SANEMORI (Thực Thịnh)
Nguyên tác: Zeami Motokiyo
Dịch: Nguyễn Nam Trân

Nỗi buồn của lão tướng
Lược truyện:
Nhà sư vân du tên gọi Du Hành thượng nhân (Yugyô shônin) (1)
khi đi hành cước ở địa phương có lần đến vùng Shinohara trong xứ
Kaga (nay là tỉnh Ishikawa, trông ra biển Nhật Bản) giảng kinh (pháp
đàm). Một hôm thượng nhân nhận thấy trong đám tín hữu dự buổi thuyết
pháp, có một lão già ngày nào cũng chăm chỉ đến nghe và luôn luôn
kính cẩn chắp tay trước mặt mình. Có điều lạ là chỉ có thượng nhân
nhìn thấy lão chứ những kẻ khác thì không vì lão vô hình. Do đó, khi
thượng nhân trò chuyện với lão, người chung quanh lấy làm kỳ cục vì
tưởng như sư phụ đang lẩm bẩm một mình (hitorigoto).Thượng nhân
nhiều lần hỏi tên nhưng lão không chịu đáp. Đến khi thượng nhân thúc
bách quá, lão bèn xin phép nhà sư cho mình gặp riêng để trình bày.
Lúc đó, lão mới kể lại câu chuyện của một samurai trong binh đoàn
Heike là Saitô no Sanemori người đất Nagai (2) đã bị kẻ địch
sát hại trong trận Shinohara (3) rồi đem thủ cấp đẫm máu của
ông ta ra ngoài ao rửa cho mọi người xem. Sau đó, ông lão thú nhận
mình chính là vong hồn của viên tướng ấy rồi biến mất.
Du Hành thượng nhân mới hỏi thăm một người dân làng (satobito) tin
tức về tướng Sanemori và trận đánh nói trên. Xong, ông đi đến kết
luận rằng người mình vừa gặp đúng là vong linh của Sanemori. Ông lại
nhờ người dân làng báo tin cho dân quanh vùng Shinohara là mình muốn
tổ chức một buổi lễ cầu siêu cho Sanemori, lúc đó sẽ có cảnh tụng
niệm Phật A Di Đà và múa hát (odori-nenbutsu, một đặc trưng của phái
Thì Tông, Jishuu).
Đêm hôm đó, bên bờ ao nơi xưa kia xảy ra chuyện rửa thủ cấp, khi Du
Hành thượng nhân đọc kinh và niệm Phật A Di Đà thì vong hồn của
Sanemori hiện ra với râu tóc bạc trắng với giáp trụ trên nền áo
hitatare (kimono buông thẳng) bằng gấm đỏ như hình ảnh trong cuộc tỉ
thí giữa ông với tướng Tezuka no Tarô Mitsumori của binh đoàn Genji.
Sau khi khẩn khoản thượng nhân cầu nguyện để hồi hướng cho mình, ông
liền biến mất vào trong không gian.
Đặc trưng của vở tuồng:
Vở Sanemori này được xếp vào trong Tam Tu La (Sanshura) tức 3 vở A
Tu La (Ashura) nghĩa là tuồng Nô có chủ đề chiến đấu với cảnh tượng
chém giết như địa ngục cùng 2 vở Tomonaga (Triều Trường) và Yorimasa
(Lại Chính) vốn mang tên hai vũ tướng với hai định mệnh bi đát khác.
Nó cũng là một trong Tam Thịnh (San-Mori) tức 3 vở mà nhân vật chính
có tên là Thịnh (Mori): Sanemori (Thực Thịnh),Thịnh Cửu (Morihisa)
và Thông Thịnh (Michimori). Vở tuồng thuộc loại Shuramono (Nô chém
giết) còn gọi là Rôbusha-mono (Nô lão tướng) này đòi hỏi rất nhiều
công phu diễn xuất (vì diễn viên trong khi chưa già mà phải đóng vai
người già, thêm vào đó, diễn viên độc diễn phải thủ nhiều vai khi kể
truyện). Do đó một người chưa đủ khả năng chuyên nghiệp sẽ khó lòng
được chọn để đóng vai Sanemori. Ngoài ra, ngày xưa, vở Sanemori này
còn biết đến bằng một hai tên khác như Shinohara hay Shinohara
Sanemori.
Tuồng Sanemori do Zeami chấp bút và dựa trên một tiết trong Truyện
Heike. Tuy nhiên, người đời sau suy định rằng nguồn cảm hứng của
Zeami (1363?-1443?) chính ra đã đến từ một câu chuyện có thực (từ
một cuốn nhật ký) (4) chứ không phải được hư cấu bởi tác giả
tiểu thuyết chiến ký mang tên Truyện Heike. Vào năm 1414 tức khoảng
230 năm sau cái chết của Sanemori, nhật ký ấy ghi rằng có một tin
đồn không biết từ đâu đã loan truyền đến Kyôto liên quan đến việc
hồn ma của tướng Sanemori hiện ra ở Shinohara (thuộc Kaga) làm cho
Du Hành thượng nhân phải đọc Thập Niệm A Di Đà để cầu siêu cho ông.
Như vậy, thông tin trong nhật ký mới là cơ sở thực sự của vở tuồng.
Hầu hết các tuồng Shuramono đều bắt đầu với cảnh Shite tức vai chánh
(= Maejite) dưới dạng người sống bước lên sân khấu và hé lộ cho
thiên hạ (thường là thầy tăng vân du) biết mình là một hồn ma. Trong
khi đó, nơi vở tuồng này, một việc khác thường đã xảy ra. Nhân vật
chủ chốt, Sanemori, lại vô hình vô ảnh. Do đó, lúc đầu, không ai
nhận ra ông là một hồn ma. Nói cách khác, cấu trúc của vở Sanemori
không giống như những vở Shuramono truyền thống. Một đặc điểm thứ
hai là nó lại bắt đầu với Kuchiake (khai khẩu), một thủ pháp của
Kyôgen. Ở đây, vai Ai-Kyôgen không đợi đến lúc nghỉ giữa hai màn
(Nakairi) mà đã can thiệp ngay trong phần mở đầu tức là đảo lộn thứ
tự của vở.
Chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy Sanemori, một lão tướng, với quyết
tâm sắt đá đến độ nhuộm tóc bạc cho đen để xung trận, đi tiên phong
đối đầu với đám tướng trẻ bên địch, mà quá thảm thương khi diễn lớp
chiến đấu cuối cùng. Sanemori chỉ cho khán giả thấy được hình ảnh
của một lão tướng đã mất hết sinh lực và tàn tạ như thân cây khô
héo. Có lẽ vì thế mà dịch giả Armen Godel (xem thư mục tham khảo) đã
xếp Sanemori vào cùng một loại với Obasute (Núi vứt bà già) như hai
vở tuồng nói về chủ đề sự suy sụp thảm hại của người già, một nam
một nữ.
Trong màn thứ hai của vở này, Shite (= Nochijite) độc diễn, kể lại
cuộc chiến đấu cuối cùng của mình và làm những động tác mạnh bạo cần
đến khả năng của bắp thịt dù nhân vật chỉ là một lão già. Có thể xem
phần kể lể (katari) về cuộc giao đấu giữa ông và Tezuka no Tarô
Mitsumori cũng như cảnh người ta đem thủ cấp của ông ra ao để rửa là
hai cảnh khó diễn nhất. Lúc ấy, ông còn phải đóng thêm cả vai của ba
kẻ thù khác nhau là Tezuka (kẻ sát hại ông), Kiso Yoshinaka (xưa là
người ông dưỡng dục, nay trở thành chủ tướng bên địch) và Higuchi
Jirô (một đồng đội cũ đã nhận ra ông khi nhìn thấy thủ cấp). Cách
ông lần lượt diễn 3 nhân vật này là một cảnh thú vị của vở tuồng.
Các thông tin khác liên quan đến vở tuồng:
Lưu phái: Ngũ lưu (cả năm trường phái chính đều diễn vở này).
Lớp: Lớp thứ 2 tức Nô Shura-mono (Nô chém giết).
Tác giả: Zeami Motokiyo.
Xuất điển: Phân đoạn gọi là Sanemori no saigo no koto (Về cái chết
của Sanemori) trong chương 7 Truyện Heike.
Mùa: không định rõ.( Godel dẫn ra là tháng 8, giữa mùa thu)
Cảnh: Cánh đồng Shinohara trong xứ Kaga vào buổi chiều (1) và giữa
ban đêm (2).
Phối vai:
Maejite; Lão già (hồn ma của Saitô no Bettô Sanemori).
Nochijite: Saitô no Bettô Sanemori (tên và chức vụ của ông).
Waki: Yuugyô Shônin (Du Hành thượng nhân) đời thứ 14.
Wakizure: Các nhà sư tùy tùng của thượng nhân (2, 3 người)
Ai-Kyôgen: một người dân làng ở Shinohara.
Mặt nạ:
Maejite:
Sankôjô, Asakurajô, Waraijô vv...
Nochijite:
Sankôjô, Asakura jô, Waraijô vv...
Sankôjô là tên mặt nạ người già do nghệ nhân biệt hiệu Sankôjô (Tam
Quan Úy), một men.uchi tức chuyên gia về mặt nạ tạc ra đầu tiên. Nói
chung là các mặt nạ người già nói trên được dùng cho cả 2 màn.
Trang phục (trình bày sơ lược):
Maejite:
đội Jô-kami (tóc mượn dành cho người già), mặc áo mizugoromo tức
kimono thông thường, dài đến đầu gối. Áo trên ngắn tay, không có hoa
văn hay tô vẽ. Tay cầm chuỗi bồ đề.
Nochijite:
đội Shirotare (tóc mượn bạc trắng), chít khăn bịt đầu, áo kimono
kiểu happi (= pháp bị, áo ngắn nhà chùa), mặc quần váy hakama kiểu
hangire dành cho các vai thần, quỉ, vũ tướng. Mang quạt và kiếm.
Waki:
đội sumi-bôshi hay mão nhà sư có góc cạnh, mặc áo kimono vải dày,
quần váy hakama rộng màu trắng. Cầm quạt và chuỗi bồ đề.
Wakizure:
giống như Waki.
Ai:
Áo khoác kataginu không ống tay, quần váy nửa vời han-hakama. Giắt
theo đoản đao, tay cầm quạt.
Cảnh (màn): 2
Thời lượng: khoảng 1h45.
Để tiện theo dõi, xin chia vở tuồng thành 8 tiểu đoạn ABCDEFGH.
Ca từ có dấu hoa thị * ở hai bên chỉ thấy trong ca từ của một
số lưu phái.

Sanemori độc diễn trên sân khấu
Văn bản tuồng với lời giải thích in nghiêng
Kyôgen Kuchiake:
Người dân làng ở Shinohara (vai Ai-Kyôgen) bước ra “khai khẩu”, cho
biết nhà sư Yugyô Shônin (Du Hành thượng nhân) sẽ có những buổi
thuyết pháp rất linh ứng tại địa phương này.
A-
Thượng nhân thuyết pháp:
Du Hành thượng nhân cùng các tăng nhân tháp tùng đi chầm chậm và giữ
yên lặng khi bước vào sân khấu. Người dân làng ở Shinohara (vai
Ai-Kyôgen) cũng vào và đến đứng cạnh cây cột, chỗ dành cho Shite.
Dân làng
(Ai-Kyôgen) (kuchiake = khai khẩu): Tôi là một thường dân ở
Shinohara trong xứ Kaga này. Hiện có vị Du Hành thượng nhân (đời thứ
14) tên là Tawami đang ghé qua đây và thuyết pháp mỗi ngày. Tuy vậy,
lúc bắt đầu buổi chiều thì ngài lại cứ nói chuyện một mình làm cho
người trong làng không hiểu tại sao. Nhân biết tôi là người hay đến
gặp ngài họ bèn đem thắc mắc đó nhờ tôi giải đáp. Vậy xế trưa hôm
nay tôi sẽ đến dò la xem sự thể đã chuyển biến ra thế nào. Mọi người
hãy giúp tôi giải quyết vụ này nhé (lập lại 2 lần). (Vai Ai nói
xong bèn vào ngồi sâu bên trong sân khấu)
Thượng nhân:
Cõi Cực Lạc Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà nằm ở Tây Phương, muốn đến
đó phải vượt qua thập vạn ức lãnh thổ, cuối một con đường xa tắp
(5).
Thượng nhân / Các tăng nhân:
Nhưng nếu các ngươi khai ngộ thì cõi Cực Lạc tức Phật quốc của Đức
Phật A Di Đà Như Lai sẽ nằm ngay trong lòng ngươi.
Thượng nhân:
Giàu, sang, nghèo, hèn, mặc lòng, nếu các ngươi họp nhau lại xưng
danh hiệu ngài bằng cách niệm“Nam mô A Di Đà Phật”
Thượng nhân/ Các tăng nhân:
Mỗi ngày mỗi đêm ở nơi đạo tràng này...
Thượng nhân:
Đức Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn các ngươi về Tây Phương Tịnh Độ.
Các tăng nhân:
Ngài sẽ không bỏ sót bất cứ ai. (6)
Thượng nhân:
Cho nên dù mọi người có bỏ ra về và ngươi chỉ còn một mình, cứ nán
lại mà tụng niệm danh hiệu ngài. (7)
*Các tăng nhân: Hãy tụng niệm tên ngài không ngừng nghỉ*.
Thượng nhân / Các tăng nhân:
Tuy các ngươi không hiểu gì về Phật pháp nhưng Đức Phật A Di Đà đã
có lời thệ nguyện là ngài sẽ không bỏ sót một ai (nhiếp thủ bất xả
ngự thệ nguyện). Tất cả mọi người đều sẽ được ngài đến rước về miền
Cực Lạc. Con thuyền cứu độ (pháp chu) sẽ trôi đi một cách nhẹ nhàng
và những kẻ sẽ thành Phật như chúng ta đều được đưa đi trên con
thuyền đó.
B-
Lão già xuất hiện:
Lão già bước vào sân khấu, miệng than thở về cảnh già nua và xin Du
Hành thượng nhân thuyết pháp cho nghe.
Lão già
(Maejite, hồn ma của Sanemori): Ta nghe như có tiếng sênh (shô)
(8) đưa âm nhạc thiêng liêng xuống tự trời cao, nhìn thấy ánh
hoàng hôn chiếu đến từ cõi Tây phương nơi có chư Phật và Bồ Tát. Ôi,
quí hóa thay! Hôm nay lại có chòm mây tím báo hiệu một người cao quí
giống như Đức Phật A Di Đà đang đến đón ta trước khi nắng tắt (9)*
Tiếng tụng niệm đã vọng đến tai ta. Phải chăng mọi người đã bắt đầu
hành lễ cho buổi ban ngày (10)?* Đúng rồi, bên tai ta đang
văng vẳng tiếng chuông và tiếng tụng niệm*. Đến nghe thuyết pháp vào
giờ này thật đúng lúc. Dạo này, cùng với thời gian, tấm thân già của
ta suy yếu, đứng ngồi đều khó khăn nên ngày ngày, ta không làm sao
đến gần chỗ thuyết pháp.Thôi thì, hôm nay dù chỉ được nhìn từ xa, ta
cũng ráng đến để nghe kinh. Nếu lòng thành thực tin vào Đức Phật A
Di Đà và xướng lên danh hiệu ngài thì chắc chắn ngài sẽ đến tiếp dẫn
ta về cõi Tây Phương Cực Lạc. Thế nhưng đôi mắt già nua nay đã bị
mây mù che phủ, khó lòng nhìn thấy con đường về chốn đó. Dù đi nhanh
không nổi nhưng nếu tiếp tục tiến lên phía trước, ta sẽ đến gần nơi
thuyết pháp và cõi Cực Lạc sẽ không xa. Nam Mô A Di Đà Phật.
(Maejite đến ngồi trước mặt Waki và chắp tay)
C-
Đối thoại giữa thượng nhân và lão già:
Du Hành thượng nhân và lão già nói chuyện với nhau. Tuy rằng lúc đầu
lão già có lưỡng lự khi bị hỏi thăm danh tánh nhưng cuối cùng lão đã
tiết lộ rằng mình là hồn ma của Sanemori. Đứng trước thượng nhân,
Sanemori tỏ ra sám hối về sự tham luyến của mình đối với cõi đời
trần tục.
Thượng nhân:
Chào lão trượng!
Lão già:
Vâng, thầy đang ngỏ lời với tôi đấy ư?
Thượng nhân:
Này lão trượng, nhân thấy mỗi ngày ông đều chăm chỉ đến đây tụng
niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà nên ta biết ông có lòng tin sâu sắc.
Chỉ có mỗi mình ta là thấy ông cho nên những người khác vẫn tự hỏi
không biết ta đang nói chuyện với ai và nói những gì. Ông có thể cho
ta hay quí danh không?
Lão già:
Câu hỏi của thầy thật bất ngờ. Tôi chỉ là một người nhà nông cho nên
không có tên tuổi gì đáng kể để thưa với thầy. Còn như thầy, Du Hành
thượng nhân ạ, thầy đã bỏ Kyôto để đến chỗ quê mùa thì có khác chi
Đức Phật A Di Đà đang tìm cách tiếp dẫn chúng tôi. Sau khi đã sống
thọ đến tuổi này, tôi mới thấy mình là người may mắn vì đã được nghe
tiếng tụng niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà. Tôi giống như con
rùa mù vớ được tấm gỗ trôi giữa đại dương mênh mông hay giống như kẻ
được ngắm hoa ưu đàm (Udumbara), loài hoa quí hiếm phải 3 nghìn năm
mới nở một lần (11). Lòng của tôi giờ đây không có niềm vui
nào lớn hơn và những giọt lệ mừng sẽ không hề cạn. Sự hoan hỉ tôi
đang cảm thấy không khác gì niềm vui của một người cuối cùng đã được
thác sinh vào cõi Cực Lạc Tịnh Độ (An Lạc Quốc). Tôi không thích nói
đến cái tên mà tôi có hồi còn sống trong sự ràng buộc của vòng sinh
tử luân hồi, nơi tôi bị cuốn vào vực xoáy của những cố chấp không
sao rứt ra. Do đó, xin thưa với thầy một lần nữa là vạn bất đắc dĩ
tôi mới không chịu nêu danh tánh. (Nói xong, maejite (lão già)
cúi cầu sát đất)
Thượng nhân:
Dĩ nhiên những gì ông nói hoàn toàn đúng cả nhưng nếu ông cho ta
biết mình là ai thì điều đó có thể giúp ông sám hối được những lỗi
lầm và trở về đường ngay nẻo chính. Cho nên chớ ngần ngại gì mà
không nói ta hay.
Lão già:
*Nếu thế thì chắc tôi không còn dấu diếm thầy được nữa. Vâng, tôi sẽ
cho thầy biết tôi là ai!*
Thượng nhân:
Phải rồi! Hãy nói ta nghe!
Lão già:
Xin thầy bảo người chung quanh chịu khó lánh mặt đi một chút.*Tôi sẽ
tiến sát lại gần thầy để nói tên tôi*
Thượng nhân:
Ngay từ lúc đầu, chỉ một mình ta thấy được ông. Nhưng thôi, ta sẽ
bảo mọi người lánh mặt đúng như ông muốn. Hãy ghé sát bên ta và nói
nhỏ tên mình.
(Maejite (lão già) đứng lên và đến ngồi giữa sân khấu)
Lão già:
Đã lâu lắm rồi, có một người tên là Saitô no Bettô (12)
Sanemori đất Nagai đã bị giết trong trận Shinohara. Chắc thày có
nghe câu chuyện về người đó.
Thượng nhân:
Ta biết ông Sanemori ấy là vị võ tướng trong quân đoàn Heike, một
người chỉ huy nổi tiếng dũng cảm (cường cung tinh binh). Thành ra ta
không muốn ông kể thêm chi những chuyện đánh nhau. Ta chỉ muốn biết
tên ông mà thôi!
Lão già:
Vâng, sau khi thủ cấp của Sanemori được đem tới nhận diện, người ta
đã mang nó ra cái ao ngay trước mặt thầy đây để rửa sạch râu tóc.
Điều đó đã giúp mọi người hiểu được tại sao ông ấy không rời được
cái ao này. Dân làng sống trong vùng nhiều người quả quyết đã gặp
được hồn ma của Sanemori.
Thượng nhân:
*Ôi chao! Họ từng gặp hồn ma ấy cơ à? Bây giờ còn có thấy nữa không?
Lão già:
“Khuất giữa lùm cây trong núi sâu, ngọn cây ấy không ai thấy được.
Thế nhưng đến độ mùa hoa nở, người ta liền biết nó là cây anh đào”
(13). Giống như bài thơ trên nói về sự khám phá bất chợt một vật gì
dấu kín, xin thầy hiểu cho rằng, lão già có khuôn mặt cằn cỗi như
thân cây khô chính là Sanemori.
Thượng nhân:
Lạ thay!. Ta cứ tưởng chuyện xưa lơ xưa lắc về Sanemori nào có gì
dính líu đến ta nhưng bây giờ ta đã hiểu ra là mình có liên can đến
nó.Thế ông là vong linh của tướng Sanemori ư?
Lão già:
Đúng vậy, thầy ơi! Tôi là hồn ma của Sanemori. Tuy rằng hồn thì đã
đi sang thế giới khác (minh đồ) nhưng phách (14) của tôi hiện
vẫn lưu lại cõi đời!
Thượng nhân:
Và lòng ông còn bám víu vào thế giới hiện tại (hiện thế)?
Lão già:
Nên tôi đã nán lại đây từ hơn 200 năm! Nhưng dù sao...
Thượng nhân:
...ông đã không thể thành Phật...
Lão già:
Như những con sóng lao xao trên mặt ao Shinohara, lòng tôi không
phân biệt được ban đêm...
Thượng nhân:
với ban ngày, cũng chỉ vì bóng tối của vô minh.
Lão già:
Tôi không biết đâu là mộng. (15)..
Thượng nhân:
và đâu là thực, bởi vì lòng ông...
Lão già:
...rất đỗi hoang mang. Từ trong nấm mộ giữa đám cỏ bên bờ ao
Shinohara, một bóng già nua với mái tóc bạc đã bước ra...
Hợp xướng:
Từ trong nấm mộ giữa đám cỏ bên bờ ao Shinohara, một bóng già nua
với mái tóc bạc đã bước ra nhưng chỉ hiện ra trong thoáng chốc. “Cho
nên đừng trách móc tôi chi” (16). Xin chớ rêu rao tên
Sanemori, người đã hiện ra trước mặt thầy như thế này.Tôi sẽ tủi hổ
khi còn nghe tiếng đời đồn đại dù mình đã chết từ lâu.
Xong, lão già chợt biến mất vào trong không gian cạnh bờ ao
Shinohara. (Trên thực tế, Maejite đứng lên và đi chầm chậm ra ngoài
sân khấu)
(Đến đây là Nakairi, chỗ nghỉ giữa hai màn)
Dân làng (vai Ai Kyôgen) hỏi Du Hành thượng nhân tại sao ông nói
chuyện với ai mà cứ lẩm ba lẩm bẩm. Thay vì trả lời, thượng nhân hỏi
lại người ấy về Sanemori. Dân làng mới thuật lại cảnh chiến đấu dũng
cảm của Sanemori trên chiến trường và khẩn khoản thượng nhân tổ chức
một pháp sự để cầu siêu cho vong hồn lão tướng.Thượng nhân bèn nhờ
dân làng bố cáo cho người trong vùng Shinohara để họ đến tham dự,
cùng lúc thông tin là sẽ có cảnh vừa tụng niệm danh hiệu A Di Đà vừa
nhảy múa (odori-nenbutsu).
(Vì có rất nhiều chỗ trùng hợp với nội dung bản tuồng nên xin lược
bỏ đoạn Kyôgen, NNT)
D-
Thượng nhân cầu siêu cho vong hồn Sanemori:
Bên bờ ao, Du Hành thượng nhân và các tăng nhân tùy tùng tụng kinh
cầu siêu cho Sanemori bằng cách xướng danh Đức Phật A Di Đà suốt một
đêm.
(Vai Waki (thượng nhân) đứng lên).
Thượng nhân:*Nào,
chúng ta hãy niệm Đức Phật A Di Đà, đặc biệt để hồi hướng cho vong
linh tướng Sanemori!”* (Hai tăng nhân(vai Wakizure) tiến gần Waki
ở giữa sân khấu)
Thượng nhân / Các tăng nhân:
Chúng ta đang tổ chức một buổi lễ cầu siêu bên ao Shinohara. Với
lòng tin sâu sắc và lời ca trong thanh xướng danh hiệu Đức A Di Đà,
chúng ta sẽ hành lễ suốt từ đầu hôm cho tới sáng dưới bầu trời không
mây và có vầng trăng chiếu ánh sáng trong vắt như cõi lòng thanh
tịnh của chúng ta. Hãy giúp cho vong hồn sớm về cõi Tây Phương Tịnh
Độ bằng cách tiếp tục đánh chiêng (chinh = kane) lên cho đến hết đêm
nay. (Waki và 2 wakizure, cả ba làm cử chỉ tụng niệm)
Thượng nhân:
Nam Mô A Di Đà Phật. Nam Mô A Di Đà Phật.
E-
Sanemori lại xuất hiện nhưng trong trang phục võ tướng:
Sanemori (Nochijite) lại bước vào sân khấu nhưng lần này trong trang
phục chiến đấu của một lão tướng. Ông tỏ lòng biết ơn thượng nhân vì
giờ đây mình đã được vãng sanh cực lạc.
(Waki vào ngồi ở Wakiza còn Wakizure trở lại ngồi cạnh Jiutai (ban
hợp xướng) còn Nochijite (Sanemori) thì dừng bước trên cầu)
Sanemori
(vai Nochijite): Nay tôi đã vãng sinh về miền Cực Lạc. Tôi đã vượt
qua biển khổ, xa cõi mê lầm của kiếp luân hồi. Nỗi vui mừng này biết
mấy cho cân. Nay tôi đang ở trong thế giới cực lạc, nơi sinh mệnh là
vĩnh cửu. Đức Phật A Di Đà là chỗ nương tựa chắc chắn của tôi. Những
ai không ngớt lời ca tụng danh hiệu ngài...
Hợp xướng:
...sẽ được siêu sinh về miền Cực Lạc..
Sanemori:
Khi tôi lên tiếng: Nam Mô...
Hợp xướng:
...là tôi muốn xin đến nương tựa và làm theo lời ngài dạy.
Sanemori:
Khi tôi xướng danh A Di Đà...
Hợp xướng:
...cũng là lúc Đức Phật A Di Đà nghe được lời cầu xin và giúp tôi tu
hành để thác sanh về cõi Tịnh Độ. Vì thế cho nên... (Nochijite
(hồn ma Sanemori) bước ra mặt tiền sân khấu)
Sanemori:
...những ai niệm “Nam Mô A Di Đà Phật chắc chắn sẽ được thác sanh về
cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà.
Hợp xướng:
Thật có hạnh phúc nào bằng! (Nochijite (hồn ma Sanemori) quay mặt
về phía Waki (thượng nhân) và chắp tay như khấn khứa)
F-
Đối thoại giữa thượng nhân và Sanemori:
Sanemori tái ngộ Du Hành thượng nhân và giữa hai người lại có một
cuộc đối thoại. Sanemori đánh giá những lời dạy của Đức Phật còn có
giá trị hơn tất cả những giáp trụ xa hoa lộng lẫy đang mang trên
người. Ông xin thượng nhân hãy chứng minh cho sự sám hối của mình
trước giờ được thành Phật.
Thượng nhân:
Lạ lùng thay! *Có bóng ai đang hiện ra trên mặt ao* khi sương chiều
bắt đầu bao phủ. Dường như đây là hình dáng của lão già ta gặp hôm
trước. Ông ta lại mặc khôi giáp mới kỳ lạ chứ!
Sanemori:
*Cho dù thân tôi đã bị vùi chôn như một thanh gỗ mục không kẻ đoái
hoài, xin cho phép tôi được giải bày về những thống khổ mình phải
chịu trong địa ngục Tu La trước khi đạt đến Niết Bàn. Ôi, nỗi thống
khổ ấy nói sao cho cạn!*
Thượng nhân:
*Cho dù tôi nhìn thấy và nghe được tiếng ông, những người khác đều
không nghe không thấy.*
Sanemori:
*Ôi, chỉ có mỗi Du Hành thượng nhân...*
Thượng nhân:
*...nhìn được bóng ông ta. Ông ấy giống như một đống tuyết đang tan
khi mùa xuân tới.*
Sanemori:
*Đó là trang lão tướng với mái tóc và chòm râu bạc*.
Thượng nhân:
* ...nhưng vẫn mang dáng dấp hào hoa*.
Sanemori:
*Đặc biệt là khôi giáp rỡ ràng*
Thượng nhân:
*Dưới bóng trăng thanh*
Sanemori:
*...ánh lên cùng ngọn lửa*
Hợp xướng:
*Choàng lên tấm áo hitatare bằng gấm, ông còn mặc chiến bào màu xanh
nõn (17) và mang bên hông một thanh kiếm đặt trong bao dát
vàng. Nhưng đối với tấm thân ta hiện tại, thử hỏi chúng có còn là
vật báu hay không? Thực vậy, cái mà giờ đây ta trân quí nhất là
những tòa sen bên hồ trên đó những người đã vãng sinh về cõi Tây
Phương Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà đang ngồi. Những lời dạy dỗ quí
giá của Đức Phật, tuyệt đối không có gì để nghi ngờ, sẽ là chân lý
vĩnh cửu. Nếu chúng ta tiếp tục xướng lên những lời châu ngọc đó,
hỏi có lý gì không thành Phật được?*
Sanemori / Hợp xướng:
*Một niệm A Di Đà, Sẽ tiêu đi vạn tội.* (18)
Thượng nhân:
* Khi nhìn ông, ta thấy có cái gì đang ngăn trở, không cho phép ông
thoát khỏi kiếp luân hồi. Ông phải vứt bỏ mọi cố chấp thì mới đến
được bên tòa sen của Đức Phật A Di Đà, nơi mà mọi tội lỗi sẽ tiêu
tan tức khắc*.
Hợp xướng:
Để có những quả báo tốt lành, phải tích tụ được nhiều công đức nhưng
tất cả phải hướng về Đức Phật và không được chần chờ nói lên ước
vọng vãng sanh.
Sanemori:
Giờ đã điểm. Đêm hôm nay, tôi vừa nhận được một lời dạy dỗ quí báu
về Phật pháp.
Hợp xướng:
Tôi xin kể lại đầu đuôi những chuyện xảy ra và sám hối về bao tội
lỗi làm tôi hổ thẹn. Tôi là người hãy còn luyến tiếc quá khứ dù vào
một thời xa xưa, tôi đã biến mất vào lòng huyệt mộ như giọt sương
rơi trên cánh đồng Shinohara. Hãy nghe tôi kể!
G-
Sanemori bắt đầu sám hối:
Sanemori bắt đầu bày tỏ sự ăn năn của ông trước mặt Du Hành thượng
nhân. Trước tiên, ông kể lại rằng Tezuka no Tarô Mitsumori đã đem
đến trình cho chủ tướng là Kiso Yoshinaka thủ cấp một samurai kỳ lạ,
người vừa chết dưới bàn tay của mình. Sau đó, Higuchi Jirô (19)
đến nơi và xác nhận được thủ cấp của Sanemori và đem ra ngoài ao để
rửa. Ngoài ra, Sanemori cũng cho biết hôm ấy ông đã mặc một tấm
kimono kiểu hitatare bằng gấm đỏ khi ra trận trên mảnh đất quê
hương.
Sanemori:
Lúc đó, quân Heike chúng tôi gặp thế bất lợi và vừa thua xong trận
Shinohara. Tezuka no Tarô Mitsumori (20) phía Genji mới đến
phúc trình cho chủ tướng của mình là Kiso Yoshinaka: “Tiểu tướng vừa
giao chiến với một samurai quái dị và đã lấy được thủ cấp của hắn.
Trước tiên, tôi nghĩ hắn là một tướng lãnh nhưng sao không thấy có
bộ hạ đi theo. Do đó, tôi mới phỏng đoán hắn ta chỉ là một samurai
bình thường. Thế nhưng lạ một cái là hắn lại mặc một tấm hitatare
bằng gấm đỏ. Tôi đã mấy lần giục giã hắn xưng tên nhưng hắn không
chịu tiết lộ danh tánh ngay cả lúc sắp chết. Có điều là khi hắn lên
tiếng, tôi nhận ra âm sắc của người miền Đông”. Sau khi nghe báo
cáo, Kiso liền lên tiếng khen ngợi người samurai tử trận và bảo: “Có
lẽ là Saitô no Bettô Sanemorim đất Nagai đấy! Hẵn râu tóc ông ta
phải bạc trắng. * Hồi ta thoáng gặp ông ấy ở Kôzuke (Thượng châu,
nay là tỉnh Gunma) thì nó đã bạc phần nào. Giờ đây chắc đã trắng như
bông*. Vì vậy ta hơi ngờ ngợ khi thấy râu tóc người samurai này đen
quá. Higuchi Jirô chắc thẩm tra được người này có phải Sanemori hay
không! “ Nói xong, Kiso cho gọi Higuchi Jirô. Khi vừa đến nơi và đưa
mắt nhìn thủ cấp, Higuchi đã không cầm được giọt lệ. ”Tội nghiệp
chưa! Người này đúng là Saitô no Bettô Sanemori đấy! Ông ta thường
lo là nếu mình phải ra trận khi đã quá tuổi 60 sẽ khó lòng lên tuyến
đầu để đối địch với các chiến sĩ trẻ. Nhưng ông cũng không muốn để
họ chê mình già. Ông bảo mình sẽ nhuộm râu tóc bằng mực để có thể
xung trận như một thanh niên. Như vậy thì chắc ông ấy đã nhuộm đen
râu tóc đó. Chúng ta đem đi rửa thử xem.” Chưa nói hết lời, Higuchi
đã xách chiếc thủ cấp ra ngoài.
Hợp xướng:
Trước mặt ngài Kiso và bên cạnh bờ ao này, có những cành liễu rủ
bóng trên nước biếc như đang soi gương. (Nochijite dùng lá quạt
làm cử chỉ rót thuốc nhuộm lên tóc). Giữa một ngày bình yên với
nắng đẹp, trời xanh, chỉ có chút gió hiu hiu như muốn chải đầu tơ
liễu, Higuchi đã chải tóc cho Sanemori. Lúc đó băng mới vừa tan và
những ngọn sóng đã đẩy dạt rong rêu cũ (21) Higuchi đã rửa
chòm râu của Sanemori giống như vậy. Thế rồi mực nhuộm đã làm sạch
đi, để lộ hết râu tóc tự nhiên của ông. Lúc đó, người đứng chung
quanh đều cảm thán: “Một chiến sĩ xứng đáng với thân danh tất phải
hành động như lão già này!”. Tất cả đều sụt sùi vì xúc động.
Hơn thế, Sanemori (22) không mang trên người chiếc áo
hitatare bằng gấm đỏ chỉ vì sở thích riêng tư. Trước khi rời khỏi
Kyôto, tôi (= Sanemori) đã đến gặp để thưa chủ tướng là ngài Taira
no Munemori, con thứ của ngài Taira no Kiyomori (thủ lĩnh Heike) và
thưa rằng: “Trong sự tích nói về Chu Mại Thần (23), có đoạn cho biết
ông ta đã mặc áo gấm khi về quê hương. Tuy Sanemori tôi sinh ra
trong vùng Echizen nhưng những năm gần đây lại nương náu ở trang
Nagai xứ Musashi vì (gia đình) được ban cho một lãnh địa. Lần này
khi (phụng mệnh chủ tướng) lên miền Bắc (ý nói Echizen) ( 24)
chiến đấu, tôi biết chắc mình sẽ bỏ xác nơi đây. Việc được mặc một
bộ áo bằng gấm đỏ, đối với tôi, nếu bảo là kỷ niệm tuyệt vời nhất
của một người già khi về lại cố hương thì chắc cũng không ngoa. Vậy
xin ngài cho phép tôi được mặc áo làm bằng gấm đỏ” (25) Thế
rồi Sanemori đã được (chủ tướng) ban cho một chiếc áo hitatare màu
đỏ bằng gấm..
Sanemori:
Xưa có bài thơ: “Vẹt những lá phong đỏ / dọn con đường ta đi / ...
Hợp xướng:
“...Làm người khác nghĩ rằng / Ta về trong áo gấm” (26).
Người làm bài thơ này chắc cũng từng có tâm sự như ta. Bao nhiêu thế
kỷ về trước, ở Trung Quốc, Chu Mại Thần khi về cố hương đã vẫy tay
áo thụng dệt bằng gấm từ Cối Kê (Kuaiji). Hôm nay Sanemori đã tìm
được công danh nơi Bắc quốc (ý nói Shinohara, Echizen) và sẽ lưu lại
tên tuổi đến nhiều đời sau như một trang vũ sĩ. Từ giờ này cho đến
khi trời rạng sáng, hãy cho phép tôi kể lại những điều sám hối của
mình.
H-
Sanemori tiếp tục sám hối rồi biến mất:
Sanemori tiếp tục bày tỏ lòng sám hối và kể lại những giây phút cuối
cùng của đời mình khi quyết chiến với Tezuka nhưng cho nhiều chi
tiết hơn. Kể xong, ông bèn cầu xin Du Hành thượng nhân hồi hướng cho
mình bằng cách tụng kinh xưng danh Đức Phật A Di Đà.
Hợp xướng:
Đây đúng là một câu chuyện về sự sám hối. Hãy làm sao để nước trong
lòng ngươi cũng lắng cho đến đáy (27). Đừng để một vật gì bám
víu vào đó nữa.
Sanemori:
Những dục vọng tham luyến đã ràng buộc tôi với thống khổ của Địa
ngục A-tu-la, trải biết bao lần mà không sao thoát được. Khi tôi
muốn kiếm đại tướng chỉ huy bên địch là Kiso Yoshinaka để giao chiến
thì (tên tiểu tướng) Tezuka đã tiến ra ngáng đường chận đứng được
tôi. Cho đến bây giờ, lòng tôi vẫn tràn đầy hối tiếc.
Hợp xướng:
Nhiều võ tướng đã tiến ra phía trước và lần lượt xưng danh. Kẻ đầu
tiên xáp lại gần tôi là...
Sanemori:
Tezuka no Tarô Mitsumori.
Hợp xướng:
(Lúc đó) một thủ hạ (rôdô) (28) của Mitsumori muốn bảo vệ chủ
mình.
Sanemori:
Chen ra đứng giữa tôi với hắn.
Hợp xướng:
Rồi chạy bám theo một bên hông để đấu với tôi.
Sanemori:
“Khá khen cho mi! (29) Muốn đánh nhau với ta, người dũng sĩ
số một Nhật Bản này chăng?” Khi ta nói xong...
Sanemori / Hợp xướng:
Bèn ghìm đầu tên đó xuống phần trước yên ngựa, cắt đi và vứt ra xa.
(Nochijite làm cử chỉ cắt đầu kẻ địch)
Hợp xướng:
Sau đó, Tezuka no Tarô Mitsumori đã vòng qua bên trái địch thủ. Ông
ta cho tay nắm lấy giải giây áo giáp của Sanemori, lật ngược lên và
đâm vào đấy hai nhát kiếm. Thế nhưng Sanemori cũng chụp được Tezuka
và cùng nhau rơi xuống, họ lăn đùng giữa hai thớt ngựa.
Sanemori:
Buồn thay cho người tướng già.. (Nochijite quỵ đầu gối)
Hợp xướng:
Như một thân cây khô bị gió lay đến gãy, Sanemori sức cùng lực tận,
bị Tezuka đè lên người và ngay lúc đó, một thủ hạ của hắn chạy đến
cắt đầu ông. Sanemori đã trở thành một nắm đất vô danh trên cánh
đồng Shinohara, biến mất đi không để lại vết tích. Xin người hãy
niệm Nam Mô A Di Đà Phật để ai điếu vong hồn của Sanemori.
(Nochijite ngẩng đầu lên và làm cử chỉ khấn khứa)
Danh tướng Kiso Yoshinaka (1154-1184, ảnh minh họa)
(Kết thúc vở)
Phần Chú Thích:
1)
Yugyô shônin là tên chỉ chung các tăng du hành của Thì tông, còn gọi
là Du Hành Tông, một môn phái tách ra khỏi Tịnh Độ Tông và Tịnh Độ
Chân Tông. Mọi giáo chủ của tông này đều mang tên Tawami (Tha A Di).
Họ bắt đầu với khai tổ Ippen (Nhẩt Biến, 1239-1289), chuyên môn du
hành để giảng đạo, niệm Phật và múa hát. Theo truyện ký của phái còn
lưu lại thì nhân vật Du Hành thượng nhân thấy trong vở tuồng này là
vị tổ đời thứ 14, người có liên quan đến giai thoại khai ngộ cho
vong linh của Sanemori. Có lẽ Tha A Di là “tha lực của A Di Đà” (?)
2)
Sanemori là võ tướng cuối đời Heian, gốc gác Heike nhưng đi phò
Genji một thời, sau trở lại với Heike. Gia đình trước kia sống trong
vùng Echizen (phía đông Fukui) nhưng đến đời ông nội thì dời về
Nagai thuộc Musashino (Tokyo-Chiba ngày nay) vì có ấp phong ở đấy.
Khi cùng chủ tướng phía Heike là Taira no Munemori đối địch với quân
Genji do Kiso Yoshinaka chỉ huy, đã nhuộm tóc cho đen để bày tỏ tinh
thần quyết chiến. Chết về tay Tezuka Mitsumori vào năm 1183, lúc đã
73, 74 tuổi.
3)
Shino = một loại trúc. Hara = cánh đồng. Địa danh. Những cánh đồng
thường là bãi chiến trường (chẳng hạn Sekigahara).
4)
Nhật ký của nhà sư tọa chủ chùa Daigoji (Đề Hồ Tự) tên là Mansai
(Mãn Tế), cố vần tâm phúc của ba đời Shôgun thời Muromachi, ghi chép
việc mỗi ngày từ năm 1413 đến 1422. Tên đầy đủ của nó là Mansai Jugô
Nikki (Mãn Tế Chuẩn Hậu Nhật Ký). Từ Jugô (chuẩn hậu) là một chức vị
chưa rõ (nếu dành cho đàn ông).
5)
Lời kinh A Di Đà: Túng thị Tây Phương quá thập vạn ức Phật thổ hữu
thế giới danh viết Cực Lạc.
6)
Xuất phát từ lời giảng của Đức Phật cho phu nhân Vi Đề Hy (Idaikei)
thấy trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh (còn được gọi là Quán Kinh), một
trong ba tạng kinh của phái Tịnh Độ: Tha lực bản nguyện chi hóa
dụng, Cực Lạc bất viễn, cấu thập vạn ức sat na chi Tây, Di Đà tại dĩ
tâm, hiện nhất tòa hoa đài chi hình (theo Đại Nguyên đàm nghĩa văn
thư sao).
7)
Ý một bài thơ của tăng Ippen (Nhất Biến), khai tổ của những tăng sĩ
du hành Thì Tông:”Dẫu chỉ còn một mình sau khi những người khác đã
bỏ đi, cứ đứng trong chỗ đọc kinh (Pháp trường) và niệm danh xưng
cao quý của Đức Phật”.
8)
Sênh (Shô), nhạc khí để thổi dùng trong Nhã nhạc (Gagaku) cung đình
Nhật Bản, vốn truyền vào từ Trung Quốc, cấu tạo bằng cách ghép 17
ống trúc, trong đó có 2 ống vô âm.Giống như cái Khèn cỡ nhỏ.
9)
Cảnh “Thánh chúng lai nghênh” với Đức Phật A Di Đà và chư Bồ Tát
hiện ra trên chòm mây tím giữa tiếng sênh phách nghe réo rắt. Ý thơ
(Hán thi) của tăng Jakushô (Tịch Chiếu Đại Sư, ? - 1034) tức nhà thơ
Ôe no Sadamoto của dòng họ Ôe danh giá, viết vào giờ ông lâm chung
chép trong Tục bản triều vãng sinh truyện. Truyện Heike trong tiết
gọi là Quán đỉnh (Tắm Phật) cũng như nhiều văn bản khác đều có miêu
tả cảnh này.
10)
Ban ngày (Nhật trung). Phái Thì tông tổ chức 6 lần tụng kinh trong
một ngày, gọi là Lục thì lễ tán. Gồm có: Thần triêu, Nhật trung,
Nhật một, Sơ dạ, Trung dạ, Hậu dạ)
11)
Sự tích Con rùa mù, Hoa ưu đàm. Một thành ngữ cổ có liên quan đến
Kinh Pháp Hoa, xem việc nhân duyên gặp gỡ Đức Phật là một cơ hội cực
kỳ hiếm hoi. Lại có thành ngữ: Nhân thân nan thụ. Phật pháp nan ngộ.
12)
Bettô (Biệt đương) là chức quan quản lãnh một trang viên (đồn điền
lớn và cũng là đơn vị kinh tế quan trọng thời trung cổ). Có thể
dịch: Chức Bettô tên là Saitô Sanemori.
13)
Thơ của Minamoto no Yorimasa (Nguyên, Lại Chính) trong Shika Waka
shuu (Từ hoa Hòa ca tập), một tập thơ tuyển theo sắc chiếu.
14)
Hồn và phần dương (linh hồn), phách là phần âm (thể xác) của một
người sau khi chết đi. Hồn vía (ba hồn bảy vía).Thơ Tam thể thi: Hồ
qui minh mạc, phách qui tuyền.
15)
Ý bài thơ của một tác giả vô danh nhưng rất nổi tiếng trong
Kokin-shuu (Cổ Kim Tập, bài 942). Đại ý: Cõi đời này là mộng hay là
thực? Ta nào biết hiện thực hay mộng ảo vì nó vừa là thế mà lại
không thế.
16)
Ý đến từ một bài thơ của vương tử Ariwara no Narihira trong Truyện
Ise (Ise Monogatar, bài số 114): “Xin tha thứ cho vóc dáng già nua
của tôi. Ngay cả những con hạc trên đồng lúa còn khóc vì hôm nay là
ngày cuối cùng tôi được đến thăm em trong chiếc áo khoác phường săn
(kariginu) này”.
17)
Gọi là moegi-iro hay màu hành non, tượng trưng cho tuổi trẻ.
18)
Nhất niệm Di Đà Phật. Diệt vô số lượng tội.Hiện thụ vô tỉ lạc. Hậu
sinh thanh tĩnh thổ..
19)
Higuchi Jirô, phó tướng của Kiso Yoshinaka. Một trong Tứ Thiên
Vương (4 tướng mạnh dưới trướng Kiso).
20)
Tezuka no Tarô Mitsumori: người họ Tezuka, tên Mitsumori, con trai
cả trong nhà (Tarô), một bộ hạ bên cạnh Kiso..
21)
Đến từ ý thơ của Miyako no Yoshika (Đô, Lương Hương, 834-879):
trong Waka Rôeishuu (Hòa Hán lãng vịnh tập)..
22)
Trong Nô, có khi người ta nói về mình bằng ngôi thứ ba.
23)
Chu Mại Thần (Zu Maichen), VN thường đọc là Mãi, một
vị quan đời Vũ Đế nhà Tiền Hán, xuất thân nghèo khổ, bán củi kiếm
cơm, bị người chung quanh khinh rẽ nhưng rất chăm học và có tài
năng. Sau được bổ nhiệm Thái thú Cối Kê, bình định được cuộc nổi dậy
ở vùng Đông Việt. Nhiều năm sau đó đã mặc áo gấm về làng trong vinh
quang. Lại có câu thơ cổ trong Hán Thư nói về Hạng Tịch: Phú quí bất
qui cố hương. Như ý cẩm dạ hành (Giàu sang mà không về quê hương thì
như người mặc áo ấm đi đêm)..
24)
So với kinh đô Kyôto thì Shinohara và vùng Echizen phải nằm ở phía
Bắc. Đất Echizen thuộc địa khu gọi là Hokuriku (Bắc Lục) bao gồm
các tỉnh Fukui, Ishikawa, Toyama và Niigata bây giờ.
25)
Áo gấm đỏ chỉ dành cho trang đại tướng. Lúc đó Sanemori đã quá già,
không còn được phép chỉ huy nên không quyền mặc áo ấy và không có bộ
hạ theo hầu.
26)
Thơ vô danh thấy trong phần thơ Thu của thi tuyển Gosen Wakashuu
(Hậu Tuyển Hòa Ca Tập, ra đời khoảng năm 951, soạn theo sắc chiếu
của Thiên hoàng Murakami).
27)
Để liên tưởng đến nước ở trong ao Shinohara. Lại có chữ Pháp thủy
để ví dụ tính thanh tĩnh của đạo giống như nước, có thể rửa sạch cáu
bẩn của tội lỗi (Pháp tỉ như thủy năng tẩy cấu uế) (theo Vô Lượng
Nghĩa Kinh và Pháp Hoa Huyền Nghĩa)
28)
Thủ hạ, nguyên văn là lang đảng hay lang đẳng (rôdô), tức là tôi tớ
riêng từ lãnh địa theo phò một samurai và không có máu mủ với người
này, để phân biệt với ie no ko (con cháu trong nhà). Đây là một hình
thức tổ chức cơ sở của quân đội thời trung cổ Nhật Bản.
29)
Appare! Một lời khen tặng đến từ chữ Aware và là tiếng quen dùng
vào thời trung cổ.
Lạm bàn của người dịch:
Sanemori là một vở tuồng diễn vào lớp 2. Loại tuồng này nói về các
chiến sĩ samurai. Đối tượng của nhân vật chính trong đó thường là
một thầy tăng vân du. Lần này, thầy tăng ấy là một nhân vật có tầm
cỡ, ngài Du Hành thượng nhân, người từng xuất hiện trong một vở Nô
khác không kém phần quan trọng:Yugyôyanagi (Du hành liễu) của Kanze
Nobumitsu.
Nhân vật Saitô no Bettô no Sanemori cũng đến từ một cái kho nhân vật
đặc biết dành cho lớp diễn thứ hai, đó là Truyện Heike, nhưng ở đây,
đặc điểm là chủ đề nói về bi kịch của tuổi già.
Theo bà Shirasu Masako (xem thư mục tham khảo) thì Sanemori vốn là
dòng dõi quí tộc Fujiwara, xuất thân vùng Echizen (Fukui) nhưng
đến đời ông nội thì vì có thực ấp ở Nagai trong xứ Musashino
(Tôkyô-Chiba) mới đưa cả nhà đến đó. Trong lòng Sanemori, quê hương
gốc rễ vẫn là Echizen miền Hokuriku.
Do đó, khi quân đoàn Heike gặp cảnh bất lợi trước sự tấn công vũ bão
của tướng Genji là Kiso Yoshinaka, ông đã xin phép vị chỉ huy của
mình là Taira no Munemori cho đánh một trận cuối cùng với tư cách
tướng chỉ huy và xin được mặc khôi giáp với áo gấm đỏ. Vào thời xưa,
khi ra trận mạc, người ta còn giữ được nhiều tục lệ anh hùng mã
thượng như xưng tên mình cho địch thủ và đánh tay đôi. Tướng trẻ có
thể chê tướng già là không xứng tay và từ chối đọ sức. Sanemori lúc
đó vì đã trên 70, phải nhuộm râu và tóc cho đen để được các tướng
trẻ chấp thuận giao đấu. Như vậy,, với râu và tóc nhuộm đen, trong
khôi giáp với áo gấm đỏ, ông đã xung trận với ý định quyết đấu tay
đôi với Kiso Yoshinaka, vị chỉ huy của địch quân.
Áo gấm đỏ được xem như áo gấm mặc về làng (ý cẩm qui cố hương) trong
trận đánh quyết tử mà ông tham dự ở quê nhà Echizen. Cái áo gấm đó
mang hình ảnh một Chu Mại Thần vinh qui bái tổ. Sanemori muốn là
mình dù sống hay chết đều phải kết thúc cho đẹp. Còn như ước mơ
quyết đấu với Kiso Yoshinaka nếu có là vì ngày xưa, lúc Yoshinaka
chỉ là một cậu bé lên 2 và cả nhà gặp cảnh bị tru diệt, Sanemori đã
nương tay phóng thích dù được lệnh trên phải giết cậu luôn để trừ
hậu hoạn. Nếu không ngại người ngoài dòm ngó thì lúc đó, ông đã có
thể nhận cậu làm con nuôi.
Giả sử Sanemori chết dưới tay Kiso Yoshinaka, ông sẽ xem như mình có
vinh dự chết dưới tay một người mình đã “gầy dựng” cho và cũng là để
đền ơn trả nghĩa chủ cũ Genji. Còn nếu ông giết được Yoshinaka thì
điều đó lại chứng tỏ là ông đã tận trung với chủ mới Heike và chiến
thắng trước một nhân vật quan trọng là Kiso, chủ tướng phe địch.
Theo cách hiểu của người Nhật thì hành động quyết tử của Sanemori
vừa tượng trưng cho một cuộc chiến đấu chống lại sự yếu kém của bản
thân (tuổi già và sự suy sụp của cá nhân), vừa nói tâm sự muốn trả
ơn (ongaeshi) để trọn tình trọn nghĩa với những ân nhân cũ.
Armen Godel (xem tư liệu tham chiếu) thì ngược lại. Ông không nghĩ
như vậy. Dịch giả và nhà nghiên cứu Âu châu này xem hành động quyết
tử của Sanemori là sự tự diệt, tự sát, là bước đường cùng của một
người đã tráo trở nhiều phen. Đầu tiên, Sanemori xuất thân bộ hạ
Heike, sau trở giáo theo Genji và cuối cùng, chết dưới danh nghĩa
một chiến sĩ Heike. Godel còn xem hành vi nhuộm râu tóc cho đen của
Sanemori là cố gắng để đánh lừa mọi người và chính mình một lần
cuối.
Trong trận Shinohara (tháng 5/1183), Sanemori không xâm phạm được
đến người đại tướng Kiso Yoshinaka vì chưa gì ông đã bị tiểu tướng
Tezuka no Tarô Mitsimori xông ra ngáng đường. Viên dũng tướng
Sanemori của ngày nào nay không còn đủ sức đương cự gã tướng trẻ
sung sức và rốt cuộc đã bị Tezuka cắt lấy thủ cấp.
Trong phần Kyôgen (không được dịch ở đây nhưng có thể tìm trong bản
dịch của Godel) thì qua lời của vai Ai (Dân làng), Sanemori còn tệ
hơn thế nữa. Không những đã đổi chủ nhiều phen, ông còn đào tẩu
trong trận đại bại ở chiến trường Kamohara vùng Suruga, khi quân
đoàn của Heike mất tinh thần đã tháo chạy vì hoảng sợ trước tiếng
động xôn xao của những chú vịt trời trên đầm (mà họ tưởng là quân
Genji tập kích). Có lẽ vì những lý do đó mà Sanemori mới muốn đến
Shinohara để chết.
Cũng theo Armen Godel, bi kịch của Sanemori là bi kịch của một người
đã đánh mất cái tên, mất cả thân danh. Nhân vật ấy không biết mình
thực sự là người của phe nào, Heike hay Genji? Ra trận ông không dám
xưng tên vì sợ những viên tướng trẻ từ chối giao đấu với mình, một
kẻ đã quá cái tuổi lên ngựa cầm kiếm. Khi chết rồi, ông cũng không
dám xưng tên với Du Hành thượng nhân vì tủi hổ cho sự suy sụp về thể
lực cũng như những mê lầm đã dẫn ông tới cảnh thống khổ trong địa
ngục A Tu La. Ông như người đứng giữa ngã ba đường và không ngừng
đặt câu hỏi cho mình: “Ta là ai?”.
Dù sao, cách lý luận của Godel là đem điều trung nghĩa để qui kết
hành động của các samurai vào một thời đại chưa có khái niệm luân lý
nhà Nho nơi các chàng dũng sĩ hoang dã đất Kantô. Rốt cuộc chắc chỉ
có Du Hành thượng nhân là kẻ duy nhất nhìn thấy rõ ràng nhân cách
của Sanemori và tìm ra phương cách giải thoát cho linh hồn ông.
Như thế, Sanemori là một vở tuồng đáng cho chúng ta suy gẫm nhất là
giữa một thời đại mà khoảng cách giữa các thế hệ (generation gap)
trở thành một mối ưu tư lớn trong xã hội. Ngoài những phức tạp tâm
lý vừa kể, một điểm nhỏ xin được nêu lên để kết thúc ở đây là vở
tuồng này còn tập trung vào việc ca tụng giáo phái Thì Tông và sức
mạnh của việc niệm Phật A Di Đà, khác với những gì đã xảy ra trong
vở Dôjôji mà một trong những mục đích là đề cao sức mạnh thần thông
của bùa chú Mật tông.
Tôkyô ngày 23 tháng 4 năm 2020
Thư mục tham khảo:
1)
Sanemori (Thực Thịnh), bản song ngữ Anh-Nhật 1.0 do The Noh.com phát
hành ngày 18/9/2019. Bản kim văn và ngoại văn tham chiếu.
2)
Sanemori (Thực Thịnh) bản cổ văn có chú thích của Yôkyoku Hyakuban
(Dao Khúc Bách Ban / 100 vở tuồng Nô). Nguyên tác Nhật ngữ.
3)
Armen Godel và Koichi Kano dịch Sanemori trong La lande des
Mortifications. Vingt-cinq pièces do Nô (Cõi thống khổ. Hai mươi lăm
vở tuồng Nô). Gallimard Paris xuất bản 1994. Bản ngoại văn tham
chiếu.
4)
Sanemori (Thực Thịnh) trong Yôkyokushuu (Dao Khúc Tập) quyển trung,
do Itô Masayoshi hiệu chú, Shinchô xuất bản, Tôkyô 1988. Nguyên tác
Nhật ngữ.
5)
Shirasu Masako, Dao khúc đến từ Truyện Heike (Heike Monogatari no
Yôkyoku), phần nói về Sanemori (Qui cố hương, từ trang 115).
Kôdansha Bungei Bunko xuất bản, 1998. Ấn bản lần thứ 9 (2005).
|