Interactive Agency) chuyên giúp các hăng thực hiện chương tŕnh quảng cáo trên mạng Internet, truyền h́nh song phương hay giao hỗ (Interactive TV), CD-ROM vv...nghĩa là loại quảng cáo các phương tiện truyền thông "tay đôi", nơi người quảng cáo có thể đối thoại để trao đổi thêm với người nhận quảng cáo. Loại hăng này c̣n có tên là Cyberagency. Những hăng quảng cáo truyền thống như Ogilvy & Mather, Grey Advertising, Leo Burnett cũng đuổi theo thời đại bằng cách phát triển hoạt động trong lănh vực này. Grey Interactive Worldwide của nhóm Grey Advertising đă có những khách hàng cỡ lớn như Microsoft, KLM, British Telecom... -Hăng quảng cáo nội-xí nghiệp (In-house Agency) có nghĩa là những hăng ở bên trong một đại xí nghiệp. Nó là phân bộ quảng cáo của một xí nghiệp lớn, hoặc vốn có một chủ trương quảng cáo riêng của ḿnh hoặc không muốn bỏ tiền quảng cáo cho người khác ăn. Một hăng như NEC của Nhật có khi đảm đương nỗi một kế hoạch quảng cáo mà kinh phí lên đến 40 triệu đô la. Tuy nhiên, dù có khi đạt được hiệu quả như ư những quảng cáo dưới h́nh thức tổ chức như thế này nhiều khi sa vào những lầm lỗi v́ chủ quan, thiển cận và thiếu năng lực chuyên môn mà người ta chỉ thấy có ở những hăng thực sự chuyên nghiệp. D. Benett (trong S.Monye) lại phân loại các hăng quảng cáo như sau: A = Hăng quảng cáo toàn diện (Full-service ad agencies) trung tâm của nhóm, thường có tính cách quốc tế. B = Hăng chuyên về một môi thể (Media independents ) rành nghề đối với một môi thể nào đó, vốn thoát thai từ A nhưng có chiến đấu tính, gây khó khăn cho A. C = Hăng quảng cáo cấp dưới (Below-the-line agencies ) phạm vi hẹp hơn và chuyên môn hơn, ít thiên về quảng cáo đại chúng. D = Cố vấn quảng cáo (Management Consultants) độc lập, cố vấn, có vai tṛ đi sát với khách hàng nhiều hơn hăng quảng cáo. E = Hăng quản lư các môi thể (Medias Owners ) làm trung gian phân phối môi thể. F = Technology Company (bán phần mềm, tṛ chơi..) G = Film and Related Technologies (làm phim, bán phim quảng cáo và phim giải trí, là những vật liệu điểm tựa cho quảng cáo). Trong một hăng quảng cáo, đặc biệt phụ trách quảng cáo trên truyền h́nh, chúng ta thấy có những vai tṛ sau đây: 1) Kế hoạch và chỉ đạo (Top Executive Planning) 2) Doanh nghiệp và liên lạc (Account Management) 3) Thiết kế (Copy) 4) Chế tác (Production) 5) Mỹ thuật, kỹ thuật(Art) 6) Môi thể (Media) 7) Điều tra nghiên cứu (Research) 8) Đặc biệt (Special) ví dụ phụ trách kế hoạch thương phẩm (Merchandising) và ngoại giao (PR: Public Relations) 9) Bộ phận hành chính, kế toán (Administration) Vai tṛ kế hoạch và chỉ đạo nằm trong tay tổng giám đốc và các giám đốc thương mại, những người trách nhiệm trên cùng ở một hăng quảng cáo. Họ là những kế hoạch định phương châm, phương pháp, mục đích của hăng và người tiếp xúc với cấp lănh đạo về phía chủ nhân quảng cáo. Vai tṛ doanh nghiệp và liên lạc được giao phó cho người chuyên môn phụ trách khách hàng (Account Executive hay AE). Có khi một AE chỉ phụ trách một khách hàng nếu là khách quan trọng, bằng không một AE có thể phụ trách một số khách hàng (accounts). Tất cả hoạt động quảng cáo đều bắt đầu bằng hội nghị . Sau khi nhận được sự ủy thác của chủ quảng cáo, một hội nghị gồm những nhân vật sau đây sẽ được mở ra: 1) Người trách nhiệm về thực hiện phim (creation) 2) Người trách nhiệm về văn bản (copy) đối với đài truyền h́nh 3) Người viết văn bản (writer) cho chủ quảng cáo 4) Giám đốc mỹ thuật và kỹ thuật truyền h́nh (art ) 5) Giám đốc chế tác ở đài truyền h́nh (production) 6) Người trách nhiệm về môi thể (media) 7) Người trách nhiệm về điều tra (research) Cần phải kể thêm người trách nhiệm ngoại giao (PR) và người trách nhiệm khâu quản lư thương phẩm (merchandising). Trong buổi họp này, người đảm nhiệm khách hàng (AE) thông tri cho các đồng nghiệp những đ̣i hỏi, chủ đề muốn tŕnh bày, ưu điểm và nhược điểm của món hàng, kế hoạch ngắn hạn hoặc dài hạn của chủ quảng cáo.V́ thương điệp sẽ được tạo ra theo nhu cầu của chủ quảng cáo nên nhóm người làm phim quảng cáo phải hiểu được sở thích, thị hiếu, những kiêng kỵ của khách hàng để thương điệp một khi h́nh thành không bị bác bỏ bởi chủ quảng cáo. Ngay cả việc chọn người tŕnh diễn hay một khẩu hiệu đều có thể gây bất đồng ư kiến: để quảng cáo cho thuốc lá Camel, phải tránh dùng chữ lucky (may mắn) v́ như thế sẽ gợi cho người xem h́nh ảnh cua Lucky Strike, một nhăn hiệu cạnh tranh. Kinh phí chế tác thương điệp truyền h́nh tùy theo thể loại được lựa chọn (chúng ta sẽ đề cập ở chương 7) nhưng trên nguyên tắc thường được chia làm 2 phần: phần liên quan đến sáng tạo (hay "trên đường ranh", above the line) và phần liên quan đến chế tạo ("dưới đường ranh", below the line). Phần trên gồm chi phí cho người diễn xuất, người sản xuất, người xướng ngôn, tác quyền truyện phim và âm nhạc, chi phí phim ảnh và giao thông vận chuyển..., phần dưới gồm tiền mướn hay dựng sân khấu, phông cảnh, dụng cụ, hóa trang, y phục, tác dụng âm thanh và ánh sáng, chi phí thu h́nh, lồng phim, cắt xén phim, chiếu thử...Hăng quảng cáo có thể tự lực xây dựng cốt truyện (Story) và phiếm họa diễn biến cốt truyện (Story Board) nhưng có khi phải dùng người bên ngoài. Về phương diện chế tác, phần lớn họ đưa vào những nhà chuyên môn về phim ảnh và sự hiệp lực của các cố vấn (television advertising consultants). Ở Mỹ, bảng giá của các môi thể được công bố mỗi tháng một lần qua ấn bản Standard Rate and Data. Ngoài ra Văn Pḥng Thông Tin Của Các Nhà Ấn Hành tức Publishers Information Bureau (PIB) cũng cho in tờ Rorabaugh Report, quư san thông tin về các con số về ngành quảng cáo. Về mặt cung cấp tin tức, cũng nên kể đến các loại báo chí như Television Digest (mỗi năm 2 kỳ), Television Factbook, Broadcasting Television Magazine hay Telecasting Yearbook (thường niên). Về điều tra dư luận và thị trường, có thể nói mọi hăng quảng cáo lớn đều có cơ quan điều tra riêng, nếu không, họ dùng dữ kiện thu thập bởi các hăng điều tra bên ngoài. Nắm được tâm lư thị trường là một yếu tố rất quan trọng để xây dựng những ư tưởng, khẩu hiệu, cốt truyện ăn khách. Các hăng quảng cáo Mỹ được trả tiền công khác với cách thù lao của bác sĩ, luật sư hay kế toán viên. Như đă tŕnh bày trong phần tổng luận và xin phép lập lại nhưng khai triển thêm ở đây, đó là huê hồng (Commission) dựa trên món tiền người chủ quảng cáo bỏ ra cho kế hoạch quảng cáo. Ví dụ hăng quảng cáo đ̣i chủ quảng cáo trả 1 triệu đô la để phát sóng cho một thương điệp nào đó th́ họ sẽ làm sao để chi trả hăng truyền h́nh 850 ngh́n và giữ lại 15% tức là 150 ngh́n đô la. Một lối thù lao khác lối phụ thu (Markup Charges),một phần trăm nào đó trên mỗi thứ phải chi tiêu bên ngoài hăng quảng cáo bởi v́ hăng quảng cáo nhiều khi phải đảm đương những chi tiêu ngoài khuôn khổ khế ước giữa họ và chủ quảng cáo. Món phụ thu này thường được tính từ 17,65% đến 20%. Cách thù lao thứ ba là thù lao theo công nhật (Fees Systems) hay công suất lao động (Labor-based Fees) nghĩa là lối trả tiền công theo thời giờ hăng quảng cáo bỏ ra để làm việc cho chủ quảng cáo. Loại tính tiền này cũng thể như lối tính thù lao của các người hành nghề tự do. Công nhật tính theo lương của người phụ trách hay lương trung b́nh của phân bộ mà người ấy tùy thuộc. Nó c̣n có thể tính theo một con số cố định (Fixed Fee) thỏa thuận giữa chủ và hăng quảng cáo. Gần đây, có thêm lối tính tiền công tùy theo thành quả đạt được (Pay-for-Result Compensation Plans) nhưng tiêu chuẩn để định giá thành quả, như đă đề cập ở trên, vẫn là một cái ǵ hơi mơ hồ v́ c̣n tùy thuộc vào biết bao điều kiện. Kết quả kiểm tra giữa hai thời điểm, một vào năm 1992 và lần khác vào năm 1995 cho ta biết lối thù lao theo huê hồng 15% đă giảm từ 33% xuống 14%, trong khi lối thù lao bằng huê hồng dưới mức này đă tăng từ 26% đến 45% và lối tính tiền theo công nhật đă từ từ tiến từ 32% lên 35% (O?Guinn dẫn Cohen Selinger, 1995).Ngoài ra, các hăng quảng cáo cũng ch́u khách và giữ khách, chấp nhận h́nh thức cạnh tranh với một đồng nghiệp khác bằng cách bỏ thời giờ và công sức để tŕnh bày phương án riêng của ḿnh, nhiều khi tốn công mà chẳng được ǵ. Có h́nh thức hai hăng quảng cáo chia nhau một công việc (Split Decision of Assignment). Khi United Airlines muốn bỏ hăng quảng cáo Leo Burnett, họ dùng hai hăng khác nhau hiệp lực làm chung một quảng cáo. Mc Donald có lần nhờ ba hăng khác nhau, A T & T nhờ cả bốn. Trong trường hợp cạnh tranh ráo riết, hăng quảng cáo có lúc phải tự quảng cáo cho chính ḿnh (Self Promotion). Ngày nay, các hăng quảng cáo có khuynh hướng chấn chỉnh (redesign) lại phương pháp làm việc và chúng ta thấy xuất hiện loại hàng tiếp thị liên kết (IMC Agency hay Integrated Marketing Agency), một h́nh thức mới của hăng quảng cáo có tham vọng đi xa hơn lĩnh vực quảng cáo hiểu theo nghĩa thông thường mà c̣n lấn qua cả khu vực ngoại giao với khách hàng (Public Relations), quảng cáo bằng tổ chức triển lăm, hội hè (Event-Marketing), quảng cáo trực tiếp (DM hay Direct Marketing ví dụ qua thư tín, điện thoại, chào hàng tận nhà). Các hăng quảng cáo cũng cố gắng bắt kịp thời đại bằng cách đi vào lĩnh vực của những môi thể truyền thông có tính cách song phương hay giao hỗ (Interactive Media). Chúng c̣n đóng vai người trợ lực (Facilitors), người môi giới (Intermediators) và người tổ chức để mọi hoạt động quảng cáo và hoạt động ngoại vi của nó được trôi chảy tốt đẹp.
< Về trang Mục Lục > ®
"Khi phát hành lại bài viết
của trang này cần phải có sự đồng
ư của tác giả |