GIỚI THIỆU NHÀ VĂN TAKEDA TAIJUN
Biên soạn : Nguyễn Nam Trân

Takeda Taijun - 武田 泰淳 (1912-1976)
Takeda Taijun vốn tên là Ôshima Satoru
trước khi trở thành dưỡng tử họ Takeda. Ông sinh ở Tôkyô, bạn học
cùng năm với nhà b́nh luận và chuyên môn về Trung Quốc là Takeuchi
Yoshimi (1910-1977) ở khoa Hoa văn trường Đại Học Đông Kinh, sau đó
họ và các bạn cùng chí hướng đă cùng nhau thành lập « Trung Quốc Văn
Học Nghiên Cứu Hội » (1934).
Takeda là con một tu viện trưởng Phật
Giáo (sư thế tục), ông đi theo con đường của gia đ́nh nên học Phật.
Lại ham đọc Hồ Thích, Lỗ Tấn cũng như tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng suốt
thời trẻ. Được biết đến như một nhà văn cánh tả, ông nhiều lần tham
gia biểu t́nh, phát truyền đơn, đụng chạm với cảnh sát và bị bắt
giam. Sau khi nhận lệnh động viên, ông được gửi qua chiến trường Hoa
Trung năm 1937. Trong 2 năm trời, ông bao lần chứng kiến nỗi bất
hạnh của người dân Trung Quốc giữa thời chiến tranh. Do đó, khi về
nước (1939) ông viết Shi-ma Qian (Tư Mă Thiên), người mà ông xem đă
“sống vượt lên sự nhục nhă”, nói về cái khổ nhục của một trí thức
nghiên cứu Trung Quốc như ông mà phải đi đàn áp chính những người
dân Trung Quốc. Ông cũng nhân đó đả kích đường lối chính trị thuộc
địa của Nhật Bản.
Năm 1944, ông trở lại Thượng Hải sống
đời dân sự một thời gian và chứng kiến cảnh Nhật bại trận. Kinh
nghiệm nầy giúp ông viết nhiều đoản thiên về t́nh cảnh một người
Nhật sống sót trên đất nước người. Như Ôoka Shôhei và Endô Shuusaku,
ông có lần viết cả về chuyện người ăn thịt người trong thời chiến và
cảnh ṭa án phán quyết về hành động đó (trong Hikarigoke, Rêu óng
ánh, 1954), như thể muốn ví nó với Ṭa Án Quốc Tế Tôkyô xử chiến
phạm (1946-1948).
Các tác phẩm đáng chú ư khác của ông
là Fuubaika (Gửi hương cho gió), Fuji (Núi Phú Sĩ) và Keraku (Khoái
lạc)...
Qua đời v́ bạo bệnh năm 1976 ở tuổi
64, dĩ nhiên ông và cả Takeuchi Yoshimi (mất năm 1977 ở tuổi 67)
không có cơ hội nh́n thấy cuộc đời đảo ngược với sự trổi dậy của một
Trung Quốc cơ cực xưa kia hai ông từng bênh vực nay trở nên giàu
mạnh và đang phiêu lưu trên con đường thực hiện một chủ nghĩa bá
quyền nước lớn.
Dưới đây xin giới thiệu Cố tín (Shinnen,
1949), một tác phẩm ngắn nhưng thâm thúy của ông. Nguyên tác được
trích từ quyển 2 trong Toàn tập của Takeda Taijun do nhà Chikuma
Shobô xuất bản năm 1971 và đă được in lại trong sách giáo khoa môn
quốc văn bậc trung học Nhật Bản lần đầu tiên năm 1976.
CỐ TÍN
(Shinnen,
1949)
Nguyên tác : Takeda Taijun
Dịch : Nguyễn Nam Trân
Trở lại quê xưa, viên tướng ấy không
gặp được ai. Dân trong vùng chẳng có lấy một người biết tin ông đă
về. Cho dù có gặp họ cũng sẽ không nhận ra v́ ngày nay ông quá đỗi
tiều tụy. Ông bèn leo lên một cái g̣ cao cạnh bức tường thành cổ.
Đâu lưng lại cái hào thành phủ đầy rêu xanh đen là bức tượng đồng
của ông do người ta dựng lên. Bức tượng đó trên tay hăy c̣n lăm lăm
một thanh trường kiếm, đôi mắt ngạo nghễ nh́n xuống phố phường. Viên
cựu tướng vừa đưa mắt liếc nh́n bức tượng đồng được dựng để kỷ niệm
ḿnh vừa lặng lẽ rảo bước chung quanh. Đối với ông, bức tượng kia
chỉ c̣n là một vật xa lạ và kệch cỡm nhưng tuy trên môi phảng phất
một nụ cười đau khổ, ông vẫn không thể nào rời nó cho đành.
Một hôm, bức tượng đồng đó đă bị đám
thanh niên kéo cho sập. Không cần phải đem đi đâu cho xa xôi, chúng
đă vứt bỏ nó ngay bên bờ hào. Khuôn mặt màu đồng xanh thẩm và cứng
ngắc của bức tượng ngữa lên nh́n trời, vẫn với cái dáng ngạo nghễ
quen thuộc. Viên tướng bèn đưa tay thử sờ vào phần thân thể của bức
tượng đồng. Nó c̣n lạnh hơn cả đá. Bất chợt ông nhận ra dưới chân
cái bệ đá màu trắng nơi xưa kia bức tượng từng an vị, có một bà lăo
đang ngồi đó. C̣n bên trên bệ đá là một bó hoa. Bà lăo bắt chuyện
với viên tướng :
-Ngài đây oai danh lừng lẫy một thời
mà bây giờ th́...
Bà lăo kia có vẻ không rơ vị tướng có
bức tượng ấy là ai nhưng bà biết con trai ḿnh đă phục vụ trong sư
đoàn do ông ấy chỉ huy.
-Thằng con của lăo không c̣n một mớ
xương tàn mà lăo cũng chẳng nhận được một tấm giấy báo tử nào từ nhà
nước. Vật chứng minh cho sự tồn tại của nó chỉ c̣n có mỗi vị này.
Bà lăo cho ông biết mỗi ngày bà đều
đến vái bức tượng.
-Nếu vị này c̣n sống th́ đứa con trai
của lăo hăy c̣n sống. Nếu vị này chết th́ đứa con của lăo cũng chết.
Vị tướng về hưu cảm thấy bước chân của
ḿnh bỗng nhiên khựng lại. Ông mới bỏ mặc bà lăo lẫn bức tượng và
tránh ra chỗ khác.
Kể từ ngày đó, vị tướng đâm ra sợ phải
gặp lại bà lăo. Bức tượng đồng vẫn chưa được ai khuân đi đâu cả,
toàn thân nó hăy c̣n lấm đầy bùn bẩn bắn lên. Nh́n thân danh của
ḿnh quá thảm hại, không c̣n một chút thể thống, viên tướng kia
không khỏi buồn rầu. Ông cảm thấy ḿnh giống như một con người đáng
khinh bỉ đang lăn ra trần truồng trên mặt đất. Ông lại nghĩ :
-Phải chi nó rơi quách xuống hào cho
th́ có tốt hơn không ?
Đất bên dưới bức tượng đă rời ră v́
những trận mưa. Kiểu này trước sau ǵ rồi đất sẽ từ từ lở đi và bức
tượng sẽ rơi xuống đó mất thôi. Không để ai trông thấy, ông cố dấn
sức. Đến một buổi chiều, bức tượng đồng đă nghiêng đi, trượt xuống
bờ hào thoai thoải nơi có đám cỏ khô, rồi với một tiếng động nặng nề,
nó ch́m xuống ḷng hào và chỉ để lan ra dăm ba ṿng tṛn bằng bọt
trắng. Viên tướng duỗi cái lưng đau nhức, thờ thẩn nh́n mặt nước của
cái hào thành nay đă được trả về với sự yên tĩnh cố hữu.
Đột nhiên, viên tướng cảm thấy nơi vai
ḿnh có một cái lực thật mạnh đang đẩy vào làm người ông ngă sấp ra
đằng trước.
-Tại sao ông lại làm thế ! Thế nào
Trời cũng phạt cho mà coi !
Bà lăo đứng trong bóng tối lờ mờ của
buổi hoàng hôn, cả thân h́nh run rẩy giữa cơn giận dữ.
-Đối với một vị tướng như ngài đây,
ông lại giở cái tṛ đó à ?
Bà lăo lên tiếng nguyền rũa, nhổ một
băi nước bọt vào mặt ông, vừa gào khóc vừa chạy trên con đường đưa
xuống chân đồi..
Dịch ngày 17 tháng 11 năm 2019 (NNT)
|