|
Tổng quan Quyển Hạ: Từ Cận Kim đến Hiện Kim
Chương 25 : Thơ Mới ở Nhật Bản. Vai tṛ của
thi ca Tây Phương trong ḍng thơ hiện đại Khi thời Meiji (1867-1912) bắt đầu, thi ca Nhật Bản đă có rất nhiều h́nh thái từ thơ chữ Hán (kanshi) , thơ quốc âm waka (đặc biệt h́nh thức cơ bản của nó là tanka = đoản ca), haiku, senryuu, kyôka.[1] Thế nhưng dẫu là h́nh thái nào đi nữa, chúng đều không đủ sức làm công cụ để diễn đạt tinh thần của thời đại mới. Đặc biệt thơ chữ Hán đă dần dần mất ảnh hưởng cùng với sự du nhập ào ạt của tri thức Âu Tây. C̣n kyôka (cuồng ca) và kyôshi (cuồng thi ), hai loại thơ phóng túng), vốn bất đầu suy thoái dưới thời Edo v́ bị đánh giá là kém hiệu quả giáo dục, đă đi đến chỗ diệt vong. Trước thời Meiji, khi nói đến thơ (shi) tức là nói về thơ chữ Hán (kanshi) mà thôi bởi v́ các h́nh thức thơ quốc âm, mỗi thứ đều đă có tên riêng và gọi chung là ca (uta). Đến khi “thơ mới” (shintai-shi = tân thể thi) ra đời, người ta dùng chữ này để phân biệt với các loại thơ khác. Dần dần, khi thơ mới vững mạnh rồi th́ nó không cần đến chữ “mới” nữa và từ đó khi dùng chữ shi, phải nói rơ là kanshi mới có thể được hiểu là thơ viết bằng âm Hán. TIẾT I: THƠ CHỮ HÁN ĐI VỀ ĐÂU? Thơ chữ Hán có mặt từ thời Nara (710-784) lúc đó sắp sửa bị đào thải v́ không hợp với thời mới chứ không phải v́ bị ghét bỏ. Trước kia thơ chữ Hán là của đàn ông và chữ Hán là ngôn ngữ có tính cách hành chánh. Ngoài những nhà trí thức thật sự tinh thông Ḥa Hán, không ai làm thơ chữ Hán v́ việc này đ̣i hỏi nhiều hiểu biết và công phu, ví dụ điển cố, luật bằng trắc và thanh vận. Khi tân thể thi xuất hiện th́ Hán thi phải chịu lùi vào bóng tối. Thời Meiji hăy c̣n một số nhà thơ làm thơ chữ Hán như Ono Kozan (Tiểu Dă, Hồ Sơn, 1818-1888)Ônuma Chinzan (Đại Chiểu, Chẩm Sơn, 1818-1891), Narushima Ryuuhoku (Thành Đảo, Liễu Bắc, 1837-84), Nakano Shôyô (Trung Dă, Tiêu Dao) vv.... Phải nói các tác giả ấy đă để lại nhiều bài hay. Cần kể thêm tên tuổi Mori Ôgai (Sâm, Âu Ngọai, 1862-1922), Masaoka Shiki (Chính Cương, Tử Qui, 1867-1902), Kôtoku Shuusui (Hạnh Đức, Thu Thủy, 1871-911) trong số những người có liên hệ đến Hán thi. Ôgai đă dịch bài thơ chữ Hán nhan đề Thanh Khâu Tử Ca của Cao Khải[2] ra thơ tự do. Shiki khi lư luận về waka chịu ảnh hưởng thi luận cổ điển của Sorai (Tồ Lai)[3]. Đến đời Taishô, nhà văn Akutagawa với bút hiệu Trừng Giang Đường cũng là một nhà thơ viết Hán Thi có tầm cỡ .Trong giới trí thức, quân nhân, người ta c̣n làm thơ chữ Hán cho đến cuối thế chiến thứ hai, nhưng ở nước Nhật, trước phong trào thơ mới, nó đă hoàn toàn trở thành một thứ “cựu thi”. Xin đơn cử ba bài thơ chữ Hán: một của Natsume Sôseki (1867-1916), một của đại tướng Nogi Maresuke (1849-1912), một của Narushima Ryuuhoku (1837-84) để có một khái niệm thơ chữ Hán đời Minh Trị : Vô Đề Nhật tự tam xuân vĩnh, (thơ Natsume Sôseki, 1910, lúc lâm trọng bệnh ở Shuuzenji)) Không Đề. Ngày như ba xuân dài, Kim Châu thành hạ tác (thơ Nogi Maresuke,1904, lúc rưới rượu tế con tử trận ở Măn Châu) Cảm tác dưới chân thành Kim Châu. Qui gia khẩu hiệu. Thơ chợt thốt ra trên đường về nhà. (thơ Naruhima Ryuuhoku, lúc từ chối làm quan cho chính phủ mới để du lịch Âu Mỹ năm 1872 trước khi quay ra làm báo) TIẾT II: THƠ MỚI ĐỜI MEIJI (1867-1912): Thơ chữ Hán tàn lụi dần và thơ mới đăng đàn. Thế nhưng thơ mới bắt đầu từ lúc nào ? Thực ra, cuối thời Edo (1600-1867), đă có nhà thơ Yosa Buson (Dữ Tạ, Vu Thôn, 1716-83) làm thơ với h́nh thức khá tự do như trong thi phẩm Shunpuu Batei-kyoku (Xuân Phong Mă Đề Khúc) “Vó ngựa gió xuân”. Ngoài ra, thánh ca (sanbika = tán mỹ ca) đạo Thiên Chúa đă được các nhà truyền đạo dịch qua thể thơ 5/7 với văn từ giản dị từ khi quyền bố giáo được chính quyền Meiji công nhận cũng có những điểm mới đáng để ư. Thế nhưng sự chuyển hướng trong thi ca chỉ thật sự có được nhờ ở tác phẩm tên là Shintaishishô. A) Shintaishi-shô (Tân Thể Thi Sao): Thời đại mới đ̣i hỏi một h́nh thức thi ca mới cho nên thơ mới (shintaishi = tân thể thi) đă ra đời, tiêu biểu bằng tác phẩm Shintaishishô “Tập thơ viết theo h́nh thức mới” (1882) , tom góp những bài thơ mới, dịch từ ngôn ngữ Tây Phương. Đặc điểm của thơ mới Nhật Bản là: 1- Về mặt h́nh thức, nó được giải phóng ra khỏi những phép tắc tu từ, thanh vận… của Hán thi, tanka và haiku. 2- Về mặt nội dung, nó bàn đến những đề tài có nội dung tư tưởng phức tạp chứ không chỉ đóng khung trong lănh vực t́nh cảm như tanka và haiku. 3- Về mặt diễn tả, nó sử dụng ngôn ngữ b́nh thường trong cuộc sống hằng ngày. 4- Nó đă trở lại h́nh thức thơ dài từng thấy có trong các tác phẩm cổ điển như Kojiki (712), Nihon shoki (720) và Man.yô-shuu (khoảng 759) chứ không hạn chế số chữ, số câu như trong tanka và haiku. Ban đầu, thơ mới chỉ là thơ có chiều dài tự do như thơ Âu Tây nhưng ngữ vựng đầy chữ Hán và số chữ ấn định trong câu lại dựa trên âm luật Nhật Bản (5/7). Dĩ nhiên trong thi tập Man.yô-shuu của Nhật hồi thế kỷ thứ 8 đă có những trường ca dài đến 150 câu. Thể thơ ấy đă mai một. Nó đă tái hiện một lần vào thế kỷ thứ 18 sau hơn một ngh́n năm quên lăng nhưng không mấy thành công. Thế rồi sau khi Shintaishi-shô và tập thơ dịch Omokage “Vang Bóng” ra đời (1889), thơ kiểu “b́nh cũ rượu mới” như thế đă ảnh hưởng đến h́nh thức sáng tác từ thế hệ Shimazaki Tôson (Đảo Kỳ, Đằng Thôn), Tsuchii Bansui (Thổ Tỉnh, Văn Thúy) cho đến thế hệ của Kitahara Hakushuu (Bắc Nguyên, Bạch Thu), Miki Rofuu (Tam Mộc, Lộ Phong). Tuy nhiên, tiếng là thơ mới nhưng v́ họ vẫn làm theo văn viết và giữ lối năm / bảy nên không đủ tự do để diễn đạt tư tưởng và t́nh tự của thời đại. Do đó, đă có những nỗ lực để vươn đến một h́nh thức diễn tả phóng khoáng hơn kể từ khi chủ nghĩa tự nhiên từ nước ngoài du nhập vào. Thi tập Hakidame (Trần Chủng, 1906) “Đống Rác”của Kawaji Ryuukô (Xuyên Lộ, Liễu Hồng) là một ứng dụng thành công. Từ đó về sau tuy thơ sử dụng văn viết vẫn c̣n được duy tŕ nhưng thơ tự do làm theo văn nói đă phổ biến rộng răi. Nhờ h́nh thức diễn đạt mới, tư tưởng và t́nh tự của thời đại đă được diễn tả thoải mái hơn. Người tích cực sử dụng h́nh thức thơ mới để ghi lại cảm xúc của ḿnh là nhà thơ Hagiwara Sakutarô (Thu[4] Nguyên, Sóc Thái Lang) trong thi tập Tsuki ni hoeru “Sủa Trăng”. B) Buổi Đầu của Thơ Mới (Shintaishi): Ba giáo sư của Đại Học Đông Kinh là các ông Toyama Seiichi (Ngoại Sơn, Chính Nhất, 1848-1900), Yatabe Ryôkichi (Thỉ Điền Bộ, Lương Cát, 1851-1899) và Inoue Tetsujirô (Tỉnh Thượng, Triết Thứ Lang, 1855-1944) đă dịch thơ Tây Phương và thử sáng tác thơ theo phong cách ấy rồi cho in trong tập Shintaishi-shô (Tân thể thi sao) “Tập thơ theo h́nh thức mới” (1882). Toyama là giáo sư tâm lư học và sử học từng theo học Đại Học London và Michigan, Yatabe chuyên môn về thực vật học ở Cornell c̣n Inoue chuyên về triết học ở Berlin. Đương thời, lập luận về tiến hóa xă hội (social Darwinism) của nhà tư tưởng người Anh Herbert Spencer[5] (1820-1903) rất thịnh hành ở Nhật và ảnh hưởng đến ba ông. Họ đă hô hào đổi mới bằng cách sử dụng văn tự La Mă, cải lương kịch nghệ v.v…Trong lănh vực thi ca th́ ba người cho rằng nếu để diễn đạt ư tưởng mới mà lại đi dùng h́nh thức cũ (từ ngữ cũ, số câu và số chữ hạn chế) là một việc không thể thực hiện được. Inoue đă viết như sau: “Waka viết vào đời Meiji phải là waka Meiji. Nó không thể là waka lối xưa.Hán thi do người Nhật viết phải là thơ Nhật chứ không phải thơ Trung Quốc. V́ lư do đó chúng tôi muốn làm thơ theo thể thơ mới. Âm luật, ngữ vựng và những cái c̣n lại sẽ tiến hóa dần dần theo, không thể sắp đặt tất cả ngay một lượt được”. Và sau đây là ư kiến của Yatabe: “Nói chung, người trên thế giới, chứ không cứ ǵ ở Âu Tây, khi làm thơ đều dùng ngôn ngữ hằng ngày. Do đó họ có thể bày tỏ dễ dàng và trực tiếp những ǵ họ cảm thấy trong ḷng. Điều đó cũng từng xảy ra ở Nhật thời xa xưa nhưng các nhà thơ gần đây hay dùng những từ chữ Hán và văn thể cổ khi họ viết waka. Họ tránh ngôn ngữ hằng ngày v́ cho nó là phàm tục. Lối suy nghĩ này chỉ có thể nói là sai lầm mà thôi” Tuy thế, trong bài thơ dịch Elegy Written in a Country Church Yard “Hoài cảm bên mồ” của nhà thơ trường phái lăng mạn Anh Thomas Gray (1716-71), dịch giả Yatabe dùng những câu có 12 âm tiết nhưng vẫn là 5+7=12 như thơ Nhật cũ. Về sáng tác, ba ông chỉ được cái làm được thơ dài nhiều câu chứ vẫn dùng thể năm / bảy chữ và từ ngữ lại cũ kỹ. Đó là trường hợp của bài thơ nhan đề Ryôjun no Hirô Kani Taii “Đại úy Kani, người anh hùng ở cảng Lữ Thuận” của Toyama làm hồi trận chiến tranh Nhật Thanh (1894-95) để cổ vơ ḷng ái quốc. Cũng là trường hợp của Hinuyama no Uta “Bài hát trên núi Hinu” của Inoue. Hơn nữa, cả ba đều là học giả, không phải nhà thơ, nhất là không có tài thơ nên không thể gọi sáng tác của các ông là những thành tựu. May mắn là h́nh thức thơ mới ba ông vừa đưa ra đă được thanh niên thời Meiji hoan nghênh ngay. Chỉ đợi khoảng hai tháng sau đă có quyển Shintaishika (Tân Thể Thi Ca) do Takeuchi Setsu (Trúc Nội, Tiết) biên tập, ra đời. Những tác phẩm tương tự cũng lục tục đến với độc giả, trong đó có Juuni no ishizuka (Thập Nhị Thạch Chủng) “Mười hai g̣ đá”(1885) [6]của Yuasa Hangetsu (Thang Thiển, Bán Nguyệt) và Kôjo Shiragiku no Uta (Hiếu Nữ Bạch Cúc Ca) “Những bài thơ của nàng hiếu nữ Shiragiku”(1888-89) của Ochiai Naobumi (Lạc Hợp, Trực Văn, 1861-1903). Tác phẩm của Ochiai là bản phỏng dịch thơ chữ Hán của Inoue Tetsujirô qua h́nh thức thơ mới. Nó được quần chúng đương thời đặc biệt tán thưởng. Đều cần nói thêm ở đây là các nhà cải cách thời đó xem đề tài ǵ cũng có thể viết thành thơ được. Toyama đă làm một bài thơ mới với nhan đề …“Về những nguyên tắc của xă hội học”, trong đó, ông giải thích cả thuyết tiến hóa của Darwin. Ḷng nhiệt thành của các vị ấy c̣n được thấy trong lời phát biểu của Yatabe: “Cho dù thơ của chúng tôi không được người thời nay chấp nhận nhưng thế hệ các nhà thơ trẻ của Nhật Bản trong tương lai sẽ đạt được đến đỉnh cao của những Homeros hay Shakespeare.Biết đâu một vài nhà thơ lớn nhờ có ấn tượng tốt đối với cung cách mới trong tập thơ này, sẽ phát huy được tài năng và viết được những vần thơ làm xúc động cả con người lẫn quỉ thần.”[7]
C) Trường phái lăng mạn:
Tôkoku và Ôgai, hai người đă mở đường cho phong trào thơ mới Sau khi du học ở Đức về, Mori Ôgai đă cùng với Ochiai Naobumi và bà Koganei Kimiko (Tiểu Kim Tỉnh, Hỷ Mỹ Tử)[8] lập ra tổ chức Shinseisha (Tân Thanh Xă) viết tắt là S.S.S., cho ra đời tập thơ dịch Omokage “Vang bóng” (1869). Họ dịch thơ từ Hán thi, từ thơ Tây Phương và ngược lại, cả một tiết cổ văn trong Truyện Heike từ tiếng Nhật ra thơ chữ Hán. Trong đó, họ phân biệt bốn thái độ khi dịch thơ : ư dịch (chỉ chú trọng ư nghĩa), cú dịch (chú trọng ư nghĩa và câu chữ), vận dịch (chú trọng ư nghĩa và âm vận) và điệu dịch (chú trọng cả luật b́nh trắc). Cũng vào thời kỳ ấy, sau khi giấc mộng chính trị tan vỡ, Kitamura Tôkoku (Bắc Thôn, Thấu Cốc) trở về với thi ca. Ông cho in Soshuu no shi (Sở tù thi) “Thơ của người tù nước Sở” (1869), Hôraikyoku (Bồng Lai khúc) “Khúc hát cơi tiên” (1871), và sau đó trở thành người chủ trương tạp chí Bungakukai (Văn Học Giới, bộ cũ 1893-97). Trong “Khúc hát cơi tiên”, người ta nhận thấy ảnh hưởng của văn học Tây Phương qua ngôn ngữ sử dụng và những yếu tố cấu tứ. Nó đến từ Dante, Shakespeare, Goethe và Lord Byron. Trong khi “Vang Bóng” đượm màu sắc lăng mạn, được đánh giá v́ những cố gắng có tính kỹ thuật th́ thơ Tôkoku cũng lăng mạn nhưng phô bày những cảnh thương tâm của xă hội. Cả hai cùng có những cống hiến lớn lao đến lớp người làm thơ về sau. 1) Miyazaki Koshoshi (Cung Kỳ, Hồ Xử Tử, 1864-1922) Trước khi đề cập đến Shimazaki Tôson như con người tài hoa đă thực sự khai sinh phong trào thơ mới của Nhật Bản, cần phải nêu lên tên tuổi Miyazaki Koshoshi, một người tiên khu của phong trào ấy. Biệt hiệu Koshoshi (ẩn sĩ vùng hồ) của ông làm ta dễ liên tưởng đến các thi sĩ của vùng hồ nước Anh (Lake District) mà ông chịu ảnh hưởng dù ông sinh ở Fukuoka, không có hồ mà chỉ có biển. Ông c̣n là nhà b́nh luận, nhà văn và mục sư, đă để lại Koshoshi Shishuu “Tập thơ của Koshoshi”, một tác phẩm trong đó có âm hưởng của thơ William Wordsworth, Henry Wadsworth Longfellow, Felicia Hemans nhưng cũng bộc lộ được cá tính và t́nh yêu thiên nhiên của riêng ông.Tuy không phải là nhà thơ hàng đầu nhưng phong cách lăng mạn của Koshoshi đă ảnh hưởng không ít đến Tôson. 2) Shimazaki Tôson (Đảo Kỳ, Đằng Thôn, 1872-1943), linh hồn của thơ mới Nhật Bản Shimazaki Tôson, nhà thơ ca ngợi tự do, t́nh yêu và tuổi trẻ Shimazaki Tôson, về mặt thi ca, tiếp nhận ảnh hưởng của Tôkoku trong nhóm Bungakkai và đă lần lượt cho ra mắt thi tập Wakana-shuu (Nhược thái tập) “Rau non” (1897), Hitohabune (Nhất diệp chu) “Thuyền một lá”(1898) nói lên những niềm vui và nỗi khổ của lứa tuổi thanh niên. Thế rồi trong Natsukusa (Hạ thảo) “Cỏ hạ”, Tôson từ giă tuổi thanh xuân và t́m được ư nghĩa cuộc đời trong lao động trước khi ư thức về tuổi tráng niên trong Rakubai-shuu (Lạc mai tập) “Hoa mơ rụng”(1891). Tập sau cùng nầy có những tác phẩm tản văn với khả năng miêu tả sự vật cao, cũng là nơi Tôson có dịp chuẩn bị để đổi hướng nghĩa là từ bỏ thi ca để bước qua lănh vực tiểu thuyết. Nguồn cội của thơ Tôson chính ra là thành quả của sự ḥa hợp khéo léo của ba ḍng thơ: Tây Âu, Nhật Bản và Trung Hoa. Nếu bảo thơ Anh, waka của thời Kokin-shuu, haiku của Bashô, Đường thi của Lư Đỗ…đă ḥa tan với nhau để sinh thành thơ Tôson, th́ cũng là điều không vô lư chút nào. Tôson bắt đầu nổi tiếng với Akikaze no Uta “Khúc hát gió thu” đăng trong tạp chí Bungakkai số tháng 12/1896.Bài thơ này lấy cảm hứng từ Ode to the West Wind ”Khúc hát gữi gió tây” của P.B. Shelley. Mặc dù không có tầm vóc cũng như sự phong phú và nhiệt t́nh nồng cháy của thơ Shelley nhưng tác phẩm của Tôson là viên đá làm nền cho thơ mới Nhật Bản. Nó gồm những câu 12 âm tiết với một chỗ ngắt nghĩ sau âm thứ 7. Tôson không hỏi thăm trực tiếp làn gió vô h́nh như Shelley đă làm (“Thou from whose unseen presence”) nhưng giữ một khoảng cách với nó. Ta thấy điều đó trong những câu sau: Shizukani kitaru / aki kaze no Gió mùa thu từ từ nổi dậy, Thơ Tôson có những bài nổi tiếng được dùng để dạy ở các trường trung học, chẳng hạn Hatsukoi “T́nh đầu” trong tập Wakana-shuu “Rau non” hay những bài ca về phong cảnh sông Chikuma (Thiên Khúc Xuyên) quê hương ông trong tập Rakubai-shuu “Hoa mơ rụng”: Tóc trên trán tuổi vừa biết vén, (Mào đầu Hatsukoi, T́nh Đầu, thơ Tôson) Cái mới của thơ Tôson c̣n nằm cả trong ngôn ngữ lẫn cách cấu tứ. H́nh ảnh người con gái trao quả táo cho người con trai chưa hề thấy trong thơ Nhật trước đó. Nó chính là quả táo mời mọc mà Eve đă trao cho Adam trong Kinh Thánh. Và t́nh yêu của người con trai mà tác giả diễn tả trong bài thơ này không nhất thiết hướng về một người con gái nào đặc biệt. Nó chỉ là t́nh yêu dành cho t́nh yêu mà thôi. Lại nữa, cứ xem một trong sáu bài thơ nhan đề ” Sáu nàng thiếu nữ ” (Rokunin no Otome) sáng tác không lâu sau “ Khúc Hát Gió Thu ” th́ rơ. Bài thơ bàn ở đây nói về nàng thứ ba tên là Osayo. Cô ta đă 25 tuổi nhưng không chịu lấy chồng v́ định tiếp tục theo con đường âm nhạc, sở thích của ḿnh. H́nh tượng một người con gái độc lập như vậy rất hiếm có trong một xă hội hăy c̣n nặng nề lối suy nghĩ phong kiến như thời Meiji. Đó đă là một điều mới mẽ. Ngoài ra, Tôson c̣n sử dụng chất liệu Tây Phương trong sáng tác. Cảnh Osayo sinh ra trên băi biển vắng có thể đă mượn ư của bài thơ tản văn Le Centaure (Nhân Mă) của Maurice de Guérin. Đam mê của Osayo với nhạc khí như ống tiêu có thể đến từ h́nh ảnh của các nữ thần nghệ thuật Muses trong thần thoại Hy-La. Tuy nhiên đáng lưu ư hơn cả là quan điểm về t́nh yêu lăng mạn mà ông nhấn mạnh trong tác phẩm này. Cách biểu hiện trong thơ t́nh của Tôson cũng nồng nàn. Trong bài Yotsu no Sode “ Bốn Ống Tay Áo ” dựa trên truyện t́nh của đôi nam nữ Onatsu và Seijuurô trong vở kịch Gojuunen Uta Nenbutsu “ Bài thơ lễ Phật cho ngày kỵ thứ 50 ”, tác phẩm của soạn giả Chikamatsu[9], ông không giữ lại chi tiết bi kịch của tấn tuồng mà chỉ mượn nó làm cái cớ để nói lên t́nh cảm bỏng cháy của đôi trẻ : Otoko no kuroki / me no iro
no Khi ánh mắt đen anh dừng
lại, Tính trữ t́nh của thơ Tôson c̣n ngưng đọng lại trong thơ tả cảnh như ta có thể thấy trong bài Chikuma Ryojô no Uta “ Bài hát của người lữ thứ bên ḍng Chikuma ” mà âm hưởng thơ Bashô (trong tác phẩm Đường ṃn miền Oku), Lord Byron (qua h́nh ảnh của Childe Harold) và Đỗ Phủ (nhà thơ lữ hành đời Đường) như vang vọng trong những câu sau đây : Trên Komoro thành hoang, ............................................... Thành ơi muốn ngỏ điều chi ? Sau khi thành công trong thơ, Tôson bước qua lănh vực tiểu thuyết, không phải là không có chút luyến tiếc nhưng ông đă không quay trở lại với thơ nữa. Tuy thế, những vần điệu trữ t́nh của “Rau Non ” và đượm màu triết lư của “ Hoa mơ rụng ” đă dọn đường cho thế hệ thi nhân đến sau. Những điều Tôson thực sự muốn nói, ông sẽ gửi gắm vào tiểu thuyết, nhất là với tác phẩm Hakai “ Xé rào ” bàn đến trong phần liên quan đến Shimazaki Tôson, người viết văn xuôi.. 3) Tsuchii Bansui (Thổ Tỉnh, Văn Thúy, 1871-1952) :
Tsuchii Bansui làm thơ trữ t́nh có nét suy tư Bản thân có lúc xưng tên là Doi (cũng viết bằng hai chữ Hán Thổ Tỉnh như Tsuchii). Người Sendai, tỉnh Miyagi, miền Đông Bắc. Cùng với Shimazaki Tôson, được coi như một cặp bài trùng tiêu biểu cho thi phong lăng mạn trữ t́nh của thế hệ 1890. Tsuchii Bansui vốn có kiến thức Hán văn sâu rộng, lại tốt nghiệp khoa Anh trường Đại Học Đông Kinh, đă thành công trong việc sáng tác những tác phẩm có tính cách hùng tráng, đối nghịch với lời thơ nhẹ nhàng và u buồn của Tôson. Tập thơ đầu tay Tenchi yuujô (Thiên địa hữu t́nh, 1899) “ T́nh trời ư đất ” có tác phẩm Hoshiotosu shuufuu Gojôgen (Tinh Lạc Thu Phong Ngũ Trượng Nguyên) “Gió lạnh sao rơi G̣ Ngũ Trượng” nói về phút lâm chung của thừa tướng nhà Thục Hán Gia Cát Lượng rất được độc giả yêu mến.Nó khởi đầu bằng hai câu mà nhiều người Nhật biết tới: Kỳ Sơn thu buồn trong gió
khuya, Bài thơ Kôjô no tsuki “Trăng trên thành hoang” của ông gồm 3 tiết, vịnh vầng trăng (vĩnh cửu) chiếu trên thành hoang (hữu hạn) Aoba ở Sendai, thương tiếc những thời đại oai hùng, những cuộc yến ẩm, thưởng hoa, cảnh chiến địa mùa thu có gươm giáo sáng ḷe, có đàn nhạn bay qua...Nó được phổ nhạc và đánh giá như khúc hát bi tráng, ăn khách nhất trong lịch sử âm nhạc cải cách (enka) của Nhật. Sau khi cho ra mắt thi tập thứ hai Gyoushô (Hiểu Chung) “Chuông Sớm”, ông du lịch Anh, Pháp, Đức, Ư rồi lần lượt xuất bản Tôkai Yuushigin (Đông Hải du tử ngâm, 1906), Shôkô “ Ánh sáng ban mai ” (1919), Tenba no michi “ Đường đi của ngựa bay ” (1920), Bansui Shishuu “ Tập thơ Bansui ” (1919). Nhà b́nh luận Takayama Chogyuu[10], một người bạn của Bansui, có vẻ hiểu rơ ông hơn ai cả. Theo Chogyuu, tuy thơ Bansui không sánh được với thơ Tôson về mặt âm điệu nhưng trội hẳn về mặt tư tưởng và cả sự trong sáng trong t́nh cảm. Do ảnh hưởng đến từ Kinh Thánh, Dante, Virgil và Victor Hugo, thơ của ông c̣n là những lời kinh cầu đầy vẻ trang nghiêm. Riêng phần thơ trữ t́nh của ông, nó cũng không phải là loại thơ trữ t́nh theo cảm hứng mà Goethe, Heine hay Shelley đă viết. Nó là thơ trữ t́nh có suy tư như phong cách của Schiller và Swinburne[11]. Để kiểm chứng cho nhận xét đó, xin dịch hai đoạn thơ sau của Bansui: Trăng Canh Đê[12],
mục đồng đă thấy, (Trong Kôjô no Tsuki “ Trăng trên thành hoang, thơ Bansui, 1898) Một cô chị với cô em ấy, (trong Yuu no Hoshi, Cánh Sao Hôm, 1898) Ngoài việc sáng tác, Bansui đă dịch hai thiên sử thi Ilias và Odyssey của Homeros. Ông hoàn thành bản Odyssey tiếng Nhật vào năm 1943. D) Thơ tượng trưng (Symbolism) với Susukida và Kyuukin : Hai nhà thơ hay gửi bài đến tạp chí Myôjô (Minh Tinh) “Sao Mai”[13] là Susukida Kyuukin (Bạc Điền, Khấp Cần) và Kanbara Ariake (Bồ Nguyên, Hữu Minh). Hai ông đă khổ công trong việc tạo nên một thi phong tượng trưng. Tên của hai người hay dính liền với nhau nhưng về phương diện thi ca, giữa họ cũng có những điểm khác biệt quan trọng. Susukida thu thập thơ lăng mạn thành tập Boteki-shuu (Mộ Địch Tập) “Tiếng Địch Chiều” (1899) chú trọng đến sự cách tân h́nh thức trong khi Kanbara, người chịu ảnh hưởng của thi nhân người Anh Dante Gabriel Rosetti (1828-1882), biên tập thi phẩm Kusawakaba “Lá cỏ non” (1902), mới là người chú trọng đến nội dung và đi tiên phong trong trường thơ tượng trưng. 1) Susukida Kyuukin (Bạc Điền, Khấp Cần, 1877-1945) :
Susukida Kyuukin, nhà thơ Nhật Bản t́m về phong cách phái Thi Sơn Đi xa hơn Tôson, Kyuukin vay mượn nhiều h́nh thức thơ Tây Phương như Sonnet (một kiểu thơ 14 câu mà ông gọi là zekku “ tuyệt cú ”), Ode (thơ ca ngợi, phát xuất từ Hy Lạp, mà ông đổi tên ra là fu “ phú ”) và h́nh thức thơ kể truyện của dân gian (ballad) để làm phong phú thơ Nhật. Kyuukin người ở Kurashiki, một thành phố cổ kính thuộc tỉnh Okayama, yêu thơ từ thời trẻ nhưng phần lớn là tự học. Khác với Tôson, con người t́nh cảm, ông thiên về lư trí nếu không nói có phần nào khắc kỷ. Không thỏa măn với Tôson và Bansui, ông t́m về các nhà thơ người Anh như John Keats, Robert Browning. Các bài Ode to the Nightingale ” Khúc hát gửi chim họa mi ” hay Ode on a Grecian Urn ” Khúc hát về chiếc vại Hy Lạp đựng di hài ” của Keats sẽ là nguồn cảm hứng cho Kokyô no Fu “ Cổ kính phú ” và Boshun no Fu “ Mộ xuân phú ” của ông.Thơ kể truyện của ông có Amahasezukai “ Sứ giả nhà trời ” gồm 699 câu, được in trong tập Nijuugo Gen (Nhị thập ngũ huyền, 1905) “ Hai mươi lăm giây đàn ” sử dụng huyền thoại khai thiên lập địa của Nhật nhưng có màu sắc Phật giáo và chịu ảnh hưởng Hyperion, tác phẩm của Keats. Bài Bôkyô no Uta “ Vọng hương thi ” tả cảnh cuộc sống bốn mùa của người dân Kyôto, đăng trong tập Hakuyôkyuu (Bạch Dương Cung) “Cḥm sao Aries” (1906), là một tác phẩm quan trọng của ông và của cả lịch sử thơ mới Nhật Bản. Trong đó, người ta thấy ông lập lại cùng điệp khúc “ Ta sẽ đưa em về nơi đó ” ( Kanata e, kimi to izaka heramashi) quen thuộc mà Goethe từng dùng trong bài hát “ Kennst du das Land ? ” của nàng Mignon, một mỹ nhân bạc mệnh.. Sự quan tâm của Kyuukin về h́nh thức, ngôn ngữ và truyền thống đă trong thơ làm ông được xem như có phong cách phái Thi Sơn (Parnasse)[14] bên Pháp.Thật ra nhiều bài thơ của ông đă mang dấu ấn của Leconte de Lisle[15] mà ông biết qua bản dịch của Ueda Bin. 2) Kanbara Ariake (Bồ Nguyên, Hữu Minh, 1876-1952) : Ariake và người chị của ông đă làm quen với ḍng thơ của chủ nghĩa lăng mạn từ thuở nhỏ khi họ thuộc ḷng những bài thơ ngoại quốc như Elegy Written in a Country Church Yard “ Hoài cảm bên mồ ” hay The Charge of the Light Brigade “ Đoàn khinh binh xung phong ” được dịch trong tập “ Tập thơ h́nh thức mới ”. Ông cũng có cơ hội đọc “ Vang bóng” của nhóm Mori Ôgai và “ Bồng Lai Khúc ” của Kitamura Tôkoku với tất cả ḷng sùng kính của một cậu bé 15 tuổi muốn bước vào làng thơ. Ariake hâm mộ Rosetti c̣n hơn là Kyuukin hâm mộ Keats, đến nổi Ariake được gọi là “ Rosetti Nhật Bản ”.Tuy vậy, ông c̣n chịu ảnh hưởng Itylus của Swinburne và những những tác phẩm cổ điển Nhật Bản thế kỷ thứ 8 như Fudoki (Phong thổ kư) và Kojiki (Cổ sự kư ). Sau ” Lá cỏ non ” (1902), Kanbara Ariake cho in Dokugen Aika (Độc huyền ai ca ) (1903), Shunchô shuu “ Xuân điểu tập ” (1905), rồi Ariake-shuu “Tập thơ Ariake”[16] (1908). Trong tập thơ cuối này, ông đă đưa thơ Sonnet Nhật Bản lên đỉnh cao nhất của nó. A) Nhà dịch thuậtUeda Bin (Thượng Điền, Mẫn, 1874-1946) :
Ueda Bin, người đă dịch Chanson d’Automne của Paul Verlaine Ngoài hai nhân vật nói trên, phải kể đến Ueda Bin, cây bút chủ lực của tờ Bungakukai, rất giỏi ngoại ngữ, từng là giáo sư Đại Học Kyôto. Ông đă cho ra đời tập thơ dịch Kaichôon (Hải triều âm) “Tiếng sóng biển” (1905), chuyển ngữ thơ Baudelaire, Verlaine và thơ của trường phái tượng trưng Âu Châu. Qua đó, ông định nghĩa thế nào là thơ tượng trưng. Nhờ công khó của ông. và với những thành quả của Kyuukin và Ariake, ta đă nh́n thấy sự trưởng thành thực sự của ḍng thơ nầy . Theo lời giải thích của Ueda Bin trong bài tựa tập thơ dịch Kaichôon (Hải triều âm), thơ tượng trưng là hệ thống h́nh ảnh và khái niệm mà người làm thơ vay mượn để gửi đến độc giả tâm trạng của ḿnh. Tuy vậy, không nhất thiết phải có một sự đồng điệu nào giữa hai bên. Người thưởng thức thơ tượng trưng có thể hiểu nó theo ư ḿnh và hiểu ngay cả những điều nhà thơ chưa đủ sức nói ra. Cùng một bài thơ mà tùy độc giả, sẽ có nhiều lối giải thích và cảm nhận khác nhau. Điều quan trọng nằm ở chỗ những biểu hiện có tính tượng trưng đó có gợi được cái giống nhau trong tâm trạng người viết và người đọc hay không mà thôi. Ueda sinh trong một gia đ́nh học giả thường xuyên tiếp xúc với Tây Phương. Ông đă dịch thơ P.B. Shelley và Lord Byron từ hồi mới 18 tuổi, giỏi cả tiếng Pháp và đă quen biết với nhóm Bungakukai khi ngồi trên ghế trường Đại Học Đông Kinh ban Anh Văn.Ông là học tṛ của Lafcadio Hearn (1850-1904), nhà văn và nhà giáo gốc Anh-Hy Lạp, cũng như của Raphael von Koeber (1848-1923), người Đức-Nga. Hearn thường khen Ueda như một cậu học tṛ “ trong vạn người mới có một ”. Năm 1899, ông cho ra mắt tập The Victorian Lyre “ Hợp tuyển thơ trữ t́nh thời Victoria ” bằng tiếng Anh, trong đó có Rubaiyat của Fitzgerald, thơ Rosetti và Swinburne, cả thơ Kipling. Sau đó, ông đă học thêm tiếng Ư và tiếng Đức để đủ sức dịch cả Uber den Bergen của Carl Busse. Năm 1905, ông có cơ hội dịch thơ viết bằng tiếng Pháp của Mallarmé, Verhaeren, Régnier, Verlaine và Rodenbach. Bản ông dịch sang tiếng Nhật Chanson d’Automne của Verlaine là một tuyệt bút trong dịch thuật. Nhà thơ Yosano Tekkan[17] đă đánh giá ảnh hưởng của tập thơ dịch Kaichôon “ Hải triều âm ” (10/1905) của Ueda Bin (với vỏn vẹn 57 bài thơ của 29 nhà thơ Pháp-Bỉ) đối với thi ca đời Meiji-Taishô ngang với ảnh hưởng Bạch thị văn tập của Bạch Cư Dị đối với văn nhân thi sĩ thời Heian. Nhà b́nh luận Shinoda Hajime (dẫn bởi D.Keene) c̣n cho rằng “ Mallarmé là một phần không tách rời được của truyền thống thi ca Nhật Bản ”. Nếu được như thế là nhờ tài dịch của Ueda Bin vậy. F) Thơ tự do viết theo văn nói: Thơ tự do sử dụng văn nói để diễn đạt mà ta biết ngày nay thật ra đă có mầm mống từ giai đoạn sau của thời Meiji, khi thơ hấp thụ ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học. Cứ nh́n tựa đề Hakidame (Trần trủng, 1906) “Đống Rác” (sau in lại trong Robô no Hana “Hoa bên đường” năm 1909), của Kawaji Ryuukô (Xuyên Lộ, Liễu Hồng) đă nhắc ở trên, th́ đủ thấy điều đó. Thật ra, cho đến thời điểm ấy, không có tập thơ nào mang một tựa đề nôm na để tŕnh bày một thế giới khác lạ như vậy. Mùi thối hoăng của đống rác ngập ngụa sau kho thóc nhà hàng xóm bốc lên trời vào một buổi chiều khi mưa vừa tạnh, đối với tác giả lại có vẻ “nên thơ”, cũng như những phong, hoa, tuyết, nguyệt của người xưa. Trước đó, đă có Ishikawa Takuboku (Thạch Xuyên, Trác Mộc, 1886-1912) đă diễn đạt t́nh cảm đời thường theo cung cách văn nói trong tập thơ lăng mạn Akogare “Ngưỡng mộ” của ông. Tuy Takuboku cũng làm thơ theo văn viết nhưng phần thơ diễn tả như lời nói mới chiếm phần quan trọng trong sự nghiệp của ông.Takuboku được thi nhân đàn anh Yosa Buson nh́n nhận tài năng và in thơ lần đầu tiên trên mặt tạp chí Myôjô (Minh Tinh) ”Sao Mai”.Tập thơ Akogare đă đưa tên tuổi ông lên cao. V́ xúc động trước “vụ án đại nghịch” xử tử h́nh những nhà văn cánh tả, ông ngả hẳn về khuynh hướng xă hội chủ nghĩa, hay đúng ra chủ nghĩa vô chính phủ (anarchism) chứ chưa phải Cộng Sản. Những bài tanka của ông làm lúc cuối đời (ông chết trẻ v́ bệnh lao, một chứng nan y thời ấy, lúc mới có 36 tuổi, trước Cách Mạng Tháng Mười những 5 năm) tràn đầy cảm thương và nhiệt t́nh cách mạng. Thơ viết theo văn nói của ông có những bài giống như bài sau đây: Trước đây tuy chúng ta từng đọc, từng tranh
căi với nhau, V Narod![18] (Bài thứ nhất của nhan đề “Sau khi nghị luận ṿng vo”) Thơ soạn theo văn nói khác với văn viết cơ bản ở h́nh thức thể hiện đă đành nhưng v́ h́nh thức thể hiện khác nhau nên rốt cục nội dung cũng khác đi. Thơ soạn theo văn viết th́ có khoảng cách với cuộc sống hằng ngày. V́ nó trịnh trọng, nặng nề, đẹp đẽ nên nội dung khó thể đi ra ngoài những phạm trù đó. Ngược lại, thơ viết theo văn nói, cho dù không phải là văn nói một trăm phần trăm, cũng không thể có nội dung vượt ra ngoài sinh hoạt thường nhật. Tuy nhiên trong đoạn thơ của Takuboku vừa dùng để dẫn chứng, cách dùng đại danh từ (warera = chúng ta) và ngắt câu là theo lề lối của văn viết để diễn tả nội dung của sinh hoạt hằng ngày, có thể nhằm tăng thêm sức thuyết phục cho bài thơ này vốn có tính cách lập luận, tuyên cáo. G) Những người tiếp nối ḍng thơ tượng trưng: Sau Kyuukin và Ariake, ḍng thơ tượng trưng được tiếp nối và phát triển bởi Kihahara Hakushuu (Bắc Nguyên, Bạch Thu, 1885-1943) và Miki Rofuu (Tam Mộc, Lộ Phong, 1889-1964). Hakushuu viết Jashuumon (Tà tông môn) “Tà đạo” năm Meiji 42 (1909) với lời thơ diễm lệ, và đậm đà cảm xúc về những vùng đất xa lạ. C̣n Rofuu sử dụng ngôn ngữ được tôi luyện trong tư tưởng và t́nh cảm đồi phế (decadence) để viết Haien (Phế viên) “Vườn hoang”, Shirokite no ryôjin “Người đi săn bằng tay không”(1914). Thời hai nhà thơ nói trên đóng vai chủ tể thi đàn được gọi là thời Hakuro ( Bạch-Lộ), ghép tên của Hakushuu và Rofuu, c̣n có nghĩa là “sương trắng”. H) Thơ phái duy mỹ: Sau khi Myôjô (Minh Tinh) “Sao Mai” vừa đ́nh bản không được bao lâu th́ đă có tạp chí Subaru “Sao Măo”[19] ra đời (1909). Người chủ trương lúc đầu là Mori Ôgai, cây bút cự phách của trường phái lăng mạn, Ishikawa Takuboku phụ trách phát hành, có sự tham gia của Yosa Buson, Yosano Akiko và Ueda Bin. Thế nhưng Takuboku ngả về văn học khuynh hướng xă hội nên chẳng mấy lúc tách khỏi nhóm. Sau đó, những người chủ nhiệm trên thực tế của tạp chí này không ai khác hơn Hakushu, cùng với Kinoshita Mokutarô (Mộc Hạ “Mộc” [20]Thái Lang, 1885-1945) và Takamura Kôtarô (Cao Thôn, Quang Thái Lang, 1883-1956)… những nhà nghệ thuật có chân trong Pan no Kai (Mục Dương Hội)[21]. Mục đích của họ là đối kháng với văn nghệ theo khuynh hướng tự nhiên (tức xă hội). Kinoshita có Shokugo no Uta “Bài hát sau bữa cơm” (1919). Ông là y sĩ, c̣n viết cả thơ lẫn kịch.
TIẾT III: THƠ MỚI ĐỜI TAISHÔ (1912-26): Nói về thi ca thời Taishô và về sau không thể nào bỏ qua những trước tác của hai nhà thơ Takamura Kôtarô và Hagiwara Sakutarô mà tên tuổi đă nhắc sơ qua khi đề cập về đến thi ca thời Meiji nhưng thời gian hoạt động của họ hăy c̣n kéo dài sau đó. A) Ḍng thơ theo chủ nghĩa lư tưởng (Idealism): Cuối đời Meiji, thi ca của những nhà thơ thuộc nhóm Shirakaba[22] (Bạch Hoa) nhuốm màu sắc chủ nghĩa lư tưởng (Idealism) đă có sức thẩm thấu trong quần chúng. Nhà thơ Takamura Kôtarô, trước đó theo khuynh hướng duy mỹ đă t́m đến chủ nghĩa lư tưởng sau khi tiếp nhận ảnh hưởng của trường phái Shirakaba. Từ khi gặp “nàng thơ”, nữ họa sĩ Naganuma Chieko, người sau nầy trở thành vợ ông, Kôtarô đă sáng tác thơ trên lập trường nhân đạo và sử dụng lối diễn tả bằng văn nói. Trong tập thơ theo thể tự do mang tên Dôtei (Đạo Tŕnh, 1914) “Dặm đường”, phân nửa đầu được soạn theo văn viết và có dấu ấn của phái duy mỹ, phân nửa sau gồm cả những vần thơ nhớ về Chieko lại viết bằng văn nói. Sau đó, Senke Motomaro (Thiên Gia, Nguyên Lữ) trong Jibun wa mita “Đă thấy chính ḿnh” (1918), Ozaki Kihachi (Vĩ Kỳ, Hỷ Bát) qua Sora to Juumoku “Bầu trời và cây cối” (1922) đều chứng tỏ đă chịu ảnh hưởng của nhóm Shirakaba. Đó là chưa kể thi tập Kaze wa sômoku ni sasayaita “Gió th́ thầm với cỏ cây” (1918) của nhà truyền đạo thiên chúa Yamamura Bochô (Sơn Thôn, Mộ Điểu, 1884-1924) viết ra sau khi đột nhiên giă từ khuynh hướng tượng trưng để làm thơ “lập thể” (cubist) khó hiểu trong tập Seisanryô Hari (Thánh Tam Lăng Pha Lê, 1915) “Pha lê ba cạnh linh thiêng”. Takamura Kôtarô (Cao Thôn, Quang Thái Lang, 1883-1956) và chủ nghĩa lư tưởng (Idealism):
Takamura Kôtaro, rường cột của phong trào thơ mới Nhật Bản Takamura Kôtarô vốn là con trai của nhà điêu khắc trên gỗ tài danh Kôun (Quang Vân), từ nhỏ đă cầm con dao đẽo nhà nghề của cha. Sau khi du học ở Pháp về, Kôtarô khổ tâm về sự chọn lựa giữa phong cách điêu khắc của cha ḿnh và của nhà điêu khắc Pháp Auguste Rodin là hai người ông cùng ngưỡng mộ nên rơi vào cảnh bế tắc trong sáng tạo. Nhờ gặp gỡ Chieko tức nàng thơ đă nói ở trên vào năm 1911 và kết hôn với bà ba năm sau đó, ông mới hồi tỉnh và đeo đuổi con đường nghệ thuật. Thời trẻ, Kôtarô đă theo học điêu khắc ở Trường Mỹ Thuật Tôkyô nhưng lại thích văn chương, có thơ đăng tạp chí Myôjô. Năm 1906, qua Mỹ (học điêu khắc một năm với Gutzon Borglum), Anh, Pháp, thăm các nhà bảo tàng mỹ thuật và nhận thấy Nhật quá phong kiến và nghiêm khắc trong diễn tả nên đă chọn lối sống đồi phế (decadence) của các bạn trong nhóm Pan no Kai (Mục Dương Hội) trước khi biết Chieko, người mà t́nh yêu tha thiết của ông đă được diễn tả qua những ḍng như sau: Mỗi lần anh nghĩ về em, (“Bokura” “Hai đứa ḿnh”, 1913, thơ Takamura Kôtarô) Năm 1914, ông tự bỏ tiền túi xuất bản Dôtei “Dặm đường”, một tập thơ thể tự do viết bằng văn nói.Trong đó ông không xem thiên nhiên như một người mẹ mà là một người cha, và ông hăm hở nh́n về tương lai: Mùa đông ơi, 1) Murou Saisei (Thất Sinh, TêTinh, 1889-1962) Murou Saisei với ḍng thơ trữ t́nh và hoài niệm Murou gốc gia đ́nh samurai thuộc phiên Kaga nhưng chỉ là con tư sinh, được cha gửi làm con nuôi một nhà sư thế tục họ Murou, biệt hiệu Saisei th́ mượn từ tên con sông Sai chảy qua tỉnh Kanazawa quê nhà. Cuộc sống làm dưỡng tử cho người ta không mấy thoải mái nên ông đă bỏ học sớm để nhận một chức thư lại tầm thường trong Ṭa Án địa phương Kanazawa. Ông đọc sách nhiều và có năng khiếu thơ. Năm 1910, ông lên Tôkyô, đăng thơ trên tạp chí Zamboa[25] của Kitahara Hakushuu, gây được sự chú ư. Ông kết bạn với Hakushuu, Sakutarô và Yamamura Bochô (Sơn Thôn, Mộ Điểu). Năm 1919, xuất bản Ai no Shishuu “Tập thơ t́nh yêu”. Quyển này được viết ra sau khi nhà thơ đă thoát ra những khổ năo của tuổi thanh xuân, từng thấy trong một tác phẩm trước đó, Jôjô Shôkyokushuu (Trữ t́nh tiểu khúc tập) “Những bài thơ trữ t́nh ngắn”. Cả hai đều mang dấu ấn của phái Shirakaba. Xin giới thiệu một đoạn ngắn mà nhiều người biết đến: Nghĩ về quê hương, thương
nhớ một trời, (Tiểu cảnh dị t́nh bài số 2 trong 6 bài, trong Jôjô Shôkyokushuu Trữ T́nh Tiểu Khúc Tập “(1918). Bài thơ nói trên, theo giải lời giải thích của Hagiwwara Sakutarô và Yoshida Seiichi[26], mang niềm luyến tiếc hoài niệm của một người đàn ông thành thị nhớ về làng quê và thời thơ ấu. Thế nhưng quê hương đă ruồng bỏ ông. Gia đ́nh tranh chấp, hương đăng mè nheo, nên dù thương yêu đến đâu, ông cũng coi quê hương có cũng bằng không. Thơ ông c̣n có những bài như:. Mặt trời chiều đỏ ối, (“Bài thơ dang dở” trong Ai no shishuu “Tập Thơ T́nh”, 1918, thơ Murou Saisei) Không biết từ nơi nào nữa, Trong nỗi buồn của mùa hè, (Semigoro “Mùa ve kêu” trong Jôjô Shôkyokushuu Trữ t́nh tiểu khúc tập “(1918), thơ Saisei). “Ngày mai chúng ḿnh trở lại đây chơi nhé, Tôi đến chỗ chúng chơi để thử nh́n, Nhưng ngày mai, chúng hẹn đến chơi đây, (“Ngày mai” trong Tsuru “Những con hạc” (1928), thơ Saisei) Đặc biệt Murou Saisei c̣n viết tiểu thuyết trong đó có tác phẩm nhan đề Sei no mezame no koro “Thời chớm hiểu về tính dục” (1919). 3) Miki Rofuu (Tam Mộc, Lộ Phong, 1889-1964): Tên tuổi của Rofuu dính liền với Hakushuu không phải v́ hai người có nhiều điểm giống nhau nhưng bởi v́ họ khá khác nhau.Ông vào làng thơ rất sớm. Năm mới 16 tuổi (1905) đă ra mắt tập thơ đầu tiên và sau đó nổi tiếng ngay với tuyển tập Haien “Vườn hoang” (1909). Khác với con người thành thị náo hoạt của Hakushuu, ông thích trầm tư mặc tưởng Thơ Rofuu khó hiểu nhưng thật ra không cầu kỳ. Ông chịu ảnh hưởng thơ Pháp của Verlaine, Mallarmé do Ueda Bin và Nagai Kafuu (trong “San hô tập”) dịch ra tiếng Nhật, tự nhận ḿnh là nhà thơ tượng trưng nhưng phong cách của ông gần gũi với thơ Nhật truyền thống hơn là thơ Tây Phương. Rofuu người tỉnh Hyôgo (gần Kobe), nổi tiếng v́ ông chính là người viết bài đồng dao Aka tombo “Con chuồn chuồn đỏ” mà không người Nhật nào là không biết. Ông theo học cả ở Đại Hoc Waseda và Keiô nhưng không hề đến nơi đến chốn. Vào thập niên 1920, ông theo đạo Công Giáo, có lần sống vài năm trong chủng viện và t́m được nguồn thơ phong phú trong đức tin nhưng tác phẩm quan trọng nhất của ông Shiroki Te no Karyuudo “Người đi săn bằng tay không” đă ra đời từ năm 1913.
C) Miyazawa Kenji (Cung Trạch, Hiền Trị, 1896-1933) và chủ nghĩa lư tưởng nối dài: Miyazawa Kenji, nhà thơ, c̣n viết đồng dao cho trẻ con và người lớn Chúng ta cũng có thể kể thêm một nhà văn, nhà thơ theo lư tưởng chủ nghĩa (Idealism): Miyazawa Kenji (Cung Trạch, Hiền Trị, 1896-1933). Miyazawa là một con người mơ mộng một cơi đời lư tưởng (Utopia). Ông vừa cố vấn về nông nghiệp, vừa rao giảng kinh Pháp Hoa, lại làm thơ và viết truyện nhi đồng. Con trai trưởng trong một gia đ́nh làm nghề cầm đồ ở vùng Hanamaki thuộc tỉnh Iwate miền Bắc nước Nhật, nơi nổi tiếng nghèo nàn, dân chúng thường lâm vào cảnh đói kém. Điều này ám ảnh ông nhiều, nhất là v́ được nuôi dạy trong truyền thống từ bi của Phật giáo và chịu ảnh hưởng của triết học Marx, ông rất thông cảm kiếp sống nhọc nhằn của họ. Từ nhỏ ông đă làm quen với truyện nhi đồng của Iwaya Sazanami (1870-1933) và thơ Ishikawa Takuboku (1886-1912). Sau khi xong bậc trung học, ông không chịu nối nghiệp nhà mà ghi tên vào Trường canh nông Morioka và học ở đó từ năm 1915 đến 1918. Thời ấy ông đă bắt đầu làm thơ (mà ông gọi là “kư họa của tâm hồn”) và đăng những truyện nhi đồng trong tạp chí Azaria do ông sáng lập năm 1917. Ông tự bỏ tiền xuất bản tập thơ Haru to Shura “Mùa Xuân và cơi Tu La” (1924).Tu La là một chữ trong kinh Phật có nhiều nghĩa nhưng ư chính hiểu là một cảnh tranh chấp, chém giết hỗn độn.Thơ ông gây được tiếng vang nhưng tập truyện nhi đồng mang tên Chuumon no ôi ryôriten “Quán ăn lắm yêu cầu” ra đời cùng năm lại bị rơi vào quên lăng. Ra trường xong ông vào dạy Trường canh nông Hanamaki cũng ở trong vùng nhưng từ 1926, đă xin thôi việc để mở một văn pḥng cố vấn về canh nông cho dân nghèo. Hành động này làm gai mắt nhà cầm quyền đương thời v́ lúc đó phong trào đ̣i quyền sống do nông dân đề xướng đang bộc phát và họ sợ rối loạn trị an.. Năm 1928, ngă bệnh nhưng ông vẫn cố gắng viết tập văn Ginga tetsudô no yoru “Đêm theo đường sắt lên ḍng sông Ngân” và Kaze no Matasaburô “Matasaburô như làn gió”. Ông mất ngày 20 tháng 9 năm 1933 v́ bệnh lao lúc mới 37 tuổi. Trong tác phẩm của ông, ảnh hưởng của Phật Giáo phái Nhật Liên (Nichiren) và tư tưởng xă hội nhân đạo được nhận thấy rơ ràng. Truyện nhi đồng của ông giống như truyện thần tiên, khác hẳn với loại cổ tích mà trẻ em Nhật Bản vẫn được nghe. Nhất là từ khi ông mất, giới phê b́nh và quần chúng mới bắt đầu t́m thấy những cái hay đẹp trong các tác phẩm của ông (năm 1934, sau khi “Đêm theo đường sắt lên ḍng sông Ngân” được phát hành). Không những giàu nhạc tính, tươi tắn, dí dơm, đậm đà ngôn ngữ địa phương, t́nh yêu thiên nhiên và cuộc đời, truyện của ông c̣n có tính quốc tế, đầy chất thơ, không bị thời gian xoi ṃn dù đă trải qua hơn nửa thế kỷ. Về thi ca., trong “Mùa Xuân và Tu La” có ba bài thơ nhan đề Eiketsu no Asa “Buổi mai vĩnh quyết” (1922) thương khóc người em gái tên Toshiko (thật ra là Toshi), một người trong thân tộc rất gần gũi và hiểu ông, nhưng chẳng may mất sớm. Đó là những bài thơ ông trút hết nỗi ḷng. Ông c̣n có những vần thơ nói về kiếp sống khổ cực của nông dân (tuy không phải nông dân nào cũng đánh giá tốt cố gắng giúp họ của ông). Có lẽ bài thơ có tính cách răn dạy kiểu Kipling sau đây của ông được xem như quen thuộc nhất: Không chịu thua trời mưa, Nó lành mạnh và đơn sơ như con người của ông, lại có ư nghĩa sâu xa v́ nó được viết trong cuốn sổ tay trên giường bệnh vào khoảng 11/1931, không lâu trước khi ông qua đời (1933). Ngày nay, các trường tiểu học vẫn dùng bài này để dạy cho trẻ em. D) Ḍng thơ dân chúng: Nền dân chủ thời Taishô và ảnh hưởng của Walt Whitman[27] cũng như Edward Carpenter[28] đă sinh ra ḍng thơ dân chúng, chủ trương bởi những nhà thơ như Momota Sôji (Bách Điền, Tông Trị), Shiratori Shôgo (Bạch Điểu, Tỉnh Ngô), Tomita Saika (Phú Điền, Toái Hoa), Fukuda Masao (Phúc Điền, Chính Phu). Để tư tưởng được thẩm thấu vào mọi tầng lớp quần chúng, họ chủ trương dùng ngôn ngữ giản dị, dể hiểu. Do đó, có một thời đă qui tụ đông đảo độc giả nhưng sau đó v́ cách viết như thế dễ làm thơ thành lê thê, luộm thuộm, bị người đời phê phán là thơ “phi thi” (thơ chẳng ra thơ).
E) Hagiwara Sakutarô (Thu Nguyên, Sóc Thái Lang, 1886-1942) và ḍng thơ tượng trưng (Symbolism): Hagiwara Sakutarô, người xác định vị trí của thơ mới trong văn học hiện đại Thời điểm thơ cận đại xác định được chỗ đứng của nó là khoảng năm Taishô thứ 6 đến 12 (1917-1923), lúc Hagiwara Sakutarô (Thu Nguyên, Sóc Thái Lang) cho ra đời hai tác phẩm Tsuki ni hoeru “Sủa trăng” (1917) và Aoneko “Mèo xanh” (1923). Thơ Sakutarô là loại thơ tự do như văn nói, thuộc khuynh hướng tượng trưng, chứa chất nhiều cảm t́nh u uất của “một người không niềm tin đi kiếm một niềm tin”. Cùng với việc ông bước vào làng thơ, thơ mới đă xác định được chỗ đứng của nó trong lịch sử văn học Nhật Bản. Đối với các nhà thơ thế hệ sau, thơ Sakutarô có ư nghĩa như điểm khởi hành của họ. C̣n đối với những nhà phê b́nh như Fukunaga Takehiko th́ “Hagiwara Sakutarô là nhà thơ xuất sắc của thơ mới Nhật Bản. Thơ ông kết tinh được những ǵ đẹp nhất của tiếng Nhật”. Không những giới nghệ sĩ và phê b́nh ca tụng ông, độc giả cũng yêu mến ông nữa. Con trai một gia đ́nh trưởng giả tỉnh lẻ (thành phố Maebashi), ông lên Tôkyô lức đă ba mươi tuổi. Thưở nhỏ học hành không có ǵ xuất sắc, suốt ngày chỉ mê đọc Poe, Nietzsche, Dostoievsky, Schopenhauer, Kinh Thánh, uống trà đỏ và chơi đàn mandoline. Hagiwara Sakutarô lúc đầu chuyên về tanka, sau đó, ông sử dụng văn viết để làm thơ và đến “Sủa trăng” th́ ông hoàn thành cách thức làm thơ tự do bằng văn nói. Độc giả Nhật coi ông như Baudelaire của họ. Ông có đọc Baudelaire qua bản dịch, tuy nhiên, không thấy ảnh hưởng của nhà thơ Pháp trong thơ ông ngoài một bài thơ viết theo văn xuôi nhan đề Shukumei “Định mệnh” (1939). Ông có trở về với ngôn ngữ cổ điển trong Hyôtô (Băng đảo) “Đảo băng” (1934), tập thơ gói ghém tâm sự chút hồn phiêu bạt. Ngoài ra, ông c̣n viết Kyomô no seigi “Chính nghĩa không có thực” (1929), một tập thơ cách ngôn (aphorism). Ngày c̣n ở Maebashi, thị trấn gần Tôkyô, ông lui tới các nhà truyền đạo. Tư tưởng tôn giáo đă xâm nhập thơ ông và hồn ông. Những bài thơ làm trong thập niên 1910 đầy dẫy ngôn ngữ có tính cách tôn giáo như “tội lỗi” , “cầu nguyện”, “xưng tội”, “chết treo”. Ngoài màu sắc tôn giáo, những vần thơ của Sakutarô c̣n gợi lên sự bí ẩn và sâu thẳm giống như phong cách yuugen (u huyền) của thi nhân waka thời xưa. Sau đây là trích đoạn bài thơ Kaeru no Shi “Cái chết của Con Ếch”(1914) trong tập “Sủa Trăng” (1917): Con ếch đă bị giết chết, (Bài Kaeru ga korosareta, 1914, trong “Sủa Trăng”, 1917) Trong bài thơ nói trên, Sakutarô sử dụng ngôn ngữ hàng ngày nhưng không phải v́ thế mà ai cũng có thể hiểu được ông muốn nói ǵ. Một bài thơ tiêu biểu khác của ông, Take “Tre” (1915) được giải thích như không có mục đích miêu tả cây tre nhưng là để tŕnh bày trạng thái tâm lư của tác giả.: Trên mặt đất sáng, Trên mặt đất cứng, (Take,”Tre”, 1915, trong “Sủa Trăng”, 1917, thơ Hagiwara Sakutarô) Theo nhà b́nh luận Yoshida Seiichi[29], bài thơ nói lên thái độ quyết tâm của tác giả đi trên con đường của ḿnh, bất chấp dư luận một khi ông đă bắt rễ thâm sâu trong đời sống nội tâm.Thân tre, rễ tre…tượng trưng cho thể chất của tác giả, một người gầy yếu và nhạy cảm. Khi “Sủa Trăng” ra đời, nó đă bị cấm phát hành một thời gian v́ tuyển tập có hai bài thơ t́nh thuộc lọai nóng bỏng đối với thời ấy. Ôi, tôi gh́ sát lấy ngực em, (Airen “Yêu”, trong “Sủa Trăng”, 1917, thơ Hagiwara Sakutarô) Tập thơ thứ hai của Sakutarô được đón tiếp nồng nhiệt là Aoneko “Mèo xanh” (1923), tràn ngập nỗi buồn u uất của tác giả. Chữ “xanh” ở đây, ông dịch là “blue” theo nghĩa tiếng Anh là buồn bă (melancholy) và vô vọng (hopeless).Xin giới thiệu tập thơ đó bằng cách đơn cử mấy gịng thơ sau: Ôi, con vật duy nhất có thể ngủ yên ban đêm
trong thành phố rộng này, Trong khoảng thời gian xuất bản cuốn Hyôtô “Băng Đảo” (1932) và cho đến lúc chết (1942), hầu như ông không làm thơ nữa mà chỉ chú trọng vào phê b́nh, nghiên cứu về thiên nhiên và văn hóa Nhật Bản. F) Những người đi sau Hagiwara Sakutarô: 1) Horiguchi Daigaku (Quật Khẩu, Đại Học, 1892-1981) và ảnh hưởng trường thơ Pháp: Nói đến ảnh hưởng thơ Sakutarô với những người đi sau, một thí dụ tiêu biểu là trường hợp của Horiguchi Daigaku. Daigaku du học nhiều năm ở nước ngoài (Pháp) trở về. Năm Taishô 14 (1923), ông cho ra đời tập thơ dịch Gekka no ichigun “Một bầy dưới trăng”, tác phẩm quan trọng gồm 340 bài thơ của 66 nhà thơ tên tuổi của Pháp thời đó mà ông trọng vọng như Rémy de Gourmont, Henri de Régnier, Jules Laforgue, Albert Salmain, Francis Jammes, Guillaume Apollinaire, Jean Cocteau và Max Jacob. Khác với Ueda Bin dịch thơ ngoại quốc nhưng dựa trên những h́nh ảnh sẳn có trong văn chương Nhật, Daigaku theo sát nguyên bản hơn và sử dụng văn nói thường ngày để dịch. Ông c̣n có tập thơ Gekkô to Piero “Ánh trăng và Pierrot”, cũng như bản dịch tác phẩm Yoruhiraku “Vào đêm” của Paul Morand[30]. Ông lại giới thiệu văn học Nhật (tác phẩm của Natsume Sôseki...) đến với người Pháp qua phiên dịch. Sau đây là một bài thơ ngắn trích từ thi tập Suna no Makura “Gối Cát” (1926), trong đó ta thấy ông là một nhà thơ của đô thị: Quanh ánh điện tấm bảng
quảng cáo, (Bài Denki no kôkoku, Quảng cáo điện, thơ Horiguchi Daigaku) 2) Hinatsu Kônosuke (Nhật Hạ, Cảnh Chi Giới, 1890-1971): Một thi sĩ cũng đáng được lưu ư đặc biệt là Hinatsu Kônosuke. Ông làm thơ để bày tỏ quan điểm thẩm mỹ (nghệ thuật trên hết) của ḿnh trong tác phẩm thuộc ḍng văn học tượng trưng nhan đề Tenshin no Shô “Ca ngợi sự hóa thân”(1917). Hinatsu là người đi ngược lại ḍng thơ dân chúng, t́m về những huyễn tưởng có tính thần bí và hiệu quả thị giác của văn tự chữ Hán trong tác phẩm. 3) Satô Haruo (Tá Đằng, Xuân Phu, 1892-1964):
Satô Haruo đă tái tạo không khí spleen của Baudelaire trong thơ Nhật Quê ở Wakayama, ông tài hoa từ thời trẻ. Một bài tanka viết năm 16 tuổi (1908) đă được Ishikawa Takuboku chọn đăng trên tạp chí Myôjô. Ông lên Tôkyô và trở thành đệ tử của Ikuta Chôkô (Sinh Điền, Trường Giang, 1882-1936)[31], một nhà phiên dịch có tiếng. Nhờ đó, ông tiếp xúc được với giới trí thức thủ đô và có cơ hội rèn luyện bút pháp. Sau đó, ông vào khoa văn chương Pháp trường Keiô, đồng thời làm thơ và kết thân với các nhà thơ Yosano Tekkan, Horiguchi Daigaku…Ngoài tập thơ Junjô Shishuu “Xin Chết Cho T́nh” (1921), gồm những bài thơ t́nh của Satô Haruo gửi cho người yêu là Tanizaki Chiyo[32] (Cốc Kỳ, Thiên Đại), những tuyệt tác viết theo lối văn viết và định h́nh, ông c̣n dịch Oscar Wilde và Heinrich Heine (hai tác giả đă có ảnh hưởng lớn lên thơ ông) và vẽ tranh để có tiền sống sau khi bỏ dở việc học. Ông c̣n viết văn xuôi. Hai tập nổi tiếng là Supein Inu no Ie “Ngôi nhà của con chó Tây Ban Nha,” (1917) và Den.en no Yuu.utsu “Buồn chán ở miền quê” (1918). Tác phẩm thứ hai được Tanizaki Jun.ichirô, người sau này sẽ trở thành bạn chí thân của ông, rất yêu thích. Nó nói về nỗi cô đơn, u uất của một nhà thơ khi dọn nhà về sống ở thôn quê như kiểu các văn nhân ẩn sĩ thời xưa. Người vợ ông ta không chịu nỗi, bỏ về thành phố.Tập tản văn này bàng bạc không khí “cuối thế kỷ” (fin-de-siècle) của Tây Phương, có lẽ đă chịu ảnh hưởng chính từ The Picture of Dorian Gray “Chân dung Dorian Gray” của Wilde nhưng có cả những chi tiết gợi nhớ đến Goethe, Tourgueniev, Nietzsche, D’Annunzio, Mérimée, Tchekov, Heine, Baudelaire, Anatole France, Hofmann, Dante, Blake và Thánh Kinh. Đặc biệt là cái “buồn chán” thấy trong tác phẩm này cũng có điểm tương đồng với cái spleen của Baudelaire (1821-67) từng thấy trong Le spleen de Paris “Buồn chán ở Paris”. “Buồn chán ở miền quê” thành công vượt bực nhưng không bao giờ Satô tạo ra được một không khí như thế trong các tác phẩm về sau, ngay cả khi ông viết Tokai no yuu.utsu “Buồn chán trên thành phố” (1922) . Satô được biết nhiều như một nhà thơ nhưng số tác phẩm văn xuôi của ông cũng không phải ít. Ví dụ Kono mitsu no mono “Về ba kẻ này” (1925-26), ông trần t́nh về việc Tanizaki nhượng người vợ (bị bỏ bê) cho ḿnh, tập truyện ngắn Okinu to sono kyôdai “Okinu và mấy người anh em của cô” (1918), Non-Chalant Kiroku “Ghi chép về sự thờ ơ” (1929), Kôseiki “Sống lại” (1929). Điều đáng tiếc là thời trẻ, ông có tư tưởng cấp tiến bao nhiêu th́ khi về già, ông trở nên bảo thủ bấy nhiêu và sử dụng thi ca để động viên “tinh thần yêu nước” trong chiều hướng có lợi cho quân phiệt. Thế mà khi đại chiến kết thúc, ông may mắn không bị hề hấn ǵ và vẫn tiếp tục viết văn, làm thơ. Tác phẩm thời này có tập truyện kư Akiko Mandara “Mạn-đà-la[33] nói về nữ sĩ Yosano Akiko” (1954), tập luận thuyết Kindai Nihon Bungaku no Tenbô “Triển vọng của văn học Nhật Bản cận đại” (1950) và tập truyện Nyonin Funshi “Người đàn bà chết cháy” (1951), thế nhưng lúc đó nguồn hứng của ông hầu như đă khô cạn. G) Khởi điểm của thơ duy hiện đại (Modernism): Cuối thời Taishô, thơ duy hiện đại đă manh nha với khuynh hướng phủ định những giá trị văn nghệ cũ trong thi ca. Hai phân nhánh đă thành h́nh: ḍng thơ hướng về xă hội và ḍng thơ hướng về nghệ thuật. Ḍng thứ nhất đă bị chính quyền quân phiệt đương thời bóp nghẹt khi Nhật Bản đang ở trong giai đoạn chuẩn bị chiến tranh. Các nhà thơ chịu trăm ngh́n khó khăn trong việc sáng tác. Đến khi ḥa b́nh lập lại, việc làm trước nhất của làng thơ là đặt vấn đề trách nhiệm của những người làm thơ đă ủng hộ cuộc chiến. Thơ duy hiện đại Nhật Bản đă bắt nguồn từ những trường thơ tiền vệ Âu Châu với những chữ dùng quen thuộc thấy trên các bản tuyên ngôn văn nghệ thời đó như chủ nghĩa ấn tượng (expressionism), chủ nghĩa vị lai (futurism), Đa-đa, chủ nghĩa siêu thực (surrealism) nhưng không đến nổi g̣ bó quá trong cách hiểu những từ ngữ ấy như ở Âu Châu. Nó nhằm đi t́m một lối diễn tả mới cũng như một ngữ vựng mới nhưng nói chung có thể tóm tắt trong ba đặc điểm: 1-Kết hợp thi ca với các bộ môn nghệ thuật ảnh tượng. 2-Dành một chỗ quan trọng cho những suy luận có tính lư thuyết. 3-Khuynh hướng quốc tế hóa. Nguồn cảm hứng của nó đến từ các chân trời khác nhau: phái vị lai Ư của Marinetti, phái vị lại lập thể (cubo-fururrism) Nga đă được David Burljuk tŕnh bày trong lần ông ghé Nhật, hoạt động của Herward Walden với tạp chí và pḥng triển lăm tranh Der Sturm ở Berlin, cũng như phái Đa-đa của Tristan Tzara và phái siêu thực của André Breton. Các tạp chí chuyên môn ra đời thời đó mang những cái tên như Mirai-ha “Phái Vị Lai” (1920-23), “Hành Động” (1921-24), và nhất là Mavo (1924-25) do Murayama Tomoyoshi (Thôn Sơn, Tri Nghĩa, 1901-77) chủ trương. Tuy nhiên, cái mốc đánh dấu điểm phát xuất của thơ duy hiện đại là lúc tờ truyền đơn bươm bướm “Tuyên ngôn vận động cho trường phái vị lai Nhật Bản” của nhà thơ độc lập Hirato Renkichi (B́nh Hộ, Liêm Cát, 1893-1922) được đem ra phân phát năm 1921 ở khu Hibiya (trung tâm Tôkyô). Hirato chịu ảnh hưởng của cách mệnh thơ Âu Châu, đă trở thành thủ lĩnh của trường thơ vị lai (Futurism) Nhật Bản. Sau đó, người cầm đầu trường phái Đa- đa (Dadaism) Nhật Bản Takahashi Shinkichi (Cao Kiều, Tân Cát, 1901-1987) đă in “Tập thơ đa-đa của Shinkichi”(1923). Như ta đă biết, Đa-đa là trường phái phủ nhận quan điểm thẩm mỹ và thế giới quan có sẵn, muốn kết hợp chủ nghĩa hư vô (nihilism) với văn học, trên mặt h́nh thức dùng những phương thức diễn tả có tính cách lộn xộn, vụn vỡ, phi lư, vô nghĩa. Những nhân vật đă chịu ảnh hưởng của trường phái vị lai là Takahashi Shinkichi, Tsuji Jun, nhà thơ và họa sĩ Kanbara Tai (sinh năm 1898), Hagiwara Kyôjirô (1899-1938). Một nhóm khác chủ trương nghiên cứu h́nh thức và làm thơ thuần túy, bắt đầu hoạt động từ năm 1925 cho đến suốt thập niên 1930. Họ gồm những tên tuổi Nishikawa Junzaburô, Takiguchi Shuuzô, Kitazono Katsue và một số nhà thơ trẻ. Yamanaka Chisuu (1905-77), nhà thơ và phiên dịch, đóng vai tṛ gạch nối giữa họ và trường thơ Pháp. Họa sĩ Koga Harue (1895-1933) cũng đóng góp một số tranh để minh họa những bài thơ và thực hiện sự tiếp cận giữa thi ca và hội họa. Ngoài ra, nhóm các ông Hagiwara Kyôjirô (Thu Nguyên, Cung Thứ Lang, 1899-1938), Tsuboi Shigeji (Hồ Tỉnh, Phồn Trị, 1897-1975), Okamoto Jun (Cương Bản, Nhuận) cho ra đời tập san Akai to Kuro (Đỏ và Đen)[34]. Tsuboi Shigeji đi từ chủ nghĩa vô chính phủ qua chủ nghĩa cộng sản nhưng ông bị phê phán v́ trong thời chiến, ông có những tác phẩm hợp ư chính quyền đương thời. Các nhà thơ vừa kể đều có điểm chung là từ khước những giá trị cũ. Không những thế, các thành viên của Aka to Kuro c̣n đi đến chỗ đấu tranh chính trị cho phong trào vô chính phủ, có lẽ v́ không thoả măn với những gặt hái trên mặt văn học. Takahashi Shinkichi (Cao Kiều, Tân Cát, 1901-87) Nhà thơ và b́nh luận, sinh ở Konaka.ura trên đảo Shikoku. Thơ ông dựa vào hai nguồn: tư tưởng phái thiên Lâm Tế (Rinzai) và chủ nghĩa Đa đa Âu Châu. Từ năm 1920, ông đă t́m ra tính tương cận giữa hai luồng tư tưởng và những t́m kiếm văn học trong chiều hướng đó cô đọng lại trong tác phẩm Dadaisuto Shinkichi no Shi “Thơ của Shinkichi, người theo phái Đa-đa” (1923). Trước chiến tranh, ông có tư tưởng hư vô (nihilism), tin tưởng vào sức mạnh của cái “vô nghĩa” (non sense) và tiếng cười. Nhưng trong những năm về sau, tương ứng với thời hậu chiến, tinh thần phản kháng có tính cách hư vô đă nhường chỗ cho một thái độ khiêm tốn hơn khi ông chú trọng vào ư nghĩa của vũ trụ có mặt trong những vật thể bé nhỏ, tầm thường nhất. Ông đă nhân đó cho ra đời một loạt tác phẩm như Dôtai “Tượng bán thân” (1956), Suzume “Chim se sẻ” (1966), Zanzô “Tàn ảnh” (1969) và các tập b́nh luận Shi to Zen “Thiền và cái chết” (1969), Dada to Zen “Đa-đa và Thiền” (1980).
TIẾT IV: THI CA THỜI SHÔWA TIỀN CHIẾN ( 1926-45): Tiết này mở đầu bằng cách tŕnh bày những biến chuyển của thơ vào đầu thời Shôwa và mối liên quan của nó với thơ hiện đại. A) Thế nào là thơ hiện đại ? Từ “thơ hiện đại” (modern poetry) có thể hiển theo hai nghĩa: một là thơ nói về thời điểm người ta đang sống, hai là thơ của thời hiện đại tức là sau trận thế chiến thứ hai (hoặc ngược lên đầu thời Shôwa, khoảng năm 1926). Quan điểm “thơ hậu chiến (1945) là thơ hiện đại lư ra dễ chấp nhận hơn cả v́ sau chiến tranh, trên thực tế đă có nhiều chứng cứ cho thấy thơ đă thực sự đổi mới chứ không phải đổi mới theo một sự thay đổi niên hiệu như luận điểm coi cái mốc Taishô -Shôwa (1926) là giao điểm lịch sử của thơ hiện đại. Tuy vậy, như đă nói ở trên, để chuẩn bị cho cuộc hiện đại hoá ấy, từ đầu thời Shôwa đă có sự thoát ly thơ cận đại bằng cách sử dụng văn nói trong thơ như trường hợp của Hagiwara Sakutarô mà các tác phẩm chủ yếu ra đời giữa quảng Taishô 6 (1917) và Shôwa 9 (1934). Cùng một lúc là sự phủ nhận những giá trị và đề tài của người làm thơ thời trước. Do đó, tuy không có sức thuyết phục cho lắm, chúng tôi muốn dành từ “ thơ hiện đại ” để gọi thơ bao gồm từ đời Shôwa tiền kỳ (1926 trở đi) và “ thơ hiện kim ” như thơ của thời hậu chiến (Shôwa hậu kỳ) cho đến gần đây (từ 1945 trở đi). Nhưng cho dù muốn gọi nó là ǵ đi nữa, có thể nói gọn trong một câu là từ thời Meiji, thi ca Nhật Bản đă trải qua ba giai đoạn: từ Meiji đến giữa Taishô, từ Taishô đến ngày thất trận và từ đó trở đi. B) Đặc điểm của thi ca Nhật Bản thập niên 1930 (đầu đời Shôwa) : Những nhà thơ Nhật Bản thời Taishô như Hagiwara Sakutarô hay Miyazawa Kenji hoạt động một cách độc lập và tên tuổi của họ không tự động gắn bó với phe nhóm nào. Thế nhưng các nhà thơ khoảng đầu đời Shôwa (1928-41) thường có khuynh hướng tụ họp lại thành từng nhóm. Ta thấy có 6 nhóm tiêu biểu như sau đây : 1-Nhóm tạp chí Shi to Shiron “ Thơ và Bàn Về Thơ ” (1928-33) đặc biệt dính líu với trường phái duy hiện đại (Modernism). Tạp chí này sẽ được tiếp nối bởi các tạp chí Shihô “ Phương Pháp Thơ ” (1934-35), tuy những người chủ trương vẫn thân thiết với các nhà thơ siêu thực nhưng đă mở rộng về phía chủ nghĩa trí thức Anh. Sau đó, tờ này sẽ được tiếp nối bằng tạp chí Shinryôdo “ Lănh Thổ Mới ” (1937-41). Người chủ trương nhóm này là Haruyama Yukio (1902-1994), một chủ bút rất sung sức với các cộng sự viên tên tuổi như Kitagawa Fuyuhiko, Miyoshi Tatsuji, Nishikawa Junzaburô và Anzai Fuyue (1898-1965). Những nhà thơ Tây Phương được họ yêu thích là André Breton, Paul Valéry, T.S. Eliot, Louis Aragon và Erza Pound. 2-Nhóm tạp chí Shi, Genjitsu “ Thi ca, Hiện Thực ” bắt đầu hoạt động khi Kitagawa Fuyuhiko (1900-90) và Miyoshi Tatsuji tách ra khỏi Shi to Shiron để lập ra nó. Shi, Genjitsu cho rằng Shi to Shiron quá phụ thuộc vào Tây Phương. Ngoài ra, thêm một lư do chính nữa là họ muốn có một chỗ để tŕnh bày quan điểm nghệ thuật Mác-xít của họ và thí nghiệm thi ca vô sản. Tạp chí Shi.Genjitsu không phải là cơ quan đầu tiên chủ trương thi ca vô sản. Năm 1903 đă xảy ra việc tuyển tập Shakaishuugi Shishuu “ Tập thơ chủ nghĩa xă hội ” của Kodama Kagai (Nhi Ngọc, Hoa Ngoại, 1874-1943) bị tịch thâu. Vào năm 1920, tuyển tập Donzoko de Utau “ Hát dưới đất đen ” ra đời và nhờ đó, tên tuổi của nhà thơ “ xă hội ” Shirotori Seigo (1890-1973) được nhiều người biết đến. Một tổ chức văn học khuynh hướng xă hội mang tên Zen Nihon Musansha Geijutsu Renmei “ Liên Minh Văn Học Vô Sản Toàn Nhật Bản ” với cơ quan ngôn luận Puroretaria Shi “ Thơ Vô Sản ” cũng đă xuất hiện. Trong nhóm ấy có một nhân vật nổi bật : Nakano Shigeharu. 3-Nhóm Shiki (Tứ Quí, 1934-44) và khuynh hướng trữ t́nh hiện đại : Miyoshi Tatsuji, Maruyama Kaoru (1899-1974), Hagiwara Sakutarô, Murô Saisei, Nakahara Chuuya, Tachihara Michizô. 4-Nhóm Nihon-Roman (Phái Lăng Mạn Nhật Bản) của Ando Tsuguo với cơ sở lư luận của Kobayashi Hideo (1901-83) và Yasuda Yojuurô (1910-81). Về văn có Dazai Osamu, Kamei Katsu.ichirô, Jinbo Kôtarô, Tanaka Katsumi (sinh năm 1911) và Itô Shizuo (1906-53). 5-Nhóm Rekitei (Lịch Tŕnh) và khuynh hướng tôn trọng bản sắc cá nhân với Kusano Shinpei (1903-88), Takahashi Shinkichi, Nakano Chuuya, Miyazawa Kenji, Yagi Juukichi (1898-1927) Kaneko Mitsuharu (1895-1975) . 6-Các nhà thơ độc lập, khó xếp hạng : Kitazono Kazue (1902-78), Murano Shirô (1901-75), Yoshida Issui (1898-1973). Những khuynh hướng thơ này đă hoạt động trong khoảng thời gian gọi là “ Taishô Demokurashi ” (dân chủ đời Taishô, thập niên 1930) mà không khí c̣n khá dễ thở cho đến khi gọng ḱm kiểm duyệt kẹp chặt tất cả lại kể từ năm 1941. Riêng tạp chí Shi, Genjitsu vắn số hơn, chỉ sống được mỗi một năm. Nó bị đóng cửa vào tháng 6/1931. Trong giai đoạn thế giới đại chiến thứ hai, cách nh́n và cách sáng tác của người làm thơ khi trực diện với cuộc chiến là một vấn đề hết sức quan trọng. Takamura Kôtarô, Miyoshi Tatsuji, Itô Shizuo (Y Đằng, Tĩnh Hùng, 1906-1953) và một số người khác đă làm thơ ca ngợi chiến tranh. Ngược lại, Ono Tôzaburo (Tiểu Dă, Thập Tam Lang, 1903-1996) qua thi tập Ôsaka (1939), đă mượn việc miêu tả phong cảnh để tố cáo chiến tranh. Ông c̣n làm thơ để chống lại những bất công xă hội. 1) Nhóm thứ nhất : Khuynh hướng duy hiện đại (Modernism) và siêu thực (Surrealism) Trường phái siêu thực Nhật Bản đă thoát thai từ phái vị lai (Futurism) của Hirato Renkichi và phái Đa-đa (Dadaism) của Takahashi Shinkichi. Họ theo chủ nghĩa mô- đéc [35]phủ nhận quan điểm và h́nh thức thơ đă có sẵn. Đi xa hơn, trường phái siêu hiện thực[36] c̣n xem nghệ thuật phải được giải phóng từ mọi ràng buộc về phương pháp đă có và phải được thành lập trở lại nhờ ở trí tưởng tượng tự do và khả năng trừu tượng của người làm nghệ thuật. Trong những năm 1930, cùng với thi ca vô sản, trường phái nầy được thịnh hành hơn cả. Tạp chí thơ Á (A) tụ họp những nhà thơ như Anzai Fuyue (An Tây, Đông Vệ), Kitagawa Fuyuhiko (Bắc Xuyên, Đông Ngạn, 1900-1990), Miyoshi Tatsuji (Tam Hảo, Đạt Trị, 1900-1964) để chống lại loại thơ dài ḍng luộm thuộm của trường thơ dân chúng, chủ trương làm thơ ngắn (đoản thi) và thơ tản văn kiểu mới. Lại c̣n Nishiwaki Junzaburô (Tây Hiếp, Thuận Tam Lang, 1894-1982) du học từ Anh trở về, sáng lập nhóm thơ siêu thực. Người tụ họp được hai nhóm nầy với nhau là Haruyama Yukio (Xuân Sơn, Hành Phu, 1902-94). Bọn họ đồng ư cho ra mắt tạp chí Shi to Shiron “Thơ và luận về thơ” (1928). Thế nhưng khi báo ra đời, bất măn v́ Haruyama chỉ nghe theo Nishiwaki khi định đường lối biên tập cho tờ báo nên nhóm cộng tác viên như ông Kitagawa vốn có khuynh hướng hiện thực đă bỏ đi và lập ra tờ báo mới mang tên Shi. Genjitsu “Thơ. Hiện Thực” (1930).Về tác phẩm thơ tản văn mới th́ có Sokuryôsen “Thuyền Đo Đạc” (1930) của Miyoshi Tatsuji, thơ siêu thực có Ambarvalia “Lễ Thu Hoạch” (1933) của Nishiwaki Junzaburô, thơ tản văn mới và đoản thi lại có Gunkan Mari “Chiến hạm Mari”(1929), Sensô “Chiến Tranh”(1929) của Kitagawa Fuyuhiko. a) Miyoshi Tatsuji (Tam Hảo, Đạt Trị, 1900-1964) Miyoshi Tatsuji trước làm thơ hiện thực, sau đổi qua cổ kính. Thuở nhỏ cha muốn cho đi học quân sự để thành sĩ quan nhưng ông lại yêu thơ. Xung khắc với gia đ́nh, bỏ nhà ra đi. Chơi thân với các bạn học là Hagiwara Sakutarô và Maruyama Kaoru. Vào học văn chương Pháp ở Đại Học Đông Kinh, gặp gỡ Kobayashi Hideo và Kajii Motojirô. Lập tờ Aozora “Trời Xanh” (1926) và đăng thơ đó đây. Ông đă viết luận văn tốt nghiệp về tác phẩm Sagesse “Khôn Ngoan” của Verlaine lại dịch tập thơ tản văn “Nỗi buồn u uất ở Paris” (Le Spleen Parisien) của Baudelaire năm 1929. Ông đă tham gia thành lập tờ Shi to Shiron “Thơ và lư luận về thơ” (1928), tạp chí thơ khuynh hướng duy hiện đại rồi xuất bản Sokuryôsen “Thuyền Đo Đạc” (1930), một tập thơ trữ t́nh. Khởi đầu làm thơ tự do như trong “ Thuyền Đo Đạc ”, ông đă trở về với thơ cổ kính, thơ 4 hàng thấy trong “ Nam Song Tập ” , rồi sau đó lại làm thơ tự do một lần nữa với Rakuda no kobu ni matagatte “ Hăy leo lên bướu lạc đà ” Những bài thơ làm trong giai doạn đầu pha trộn hai ḍng thơ cũ và mới, ví dụ như bài Ubaguruma “Chiếc Xe Nôi” dưới đây: Mẹ ơi, (Ubaguruma “Chiếc Xe Nôi”, 1926, thơ Miyoshi Tatsuji) C̣n đây là mấy vần thơ viết theo văn xuôi (tản văn) của Miyoshi trong “Thuyền Đo Đạc”: “Biển, biển xa ơi….Ta viết biển lên trên mặt giấy. Biển ơi, trong chữ viết của chúng ta, trong ḷng ngươi đă có mẹ rồi[38]. Và mẹ ơi, trong tiếng Pháp, ḷng mẹ cũng đă ngầm chứa biển[39]” Sau khi cho ra đời Nansôshuu “Nam Song Tập” và Kankashuu “Nhàn Hoa Tập”, ông cộng tác với nhóm Shiki của HoriTastuo, vừa muốn thừa kế thi phong truyền thống, vừa muốn phục hưng gịng thơ trữ t́nh.Thời hậu chiến, tác phẩm Rakuda no kobu ni matagatte “Hăy leo lên bướu lạc đà” (1953) của ông được đánh giá cao và nhận giải thưởng của Viện Nghệ Thuật Nhật Bản . Miyoshi trước theo con đường hiện thực, sau trở về làm thơ cổ kính. Bị phê phán nặng nề thời hậu chiến v́ thái độ sáng tác trong chiến tranh (1941-45). Chẳng hạn như ông đă reo mừng chiến thắng khi quân Nhật chiếm được Singapore hay nổi giận v́ quân địch đang tiến vào sát đất Nhật. Đă thế ông c̣n ngoan cố không chịu thay đổi lập trường, hay tự phê như Takamura Kôtarô đă làm. Có thể một phần do mặc cảm tội lỗi đă không vào quân đội để trở thành sĩ quan như ước vọng của cha ḿnh. Chính ông từng trích đẫn câu thơ nổi tiếng “ Quốc phá sơn hà tại ” (Nước nhà mất, núi sông c̣n) của Đỗ Phủ trong Yokobue “ Sáo Ngang ” (1945) để khẳng định t́nh cảm “ mất nước ” của ḿnh và cũng để chứng tỏ ḷng kiên quyết muốn xây dựng lại xứ sở : Những bài thơ của tôi chỉ là
cái thành bằng cát, Không nản ḷng, tôi lại cứ
xây, (Suna no Toride “ Cái thành bằng cát ”, 1946, thơ Miyoshi Tatsuji) Tuy nhiên, nếu gác qua việc phê phán lập trường chính trị -dĩ nhiên là rất đáng trách- mà chỉ bàn về những đóng góp của ông đối với thi ca th́ rơ ràng là ông không chỉ thay đổi nội dung thơ mà c̣n thay đổi cả h́nh thức thơ Nhật Bản. b) Nishiwaki Junzaburô (Tây Hiếp, Thuận Tam Lang, 1894-1982) : Người tỉnh Nagata, đă định theo hội họa nhưng đổi ư. Sau khi tốt nghiệp khoa kinh tế tài chánh ở Đại Học Keiô th́ ở lại trường dạy học. Thích thơ kiểu duy hiện đại của Hagiwara Sakutarô trong “Sủa Trăng” nên sau khi du học Đại Học Oxford bên Anh (1922-25) về và trở thành giáo sư Keiô, đă tham gia tạp chí thơ Shi to Shiron “Thơ và luận về thơ”. Năm 1925, xuất bản tập thơ Spectrum “Quang Phổ” viết bằng tiếng Anh, năm 1933 xuất bản tập thơ nhan đề Ambarvalia (chữ La Tinh có nghĩa là Lễ Thu Hoạch tế nữ thần nông nghiệp Ceres, của người ngoại đạo) và được Sakutarô cũng như Murô Saisei khen tặng. Sau đó, ông chuyển qua khuynh hướng siêu thực ( theo lối Yvon Goll, André Breton) như thấy trong Tabibito Kaerazu “Người lữ khách không về” (1947), Kindai no guuwa “Ngụ ngôn cận đại” (1953) và Andromeda (1955). Ông chịu nhiều ảnh hưởng Tây Phương. Bài Ame “Mưa” sau đây ví trận mưa rào vùng Địa Trung Hải như những nữ thần đang đi diễn hành, có lẽ là phong cảnh mùa hè ở Roma. So sánh những giọt mưa với những nữ thần là một sự so sánh khác thường, như thể tác giả muốn “phá bỏ liên hệ nhân quả giữa h́nh ảnh và sự liên tưởng về nó”, một thủ pháp của phái siêu thực, như theo lời của chính Nishiwaki. Ngọn gió nam đă đưa những nữ
thần dịu dàng mềm mại trở về, (Ame “Mưa”, 1927, trong Ambarvalia,”Lễ Thu Hoạch”, 1933) Thời chiến, Níhiwaki không cầm bút, chỉ đọc sách cổ. 2) Nhóm thứ hai: Ḍng thơ vô sản (Puroretaria): Các thế lực của chủ trương vô chính phủ lần hồi bị thay thế trên thi đàn bằng thế lực thiên về chủ nghĩa cộng sản. Những nhà thơ có hoạt động ngấm ngầm trong thời kỳ nầy có Nakano Shigeharu (Trung Dă, Trọng Trị), Ono Tôsaburô (Tiểu Dă Thập Tam Lang), và Oguma Hideo (Tiểu Hùng, Tú Hùng). Thế nhưng từ năm 1933 khi Kobayashi Takiji bị cảnh sát tra tấn đến chết, ḍng thơ vô sản đă biến mất khỏi thi đàn. Nakano Shigeharu (Trung Dă, Trọng Trị, 1902-1979) thi sĩ
Nakano Shigeharu, có thời “chuyển hướng”, mang tâm sự đau khổ. C̣n Nakano Shigeharu từ ngày trên ghế trường đại học (khoa văn chương Đức Đại Học Tôkyô) đă hoạt động trong một tổ chức cách mạng. Buổi đầu ông chịu ảnh hưởng thơ trữ t́nh của Murou Saisei (Thất Sinh, Tê Tinh, 1889-1962) nhưng sau đă trở thành một nhà thơ puroretaria có tiếng. Sau khi tuyên bố “chuyển hướng” (tenkô), theo ông nghĩa là “tạm từ bỏ đấu tranh chính trị chính diện”, dưới mắt những người khác là chấp nhận “hồi chánh” hay “bỏ đảng”, ông vẫn tiếp tục làm văn nghệ trong những điều kiện khó khăn với tâm t́nh phức tạp. Sau đây là đoạn đầu bài Uta (Hát) in lần đầu tiên trong tạp chí Roba “Con Lừa” (ra đời năm 1926), thơ của Nakano Shigeharu, thời c̣n đầy tính chiến đấu: “Xin người đừng hát, Một đoạn thơ nữa có tính trữ t́nh viết vào khoảng năm 1928-29 nói về cảnh tiễn đưa các người lao động Triều Tiên bị trục xuất về nước. Shin ơi, chào anh nhé! Thôi chào Li nhé! (Ame no furu Shinagawa eki “Mưa trên ga Shinagawa”, 1928-29, thơ Nakano Shigeharu) Tập thơ đầu tay của Nakano in năm 1931 đă bị nhà nước tịch thu. Năm 1935, ông được phép xuất bản nhưng bị kiểm duyệt mất 23 trang. Chỉ đến năm 1947 nghĩa là sau chiến tranh, người ta mới cho ông đăng trọn vẹn. Kitagawa Fuyuhiko (Bắc Xuyên, Đông Ngạn, 1900-1990) Ông cũng là một nhà thơ và nhà lư luận văn học, có tư tưởng Mác-xít. Kitagawa trước đóng góp vào cải cách thi ca theo đường lối duy hiện đại, về sau chuyển qua con đường hiện thực xă hội. Trong tập thơ Sensô “Chiến tranh” ông có viết một bài thơ như sau: “Dù đem kim cương gắn vào mắt giả, hỏi được ǵ nào? Khoác huy chương trên xương trắng xanh rêu, có nghĩa ǵ đâu!” Ông đă đóng một vai tṛ quan trọng trong thơ tiền chiến ở địa vị chủ bút của tạp chí Shi, Genjitsu “ Thơ, Hiện Thực ”. 3) Nhóm thứ ba: Tạp chí Shiki (Tứ Quí) Khuynh hường trữ t́nh mới : Từ khi Kobayashi Takiji bị cảnh sát tra khảo đến chết vào năm Shôwa thứ 8 (1933) và các nhóm văn học vô sản bị đàn áp không nương tay, Nhật Bản đă bước vào thể chế chiến tranh.Năm ấy, Hori Tatsuo (Quật, Th́n Phu) lập ra tạp chí tư nhân Shiki (Tứ Quí) “Bốn Mùa”. Năm sau (1934), ban biên tập có thêm Miyoshi Tatsuji và nhà thơ biển Maruyama Kaoru (Hoàn Sơn, Huân, 1899-1974), tác giả tập thơ Ho, ranpu, kamome “Buồm. Đèn băo. Chim hải âu” (1932). Sau đó, lần lượt có sự tham gia của tác giả Yagi no Uta “Khúc hát của dê núi” là Nakahara Chuuya (Trung Nguyên, Trung Dă, 1907-1937), tác giả Waga hito ni ataeru aika “Khúc hát buồn ta gửi đến người” (1935) là Itô Shizuo (Y Đông,Tĩnh Hùng), tác giả Wasuregusa ni yosu “Ngỏ với lá cỏ quên”[40] là Tachihara Michizô (Lập Nguyên, Đạo Tạo, 1914-39). Như thế, Shiki hầu như là tạp chí của những người làm thơ mô - đéc đă khởi xướng tạp chí Shi to Shiron trước đây. a) Maruyama Kaoru (Hoàn Sơn, Huân, 1899-1974) Người tỉnh Ôta, thưở nhỏ theo cha dời chỗ ở nhiều nơi. Yêu biển. Vào học Trường Thương Thuyền ở Tôkyô nhưng bỏ dở. Sau đó quen biết Hagiwara Sakutarô, Kajii Motojirô và theo khoa Quốc Văn ở Đại Học Đông Kinh, đăng thơ trên các tạp chí thơ. Năm 1932, cho ra mắt tập thơ Hô. Ranpu. Kamome “Buồm. Đèn băo. Chim hải âu”. Cùng với Hori Tatsuo hoạt động ở tạp chí Shiki. Trở thành nhà giáo đại học nhưng chẳng bao lâu sau chiến tranh, bị xuất huyết năo, đột ngột qua đời. C̣n có các tập thơ Busshô shishuu “Tập thơ về sự vật” (1941), Kitaguni “Miền Bắc” (1946), Senkyô “Tiên Cảnh” (1948). b) Nakahara Chuuya (Trung Nguyên, Trung Dă, 1907-1937)
“Rimbaud Nhật Bản” là danh hiệu được dành cho Nakahara Chuuya Ông sinh ở suối nước nóng Yuda tỉnh Yamaguchi trong một gia đ́nh cha là quân y, theo đạo Công Giáo.Từ nhỏ đă giỏi tanka. Lên Kyôto học trung học, t́nh cờ mua được tuyển tập thơ Đa đa nhan đề Dadaisuto Shin.kichi no uta của Takahashi Shinkichi (Cao Kiều, Tân Cát, 1901-87) nên bắt đầu t́m hiểu chủ nghĩa Đa-đa. Tominaga Tarô (Phú Vĩnh, Thái Lang) giới thiệu ông tác phẩm các nhà thơ tượng trưng Pháp như Verlaine và Rimbaud. Năm 1925, ông cùng bạn gái đang sống chung là nữ diễn viên Hasegawa Yasuko lên Tôkyô nhưng Yasuko lại bỏ ông mà đi theo nhà phê b́nh Kobayashi Hideo. Ông nhạt với Đa-đa từ đó. Năm 1929, ông cùng Ôoka Shôhei ra tờ Hakuchigun “Một lũ ngốc” và theo học thêm tiếng Pháp ở Đại Học Ngoại Ngữ Đông Kinh. Năm 1933, ông kết hôn với Ueno Takako. Đồng thời, cũng t́m ra đủ phương tiện để cho ấn hành tác phẩm Yagi no uta “Khúc hát của dê núi”. Ông làm thơ đăng trên các tạp chí Shiki, Rekitei (Lịch Tŕnh), Bungakukai.Năm 1936, khi cậu con trai đầu ḷng chết, thần kinh ông suy nhược, quyết ư về quê. Tuy nhiên ông chỉ kịp giao bản thảo của Arishibi no Uta “Khúc ca ngày cũ” cho Kobayashi Hideo xong th́ mất ở nhà dưỡng bệnh vùng Kamakura, không kịp toại ước nguyện nh́n lại cố hương. “Khúc hát của dê núi” là tác phẩm duy nhất ra đời lúc ông c̣n sống, thấy rơ chịu ảnh hưởng phái tượng trưng của Verlaine. “Khúc ca ngày cũ” được in ra sau khi ông mất, bày tỏ ḷng luyến tiếc tuổi thơ , khóc đứa con mới chết và ca ngợi thế giới thần bí. Nakahara đă dịch khoảng 60 bài thơ của Rimbaud nghĩa là phân nữa số thơ ngoại quốc ông dịch. Cuộc sống bô-hê-miên của ông có lẽ cũng lấy cảm hứng từ cuộc đời của Rimbaud. Ông được xem như một “Rimbaud” Nhật Bản không những chỉ v́ nhân dáng với khuôn mặt lúc nào cũng trẻ thơ với mái tóc dài dấu dưới cái mũ phớt mềm, không thể xác nhận nổi là nam hay nữ. Ông là một nhà thơ tài năng đích thực của làng thơ Nhật bản hiện đại. Dưới đây là đoạn đầu trong bài thơ gồm năm đoạn trong đó ông tŕnh bày những tư tưởng hư vô, thù đời: Hăy nh́n ḱa, mảnh xương tôi đó! (Hone “Xương”, 1934, thơ Nakahara Chuuya) Nakahara mất năm 1937 v́ chứng sưng màng óc một năm trước khi tập thơ cuối cùng của ông mang tên Asihibi no Uta “Khúc hát về ngày cũ” ra đời. Sau đây là một bài thơ trích từ tác phẩm đó mang đề tài Giữa trưa Phong cảnh ṭa bin-đin Maru: Ô, tiếng c̣i hụ báo mười hai giờ trưa, tiếng
c̣i, tiếng c̣i! (Shôgo”Giữa trưa”, trong Asihibi no Uta “Khúc hát về ngày cũ” 1938, thơ Chuuya) c) Tachihara Michizô (Lập Nguyên, Đạo Tạo, 1914-39)
Nhà thơ tài cao mệnh yểu Tachihara Michizô Thêm một nhà thơ sớm bộc lộ tài thơ và mệnh yểu như Nakahara Chuuya. Đó là Tachihara Michizô. Ông thích thơ của Miyoshi Tatsuji trong “Nam Song Tập”nên đi theo con đường sáng tác. Nhân đó quen biết Hori Tatsuo. Năm vào học ban Kiến Trúc ở Đại Học Đông Kinh t́nh cờ ghé qua cao nguyên Shinano Oiwake, từ đó mảnh đất này có một ư nghĩa đặc biết đối với ông. Đăng Muragurashi “Cuộc sống trong làng” trên tạp chí Shiki (1934) và vào năm tốt nghiệp đă cho in hai tập Wasuregusa ni yosu “Ngỏ với lá cỏ quên” và Akatsuki to yuube no shi “Thơ của b́nh minh và hoàng hôn” (1937). Ông cũng là một nhà kiến trúc tài ba, từng đoạt giải thưởng chuyên môn nhưng vừa hành nghề chẳng bao lâu th́ chẳng may lâm bệnh và ngă gục trên đường du lịch ở Nagasaki. Mất lúc mới có 24 tuổi, năm ấy ông vừa nhận giải Nakahara Chuuya, một định mệnh! Ông hay làm thơ trữ t́nh kiểu sonnet với những chuỗi 4 câu 4/4/3/3 chữ). 4) Nhóm thứ tư: Khuynh hướng Tân Lăng Mạn Nhật Bản: Hai nhà phê b́nh Kobayashi Hideo (1908-83) và Yasuda Yojuurô (Bảo Điền, Dữ Trùng Lang, 1910-81) là những người đă có ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ theo khuynh hướng này. Kobayashi đóng vai tṛ truyền bá văn chương hiện đại Pháp đến Tominaga Tarô và Nakahara Chuuya nhưng c̣n ảnh hưởng đến những người đi sau hai ông này, trong lănh vực thi văn, hội họa lẫn âm nhạc. C̣n Yasuda th́ qua Kogito “Tư Duy”(1933-44) và Nihon Rôman.ha “Trường phái lăng mạn Nhật Bản” (1935-38), hai tạp chí mà ông biên tập, cùng với các tạp chí Shi, Genjitsu và Shiki, đă hướng thi ca Nhật Bản trở về dân tộc sau khi nó đă phiêu lưu quá xa với Tây Phương. Có thể nói đó là phản ứng nội địa chống lại khuynh hướng ngoại lai vậy. Nếu trong lănh vực tiểu thuyết, các nhà văn ngă về chủ nghĩa Nhật Bản (Japanism) là Kamei Katsu.ichirô và Dazai Osamu (trước đây họ là những nhà văn cánh tả nhưng đă “chuyển hướng”) th́ về mặt thi ca, họ là Jinbô Kôtarô (sinh năm 1905), Tanaka Katsumi (sinh năm 1911) và Itô Shizuo (1906-53). Những người này đă tôn vinh Nhật Bản và loại trừ những tư tưởng khác, tỏ ra thù hận đối với những ǵ không Nhật Bản. Ḷng ái quốc cực đoan của họ đă làm cho thi ca của họ lệch lạc và xuống cấp. Sau 1945, thời thế đổi thay, họ bị ch́m dần vào quên lăng. Vào năm 1941, Jinbô Kôtarô, v́ muốn kết hợp văn chương chủ nghĩa lăng mạn Đức với thi ca trữ t́nh Nhật, đă cho in một tuyển tập thơ Phát Xít Đức và đă cho ra đời một tập thơ của riêng ḿnh. Riêng Tanaka Katsumi th́ biểu lộ hận thù đối với người Anh và người Mỹ một cách rơ rệt. Itô Shizuo (Y Đông, Tĩnh Hùng, 1906-53). Ông người Nagasaki, tốt nghiệp Đại Học Kyôto, đă đóng góp cho hai tạp chí Shiki và Nihon Roman.ha. Thơ ông có phong cách lăng mạn và bi tráng. Qua tập thơ Haru no Isogi “Mùa xuân xốc tới”, (1943) ông đă muốn truyền đạt lại cho đàn con đàn cháu “những t́nh cảm cao thượng khi nghe lời hiệu triệu của thiên hoàng hay tiếng tung hô hùng tráng của quân đội hoàng gia”. Có lẽ ông là nhà thơ tài năng nhất đă phục vụ chế độ phát xít. Tập Wa ga Hito ni atauru Aika “Khúc hát buồn thương gửi đến người” (1935) đă chứng tỏ tài năng của ông. Không những Yasuda Yojuurô mà cả những đàn anh tiếng tăm như Hagiwara Sakutarô cũng từng đánh giá cao tài năng ấy. Ảnh hưởng của các nhà thơ Đức, nhất là Rilke[41] và Holderlin[42] rất quan trọng đối với Itô Shizuo. Sau chiến tranh, ông ra tập thơ cuối cùng nhan đề Hankyô “Tiếng vọng”. Ông mất năm 47 tuổi v́ bệnh lao sau khi trải qua những khó khăn của thời chiến tranh và nhất là thời hậu chiến. 5) Nhóm thứ năm: Rekitei (Lịch Tŕnh) khuynh hướng tôn trọng bản sắc cá nhân: Nhóm thi nhân qui tụ chung quanh tạp chí Rekitei (ra đời năm 1935) gồm có Nakahara Chuuya đă nói ở trên và Kusano Shinpei như những cộng sự viên chính. Chủ trương của tạp chí là tôn trọng bản sắc cá nhân mọi người và không đóng khung trong một khuynh hướng nào đặc biệt. Có thể nói Miyazawa Kenji (1896-1933) nhân nhờ tạp chí này dành cho một số báo truy điệu mà được mọi người biết tới. Cánh theo khuynh hướng mô- đéc về sau đă lập ra tạp chí Shin Ryôdo (Tân lănh thổ) “Lănh thổ mới” với nhà thơ Murano Shirô (Thôn Dă, Tứ Lang), tác giả của Taisô Shishuu (Thể thao hi tập, 1929), theo chủ nghĩa Tân Tức Vật (Neue Sachlichkeit)[43] a) Kusano Shinpei (Thảo Dă, Tâm B́nh, 1903-1988) Người tỉnh Fukushima, miền bắc nước Nhật. Bỏ ngang Đại Học Keiô. Đến năm 1921, sang Trung Quốc tiếp tục việc học ở Đại Học Lĩnh Nam (Quảng Đông). Trước khi tốt nghiệp lại bỏ về nước và quen biết với Takamura Kôtarô từ dạo đó. Năm 1935, tham gia tạp chí Rekitei “Lịch Tŕnh” và trở thành nhân vật chủ chốt của nhóm, góp công đào tạo những nhà thơ trẻ. Ông là tác giả hai tập thơ Daihyaku kaikyuu (Đệ bách giai cấp, 1928) “Giai cấp thứ một trăm) và Kaeru (Oa, 1938) “Con ếch”, Fujisan “Núi Phú Sĩ” (1966).. Trong “Con ếch” ông sử dụng nghĩ âm từ tiếng ếch kêu để nói lên sức sống của những người thấp kém, một cung cách sáng tác có một không hai trong thơ Nhật. Có viết b́nh luận văn học Waga Kôtarô “Takamura Kôtaro, bạn tôi” (1949) và Wa ga Kenji “Miyamoto Kenji, bạn tôi” (1950). Về phương diện tư tưởng, ông theo khuynh hướng vô chính phủ. Điều đó giải thích tại sao các thành viên của tạp chí Rekitei không có một đường hướng chung nào cả. Họ tuyên bố đại diện cho nhiều khía cạnh của một xă hội. Rekitei dung túng cả những nhân vật lập dị nhất. b) Yagi Juukichi (Bát Mộc, Trùng Cát, 1898-1927) Ông người Tôkyô, học sư phạm và ra làm nghề giáo.Ông theo đạo Công Giáo và chịu ảnh hưởng của “nhà truyền giáo không cần giáo hội” Uchimura Kanzô.Yêu thơ Kitamura Tôkoku, Miki Rofuu và Murou Saisei cũng như b́nh luận về văn học tôn giáo của Kurata Hyakuzô (Thương Điền, Bách Tam, 1891-1943). Năm 1925, ra mắt tập Aki no Hitomi “Những ánh mắt mùa đông”. Sau đó là những tập thơ in sau khi ông mất như Maszushii shinto “Tín đồ nghèo” (1928), Kami wo yobô “Hăy gọi Chúa”(1950). Trong nhóm Rekitei, ông có một chỗ đứng riêng biệt với những vần thơ ngắn, tinh tế và mang màu sắc tôn giáo. c) Kaneko Mitsuharu (Kim Tử, Quang T́nh, 1898 -1975) Ông vừa là họa sĩ, nhà buôn đồ cổ và nhà thơ. Từ năm 1919, đă xuất bản Akatsuchi no ie “Căn nhà đất đỏ”. Sau đó qua Bỉ học nghề buôn đồ cổ và hiểu biết thêm về cách sống của người Tây phương, thơ của phái Thi Sơn[44] và ḍng thơ chủ nghĩa tượng trưng[45]. Không những thế, ông c̣n t́m hiểu thi ca của hai nước Bỉ và Pháp, đi từ Gautier tới Musset, Leconte de Lisle đến Emile Verhaeren Những năm 1920, sau khi xuất bản Kogane.mushi “Con bọ hung vàng” (1923) vợ chồng ông (bà là nhà văn, nhà thơ Mori Michiyo) sống ngao du trong nghèo túng ở Pháp và Đông Nam Á. Về Nhật, ông cho ra mắt Same “Cá mập” (1937) chỉ trích sự sa đọa trong chính trị và xă hội bằng những h́nh ảnh mạnh mẽ. V́ không phổ biến được những vần thơ chống đối của ḿnh dưới chế độ đàn áp, đă phải đợi đến hết chiến tranh mới cho in tam bộ tác (trilogy) gồm Rakkasan “Nhảy dù” (1948), Ga (Nga) “Con ngài”(1948) và Oni no ko no uta “Khúc hát của quỉ con” (1949). Thơ của ông pha trộn những từ b́nh dân thô tục lẫn từ bác học chứng tỏ kiến thức sâu rộng về ngôn ngữ và một sự bạo dạn trong lối diễn tả. Tuy phê b́nh những cái thối tha của xă hội nhưng ông là mẫu người tích cực và giọng thơ của ông chan ḥa ấm áp khi nói về những kẻ bị áp bức. Sau đây là một đoạn chính trong bài thơ mang tên Tôdai “Ngọn Hải Đăng” trong tập Same “Cá Mập”. Các anh không được phép nh́n sâu trong ḷng
trời Trong hơi ê-te, dính như chất nhầy, Mùi nồng của da thịt các vị thần như mùi
đồng nung, tỏa ra, Từ trên tầng sâu của bầu trời uy quyền vĩnh
viễn sẽ bước xuống Một cây nến trắng đơn độc, (Ngọn hải đăng”, thơ Kaneko Mitsuharu, 1937). Trong thời chiến, ông không những t́m cách giả bệnh để trốn lính mà c̣n thể hiện tinh thần đề kháng trong các tác phẩm, chúng đă được xuất bản sau chiến tranh như Rakkasan “Nhảy Dù” (1948) và Ga “Con ngài” (1948). Đó là một việc hiếm có khi ta biết rằng những nhà thơ hàng đầu thời đó đều uốn cong ng̣i bút để ca tụng chế độ hay ít nhất có tên trong tổ chức thân chính quyền mang tên Bungaku Hôkoku Kai (Văn Học Báo Quốc Hội). 6) Nhóm thứ sáu: Các nhà thơ khác: Đó là những nhà văn tương đối độc lập hay khó xếp loại với nhà thơ Kitazono Kazue, Yoshida Issui và Murano Shirô. a) Kitazono Kazue (1902-1978): Trong những năm 1930 được Erza Pound biết đến qua cái tên Kit Kat, ông là nhà thơ “có nhiều triển vọng và không thỏa hiệp” như một số nhà phê b́nh nghĩ. Thơ ông trừu tượng, thường là một chuỗi h́nh ảnh không có sự nối tiếp giữa chúng. Ông đă sáng lập và điều hành tạp chí VOU (một cái tên không có nghĩa ǵ đặc biệt) và điều khiển nó trong khoảng thời gian 1935-40, dầu thời thế không mấy thuận tiện cho nó. Tạp chí VOU sẽ là điểm xuất phát của nhiều tài năng thi ca hậu chiến. Không hẳn thích thơ trừu tượng một cách đặc biệt,nhưng các nhà thơ này đă cộng tác với VOU v́ t́m thấy sự thoải mái nơi ḷng nhiệt thành đối với thi ca của ông, nó không giống như nhiệt huyết thấy nơi các nhà thơ theo lư tưởng Nhật-Bản-trên-hết. Sau chiến tranh (1947), Kitazono Kazue và Nishikawa Junzaburô muốn làm sống lại VOU nhưng tạp chí này không c̣n được ái mộ như hồi thập niên1930. b) Yoshida Issui (1898-1973): Ông cũng là một khuôn mặt đơn lẻ của thi ca Nhật Bản hiện đại. Ông sống bằng nghề viết bài hát và truyện cho nhi đồng nhưng thơ và phê b́nh thơ của ông không trẻ con và đơn giản chút nào.Ban đầu, ông chịu ảnh hưởng của Miki Rofuu nhưng sau chuyển có màu sắc trữ t́nh và triết lư như thơ phái Thi Sơn. Tác phẩm đầu tay là tập Umi no Seibo “Thánh mẫu của biển” (1926) và sau đó là Raten Sôbi “Hoa hồng La-Tinh” (1950) trong đó có chùm thơ Hakuchô “Bạch Nga” gồm 15 bài thơ ba hàng. Tuy không được độc giả đại chúng lưu ư, các nhà b́nh luận lại đánh giá cao, xem như ông đă có những cống hiến lớn cho thi ca hiện đại, bên cạnh Nishikawa Junzaburô và Kaneko Mitsuharu. c) Murano Shirô (Thôn Dă, Tứ Lang, 1901-75): Ông sinh trong một gia đ́nh làm thơ, cha và hai anh đều là thi sĩ. Người Tôkyô, ông vào học Đại Học Keiô môn kinh tế tài chánh. Ông chịu ảnh hưởng của trường phái “Tân Tức Vật” (Neue Sachlichkeit) tức là trường phái mô tả ngoại giới một cách khách quan, cũng như thơ của Hagiwara Sakutarô trong tập Aoneko “Mèo Xanh”. Ông ra mắt tập thơ đầu tiên Chirei “Thần linh của đất” (1923) và sau đó là Shihen Jidai “Thời của Thi Thiên” (1924). Ông từng tham gia các tạp chí Shihô “Thi Pháp”, nối tiếp Shi to Shiron của phái duy hiện đại rồi Shin Ryôdo “Tân Lănh Thổ”. Có tập thơ ca ngợi vẻ đẹp của hoạt động thể thao mang tên Taisô Shishuu “Thể thao thi tập” (1939), nghiên cứu bản thân như trong Chuushô no Shiro “Cái thành trong tâm tưởng” (1954) Bôyôki “Truyện đuổi theo dê”[46] (1959). d) Hoạt động sáng tác thời Shôwa của Takamura Kôtarô: Takamura Kôtarô, nhà thơ đă thành danh từ thời Taishô, tiếp tục sáng tác trong giai đoạn Shôwa tiền chiến này và chủ đề của thơ ông vẫn gắn liền với người vợ yêu và là nàng thơ của ông, nữ họa sĩ Naganuma Chieko . Kôtarô và nàng thơ Chieko Từ 1931, bà bắt đầu có triệu chứng bệnh tâm thần rồi chết vào năm 1938. Ông đă bỏ rơi công việc trong một khoảng thời gian lâu, sau mới ra nổi tập thơ Chieko Shô “Chép về Chieko” (1941) để tưởng nhớ bà. Tập thơ có những bài như sau đây: Chieko nh́n những ǵ không ai thấy, Chieko đến những nơi không người đi, Chieko không c̣n nh́n ra tôi, Chieko giờ đây đă trút gánh khổ năo, Tôi nghe tiếng nàng lập đi lập lại lại gọi
măi tên tôi, (Aigataki Chieko “Chieko khó lường”, 1937, thơ Kôtarô) Chieko bảo ở Tôkyô không có bầu trời, (Câu chuyện ngây thơ, trong Chieko Shô, 1941, thơ Kôtarô) Thực ra, lúc này bà đă điên nặng, suốt ngày lang thang trên băi biến, nói chuyện với những con chim di và không c̣n nh́n ra chồng ḿnh nữa. Trong giai đoạn chiến tranh, ông vứt bỏ tất cả để chỉ làm thơ phục vụ chiến tranh, ca tụng “châu Á của người Á” và hùng hồn tiên đoán quân Đồng Minh sẽ thất bại. Thế nhưng sau khi Nhật thua trận, ông về ở vùng núi non Iwate, viết hồi kư tự phê về hành động của ḿnh. Ông có thi tập Chieko shô (Trí Huệ Tử Sao) “Thơ về Chieko”(1941) và Tenkei “Điển H́nh”, 1950) Trong tập Tenkei, ông có đính kèm một thiên tự truyện và kiểm thảo việc ḿnh làm, gọi nó là những điều “ngu muội” và trách chế độ đă đẩy cả dân tộc đi về một khoảng trống hoang vu phía trước.
TIẾT V: THI CA THỜI SHÔWA HẬU CHIẾN (1945-89): A) Thơ thời hậu chiến: Nishiwaki Junzaburô, Nomura Shirô, Miyoshi Tatsuji, Kaneko Mitsuharu và Kusano Shinpei tiếp tục hoạt động khi ḥa b́nh lập lại với sức làm việc không suy suyển. Tuy nhiên, bàn về thơ hậu chiến trước tiên bắt buộc phải đả động đến phong trào kiểm điểm lại kinh nghiệm trong thời chiến. Những người như Yoshimoto Takaaki (hay Ryuumei, Cát Bản Long Minh, sinh năm1924) và Ayukawa Nobuo (Chiêm Xuyên Tín Phu, 1920-86) đă lên tiếng phê phán thái độ a ṭng của những nhà thơ đă đóng một vai tṛ nào đó trong thời chiến (làm thơ ủng hộ chiến tranh quân phiệt). Sau đó là phải nói đến việc sử dụng kinh nghiệm thời chiến như chất liệu sáng tác khi đứng trước thực tế thời b́nh. Ayukawa đă tụ họp các thi hữu như Miyoshi Toyoichirô (Tam Cát Phong Thái Lang, 1920-1992), tác giả Shuujin (Tù Nhân) “Người Tù “ (1949), Tamura Ryuuichi (Điền Thôn, Long Nhất, 1923-1998), tác giả Yonsen no hi to yo “Bốn ngh́n ngày đêm” (1956), Kuroda Saburô (Hắc Điền, Tam Lang, 1919-1980), tác giả Hitori no onna ni “Gửi cho một người đàn bà” (1954) v.v… để cho ra mắt tạp chí Arechi vào tháng chín năm 1947. 1) Nhóm Arechi (Hoang Địa) “Đất Hoang”: phủ nhận xă hội: Các nhà thơ trong nhóm Arechi, sau khi đă chứng kiến cảnh tượng bi thảm của chiến tranh, cho rằng thế hệ của họ không thể sinh tồn trong một khung cảnh hoang tàn đổ nát. Nỗi buồn của họ là sẽ không c̣n được sống một cách trọn vẹn. Nhà nghiên cứu Donald Keene đă muốn liên kết h́nh ảnh đất hoang của Arechi với h́nh ảnh đất hoang trong The Waste Land (1922), tác phẩm của T.S.Eliot.[47] Nhóm Arechi xem như đă chán ghét chiến tranh từ khi biết về Âu Châu sau thế chiến thứ nhất chứ không phải đợi đến kinh nghiệm bản thân trong thế chiến thứ hai. Không những chỉ đến với TS Eliot, họ đă t́m ở nơi Auden[48], Spender [49]và C. Day Lewis[50] … sự hướng dẫn tinh thần nhằm nâng cao năng lực sáng tạo trong hoàn cảnh một xă hội chao đảo. Ngoài ra ông c̣n để lại Kyôjô no Hito “Người trên cầu” (!963) và Ayukawa Nobuo Chôsakushuu “Tập văn thơ của Ayukawa Nobuo” (1973). Trong bài “Người đàn ông đă chết” trích từ tập thơ cùng tên nói về người bạn tên M., một thi sĩ đă gục ngă trên chiến trường Miến Điện, ông đi đến kết luận: Ngày chôn anh, chẳng ai phát biểu bên mồ, ……………………………………………………… Cho dầu khi, Một ngày hôm qua đă xa xôi… (Shinda Otoko, “Người Đàn Ông Đă Chết”, 1947, thơ Ayukawa Nobuo) Người trên cầu! ……………………………… Người trên cầu! (Kôjô no Hito, “Người trên Cầu”, thơ Ayukawa Nobuo) Không c̣n ǵ sau chiến tranh ngoài t́nh cảm bất lực và hiếm muộn trong lời thơ, trong ngôn ngữ dùng để diễn tả. Ông viết: Một giọng nói không thành lời, (Khúc hát gửi cho sóng, cho gió và cho một người con gái, thơ Ayukawa Nobuo). b) Tamura Ryuuichi (Điền Thôn, Long Nhất, 1923-1998): Ông quê quán Tôkyô, tốt nghiệp khoa nghệ thuật Đại Học Meiji. Thời chiến bị động viên khi c̣n trên ghế nhà trường để vào lực lượng trừ bị của hải quân. Đă từng tham gia tạp chí thơ LE BAL và quen biết với Ayukawa Nobuo. Năm 1947, tham gia sáng lập tờ Arechi “Đất Hoang” và biên tập Arechi Shishuu “Tập thơ “Đất Hoang”(1951-58), nói lên ḷng ngưỡng mộ về văn minh cận đại và mối hoài nghi đối với văn minh hiện đại. “Thế giới ngày nay là một mảnh đất hoang tàn. Chúng ta càng theo đuổi tiến bộ khoa học bao nhiêu, chúng ta càng có thêm đ̣i hỏi vật chất và cuộc sống chúng ta càng bất hạnh”. Tác phẩm Yonsen no hi to yoru “Bốn ngh́n ngày đêm” của ông đánh mốc một chặng đường của Arechi ra đời năm 1956. Sau đó, ông c̣n cho ra mắt Kotoba no nai sekai “Thế giới không ngôn ngữ” (1962) và Shinnen no tegami “Bức thơ đầu năm”. Ông c̣n viết tiểu thuyết trinh thám và phiên dịch. Sau đây là một đoạn thơ ở cuối tập “Bốn ngh́n ngày và đêm” của Tamura Ryuuichi: Để viết dẫu chỉ một bài thơ, ……………………… Để viết được một bài thơ, Và chúng ta phải đi theo đường ấy! Trong bài thơ ông viết 11 năm (4000 ngày) sau khi chiến tranh kết thúc, ông cho rằng thi sĩ phải giết tất cả những t́nh cảm và thương hại thông thường để có thể t́m hiểu sự thật của một tiếng chim kêu run rẩy trên bầu trời, một tiếng trẻ khóc v́ đói và ánh mắt sợ hăi của một con chó khi nó nh́n và nghe được những ǵ ta không nghe và không thấy. Thi sĩ phải quên đi sự tưởng tượng và kiến thức dựa trên kư ức đông đặc để có cái nh́n mới mẽ, chưa hề bị ô nhiễm bởi ư tưởng và trật tự truyền thống. Người Nh́n Xa Trên trời, (Thơ Tamura Ryuuichi, 1956) Kitamura Tarô (Bắc Thôn, Thái Lang) Với bài thơ Bochi no Hito “Người từ nghĩa địa”, Kitamura có cái hân hạnh mở đầu tập thi tuyển của nhóm Arechi ra mắt năm 1951: Người nào đấy đang đập lên đường sắt? (Có bao nhiêu tấm bia mộ đă đổ và đẫm ướt sương lạnh buốt) Hắn chết, mắt nh́n lên với niềm hy vọng đă
rách bươm, (Bochi no Hito”Người từ nghĩa địa”, thơ Kitamura Tarô) c) Kuroda Saburô (Hắc Điền, Tam Lang, 1919-80): Người tỉnh Hiroshima, tốt nghiệp khoa kinh tế Đại Học Tôkyô. Yêu thích tư tưởng và thi ca Tây Phương. V́ làm việc ở In đô nê xia, lúc đó bị quân Nhật chiếm đóng, đă có dịp sinh sống ở Java cho đến khi Nhật thất trận. Tham gia tạp chí Arechi và cho ra đời các tác phẩm nói về kỹ niệm thời chiến như Ushinawareta bohimei “Bài minh trên bia mộ bị quên lăng” (1955), Jidai no shujin “Kẻ tù của thời đại” (1965). Có thi tập Hitori no onna ni “Gửi một người đàn bà” (1954) một tập thơ t́nh về người sẽ là vợ ḿnh và Chiisana Yuri to “Ngơ với bé Yuri” (1960) ghi chép những trao đổi của tác giả với cô con gái đầu ḷng. Nói chung ngôn ngữ thơ ông b́nh dị, dễ hiểu, nhiều thí dụ và chủ đề chỉ liên quan đến những mẩu sinh hoạt thường ngày. Sau Arechi, hai nhà thơ Sekine Hiroshi (Quan Căn, Hoằng, 1920-94) và Hasegawa Ryuusei (Trường Cốc Xuyên, Long Sinh, sinh năm 1928) ra tờ Retto (Liệt Đảo,1952) “Quần đảo Nhật Bản”. Thế rồi Tanikawa Shuntarô ( Cốc Xuyên, Tuấn Thái Lang, sinh năm 1931) và Ôka Makoto (Đại Cương, Tín, sinh năm 1931) ra tờ Kai (Trạo,1953) “Mái Chèo”… Đó là thời điểm tái phát xuất của loại “tạp chí do những nhà thơ cùng chung chí hướng” (dôjin zasshi) chủ trương. 2) Nhóm Rettô (Liệt Đảo) “Quần Đảo”: thi ca dấn thân cánh tả Tạp chí Rettô xuất hiện trong giai đoạn 1952-55 có đặc điểm là muốn dấn thân để thực hiện lư tưởng hiện thực xă hội nhưng với kỹ thuật của phái siêu thực. Người cầm đầu nhóm này là Sekine Hiroshi (1926-1984). Ông cho rằng người làm thơ cánh tả hậu chiến phải tránh vết xe đổ của những nhà thơ vô sản thời tiền chiến vốn “tầm thường về ấu trĩ không những trong quan điểm chính trị mà cả về kỹ thuật làm thơ”. Trong Fuyu no Tabi “Lữ hành mùa đông” chẳng hạn, Kuroda Kio (1926-84) một nhà thơ thuộc nhóm Retto đă ví quần chúng lao động như một đàn cá đă thoát ra hỏi vùng nước băng giá của một cái hồ giữa mùa đông để nương theo sóng ra đi, lại bị một lũ kư sinh trùng bám theo. Tuy h́nh ảnh đó không lộ liễu như khi những nhà thơ vô sản tiền chiến nói về cuộc chiến đấu của những người công nhân chiến đấu chống chế độ tư bản nhưng cũng không phải là không có ngụ ư. Trong số những người có đóng góp cho Retto, có Tanigawa Gan (1923-96), người mà cách diễn đạt c̣n phức tạp hơn. Ông được xem như một nhà thơ tượng trưng mới, đă dùng thi ca để ngầm nói lên t́nh cảm cách mạng. C̣n Ando Tsuguo (sinh năm 1919), tuy chỉ là một cảm t́nh viên của nhóm, cũng đă biết phối hợp ư thức hệ cánh tả của ḿnh với kiến thức sâu sắc của cá nhân ông về các h́nh thức thi ca cổ điển Nhật Bản, nhất là haiku của Bashô và Buson cũng như thi ca Pháp. Thơ ông ḥa hợp được cả hai ḍng thơ và dù là người không đồng ư với lập trường của ông, ai cũng phải nh́n nhận là thơ chính trị như ông viết không phải lúc nào cũng tầm thường. 3) Nhóm Kai (Mái Chèo): a) Ibaragi Noriko (Tỳ Mộc, Noriko, sinh năm 1926): Nhà thơ nữ Ibaragi Noriko, nối tiếp được truyền thống của Yosano Akiko. Bà người Ôsaka, học trường chuyên môn về Y Dược, trước theo ngành kịch nhưng sau khi kết hôn th́ chuyên về thơ. Tên hiệu Ibaragi, như bà cho biết, được đặt theo một tuồng Kabuki của Kawatake Mokuami. Năm 1953, bà cùng Sano Yô sáng lập tạp chí Kai. Năm 1955, bà xuất bản tập thơ Kaiwa “Đối thoại” dùng thi ca nói về những sự kiện xăy ra trong cuộc sống hàng ngày với ư định phê b́nh xă hội. Bà có cái nh́n sắc bén và trong sáng. C̣n có các thi tập Mienai haitatsujin “Người phát thư vô h́nh” (1958) phản đối chiến tranh đă cướp đi những năm tháng đẹp nhất của con người, Chinkonka “Khúc hát chiêu hồn” (1965) nhân cái chết của Mai Lan Phương, kép hát giả gái nổi tiếng người Trung Quốc, nhiều tập b́nh luận và tập thơ dịch thơ Hàn Quốc. Những năm tháng khi tôi đẹp nhất, (Mienai Haitatsujin “Người phát thư vô h́nh”, 1958, thơ Ibaragi Noriko) Đừng trách người khác nhé, (Jibun no kanjusei kurai “Có mỗi tấm ḷng biết xúc cảm của riêng ḿnh”, 1977, thơ Ibaragi Noriko) Những con chim hát lên lời chim, (Mado, Cửa Sổ, thơ Ibaragi Noriko) b) Ôoka Makoto (Đại Cương, Tín, sinh năm 1931): Cha ông (Hiroshi) đă là nhà thơ thuộc trường phái của Kubota Utsubo (Oa Điền, Không Tuệ) và là người cầm đầu tạp chí thơ Bodaiju (Bồ Đề Thụ). Ông làm thơ từ nhỏ, sau theo học ban Quốc Văn Đại Học Đông Kinh. Trên ghế nhà trường đă quen với Hino Keizô, Sano Yô và lập tờ Gendai Bungaku “Văn Học Hiện Đại”. Sau ông ra làm báo Yomiuri trong mười năm. Tham gia tạp chí Kai “Mái Chèo” với Tanikawa Shuntarô và Shibaragi Noriko, Kawasaki Hiroshi. Lại cùng Iijima Kôichi lập hội nghiên cứu về chủ nghĩa siêu thực. Tác phẩm đầu tay nhan đề Kioku to Genzai “Kư Ức và Hiện Tại” (1956) được chú ư v́ phong cách mới mẽ chưa từng có trên thi đàn hậu chiến. Sau ông cùng các bạn sáng lập tạp chí Wani, tiếp tục sáng tác thơ và lên tiếng trên lănh vực phê b́nh. Đă xuất bản hai tác phẩm quan trọng, một về phê b́nh, một về nghiên cứu. Đó là Chôgenjitsu to jojô “Siêu hiện thực và trữ t́nh” (1965) và Ki no Tsurayuki (1971) nói về nhà thơ và nhà biên tập thơ thời Heian. Ông là người có kiến thức uyên bác và một tâm hồn nhạy cảm. Đă hoạt động rất nhiều cho nghệ thuật hiện đại. c) Tanikawa Shuntarô (Cốc Xuyên, Tuấn Thái Lang, sinh năm 1931):
Tanikawa Shuntarô với ḍng thơ tươi mát, đầy sinh khí Con trai triết gia Tanikawa Tetsuzô, v́ yêu thơ nên được cha giới thiệu cho bạn ḿnh là Miyoshi Tatsuji. Năm 1952, ông xuất bản Nijuuokunen no kodoku “Hai tỷ năm cô độc” và năm sau cho ra mắt Rokujuuni no sonetto “Sáu mươi hai đoản ca”. Giọng thơ tươi mát, tràn đầy sinh khí. Sau đó, ông đi xa hơn lănh vực thơ: viết kịch bản, vẽ tranh, viết tùy bút, chơi nhiếp ảnh, soạn nhạc và dịch thơ (trong đó có tập đồng dao Anh xuất bản vào thế kỷ 18 nhan đề Mother Goose’s Melody). Có khi bị phê b́nh là thơ của ông không nhằm mục đích làm cảm động người đọc mà chỉ nhằm đem đến sự thoải mái dễ chịu cho họ, nếu không nói là giúp vui. Nhóm Kai c̣n có sự tham gia của Kawasaki Hiroshi (Xuyên Kỳ, Dương, sinh năm 1930), người có những ḍng thơ trữ t́nh gần gũi với phong cách của nhóm Shiki, cũng như Yoshino Hiroshi (Cát Dă, Hoằng, sinh năm 1926) với nhũng thi phẩm và thi họa tập đậm đà t́nh yêu con người. 4) Nhóm Wani (Cá Sấu): Một tạp chí không kém phần quan trọng trong làng thơ hậu chiến là Wani “Cá Sấu”, ra mắt trong giai đoạn 1959-62) với những cây bút như Yoshioka Minoru (1919-90), Iijima Minoru (sinh năm 1930) và Kiyooka Takayuki (sinh năm 1922), những tín đồ của trường thơ siêu thực. Ôoka Makoto cũng đem tài năng của ḿnh đến với họ. Nhóm Wani có vẻ trí thức hơn nhóm Kai và thiện nghệ hơn về mặt phê b́nh văn học. Ngoài ra c̣n phải kể đến sự góp mặt của Nakamura Shin-ichirô và nhóm “Matinée Poétique” (Hội Thơ Họp Ban Ngày) là những nhà thơ chú trọng về vần điệu. Thời này cũng thấy xuất hiện nhiều tác phẩm lỗi lạc như Kanai Choku Shishuu “Tập thơ Kanai Choku” (1953) của Kanai Choku (Kim Tỉnh, Trực, 1926-1997), Kanko “Hồ xà pḥng” (1957) của Aida Tsunao (Hội Điền, Cương Hùng, 1914-90), Watashi no mae ni aru nabe to okama wo moeru hi to “Nồi, chảo và ngọn lửa bùng trước mắt tôi”(1959) của Ishigaki Rin (Thạch Đàn, Rin, sinh năm 1920). Ishigaki Rin (Thạch Đàn, Rin, sinh năm 1920): Người Tôkyô. Mồ côi mẹ năm mới lên bốn. Sau khi mới học xong tiểu học đă phải đi làm ở ngân hàng và ở đấy cho đến ngày về hưu. Năm 1941 bà sáng lập tạp chí Dansô “ Tầng Cắt ” h́nh bóng về sự cắt đứt, một tạp chí chỉ có cộng tác viên phụ nữ. Sau chiến tranh, bà chuyên chú sinh hoạt công đoàn. Năm 1959, tập thơ Watashi no mae ni aru nabe to okama to moeru hi to “ Nồi, chảo và ngọn lửa bùng trước mắt tôi” được tán thưởng nồng nhiệt v́ nói đến thực tế của người phụ nữ trong gia đ́nh. Bà dùng kinh nghiệm bản thân và chọn lối viết trực tiếp trong khi sáng tác. Các tác phẩm khác là hai tập luận thuyết Tachiba no aru shi “ Thơ có lập trường ” (1967), Shi wo kaku koto to ikiru koto “ Sống thế nào và làm thơ thế nào ” (1966), Yuumoa sakoku “ Phong tỏa tiếng cười ” (1973) . Sau đây là những vần thơ nhan đề Gake (Ghềnh Đá) trong Hyôrei nado “Tỏ chút ḷng kính cẩn”(1948) của Ishigaki Rin, cho thấy vết thương thời chiến vẫn c̣n rướm máu: “ Hồi cuối chiến tranh, B) Thơ hiện kim : Năm Shôwa 35 (1960), vấn đề hiệp ước pḥng thủ hỗ tương giữa Nhật và Mỹ (gọi tắt là “Anpo” hay “An Bảo” được đặt ra và phong trào chống đối hiệp ước nầy bùng lên tới đỉnh cao của nó. Cùng một lúc, phát triển kinh tế đă lên được quĩ đạo, xă hội Nhật Bản đă có nhiều biến chuyển và bắt đầu đa dạng hóa. T́nh cảnh làng thơ cũng đa dạng hóa như thế. Tác giả của Asa no kawa ” Gịng Sông Ban Mai” (1961) là Amazawa Taijirô (Thiên Trạch, Thoái Nhị Lang, sinh năm1936) và tác giả của Kansei dôsei mata wa kansei e no tôsô “ Sống chung như trong đồ hộp hay là cuộc chạy đua để chui vào rọ “ (1967) là Suzuki Shirôyasu (Linh Mộc, Chí Lang Khang, sinh năm 1935) đă cho ra đời tạp chí Kyôku (Hung Khu) “Chỗ Hiểm Nghèo” (1964). Trong khi đó, tác giả của Ôgon Shihen (Hoàng Kim Thi Biên, 1970) “Những bài thơ vàng son” là Yoshimasu Kôzô (Cát Tăng, Cương Tạo, sinh năm1939) và các thi hữu đă phát hành tờ Doramukan (Drum Can) “Hộp Trống”, 1962). Cả hai tạp chí đều rầm rộ một thời. Miki Taku (Tam Mộc, Trác, sinh năm1935), người viết Tôkyô gozen sanji (Tôkyô ba giờ sáng” (1966), Shiraishi Kazuko (Bạch Thạch, Kazuko), người viết Seinaru insha no kisetsu “Thời của kẻ dâm đăng thánh thiện” (1970), Yoshihara Sachiko (Cát Nguyên, Hạnh Tử) người viết Yonen rentô (Ấu Niên Liên Đảo, 1969) “Cúi gầm suốt thời trẻ”, Takahashi Mutsurô (Cao Kiều, Mục Lang), người viết Yogoretaru mono wa sarani yogoretaru koto wo nase “Kẻ đă bẩn rồi cứ bắt làm chuyện bẩn tiếp”, Osada Hiroshi (Trường Điền, Hoằng, sinh năm1939), người viết Warera shinsen na tabibito “Bọn ta, những lữ khách tươi mới”(1970)…là những nhà thơ cho đến ngày nay đă tỏ ra có cá tính và hoạt động độc lập. Tuy nhiên, ta thấy họ có điểm chung là để ư đến khía cạnh ngôn ngữ và h́nh thức và phương pháp diễn đạt của thơ. b) Miki Taku (Tam Mộc, Trác, sinh năm1935) : Ông người Tôkyô, tên thật là Tomita Miki. Lúc Nhật bại trận, có mặt ở Măn Châu, mất bố và bà. Sau đó, hồi hương và theo học văn chương Nga ở Đại Học Waseda.Làm thơ ngày c̣n đi học. Có tập Tôkyô gozen sanji “ Đông Kinh lúc ba giờ sáng ” (1966), Wa ga Kiddyland “ Vùng Kiddy land của chúng ta ”. Sau đó chuyển qua tiểu thuyết và đoạt giải Akutagawa nhờ tác phẩm Hiwa “ Chim sẻ vàng ” nói về những kinh nghiệm sống ở Trung Quốc thời trẻ. C̣n viết b́nh luận, tùy bút, sáng tác truyện và sách bằng tranh cho trẻ em. c) Yoshihara Sachiko (Cát Nguyên, Hạnh Tử, sinh năm 1932) : Người Tôkyô, tốt nhiệp văn chương Pháp Đại Học Tôkyô. Thời trẻ yêu kịch. Đă xuất bản Yônen rentô “ Cúi gầm suốt thời trẻ ” (1964), giải Murou Saisei, và Natsu no haka “ Ngôi mộ mùa hạ ” (1964). Chủ đề các tác phẩm của bà thường là kỷ niệm thời son trẻ. Được giải Takami Jun năm 1973 với Ondinu “ Nữ thủy thần ” (1972) và Hirugao “ Hoa b́m buổi trưa ” (1973). C̣n viết kịch bản sân khấu và diễn xuất.
Tạm Kết : Bài viết tạm ngừng ở thời điểm thập niên 1970 để giữ được một thái độ khách quan văn học sử dầu thơ mới Nhật Bản không ngừng phát triển từ đó. Thi ca Nhật bản không phải chỉ có Hán thi, tanka hay haiku., những thể thơ có qui luật khá g̣ bó. Qua sự tiếp xúc với Tây Phương, người Nhật đă làm một cuộc duy tân thi ca nhằm thỏa măn nhu cầu bức thiết trong sự diễn tả ư tưởng và t́nh tự của con người thời đại. Cũng nhờ sự đăng đàn rất sớm của thơ mới từ thời Meiji do công lao của những nhà khai sáng cho dầu một số không phải là những nhà thơ đích thực. Với thơ mới, người Nhật đă có thể nói được chuyện trên cùng một làn sóng với thế giới bên ngoài cũng như nới rộng khả năng giao lưu để khám phá và t́m ra sự đồng cảm giữa những người khác màu da tiếng nói. [1] Haiku (bài cú), senryuu (xuyên liễu), kyôka (cuồng ca). Senryuu là biến thể của haiku, kyôka mượn waka, kyôshi lấy hứng từ Hán thi, nhưng đều có khuynh hướng đùa cợt không trang nhă. [2] Cao Khải (1336-1374) tự là Quư Địch, hiệu Thanh Khâu Tử nên c̣n được gọi là Cao Thanh Khâu, rất được người Nhật mến chuộng. Ông người tỉnh Giang Tô, làm quan Hộ Bộ Thị Lang vào đầu đời Minh, thơ có phong vị đời Đường. Sau v́ liên hệ đến vụ án của một người bạn nên bị xử yêu trảm (chém ngang lưng). [3] Ogyuu Sorai (Địch Sinh, Tồ Lai, 1666-1728) nhà nho giai đoạn giữa thời Edo. Trước học theo Chu Tử, sau chủ xướng cổ văn từ học nghĩa là theo khuynh hướng phục cổ, t́m về nghĩa cũ của chữ Hán thời Tiên Tần (thế kỷ thứ hai trước công nguyên) tức là thời của lục kinh và chư tử. [4] Tên một trong 7 loại cỏ mùa thu (thu thảo), có hoa tím hoặc trắng. [5] Theo ông ấy, xă hội con người cũng tiến hóa như mọi sinh vật. Xă hội thích ứng tốt nhất mới sống c̣n (the survival of the fittest, 1864). Đó cũng là tín điều của Nguyễn Bá Học ở Việt Nam. [6] Bài thơ dài 700 theo thể trường ca (chôka) lấy cảm hứng từ đề tài thần học Công giáo. [7] Những trích đoạn ở đây của Inoue và Yatabe đều lấy từ Donald Keene, sđd, tập 3. [8] Tên thật là Mori Kimiko (1870-1956), kết hôn với Koganei, một bác sĩ giải phẩu, giáo sư Đại Học Đông Kinh. Bà là em gái Mori Ôgai và Mori Atsujirô, và là một nhà tiểu thuyết và phiên dịch. [9] Chikamatsu Monzaemon (Cận Tùng, Tả Vệ Môn, 1653-1724) [10] Takayama Chogyuu (Cao Sơn, Xư Ngưu, 1871-1902) nhà b́nh luận chịu ảnh hưởng chủ nghĩa siêu nhân của Nietzsche, đề xướng chủ nghĩa quốc gia, ảnh hưởng lớn đến thanh niên thời Meiji. [11] Algernon Charles Swinburne (1837-1909), thi sĩ và nhà phê b́nh người Anh. [12] Chaldea, vùng đất thuộc nước Do Thái. [13] Dĩ nhiên cũng là Sao Hôm v́ dùng để chỉ Kim Tinh (Venus). Ở đây ví dụ với một (hay những) v́ sao sáng. [14] Trường thơ Pháp cuối thế kỷ 19 trọng qui luật trong h́nh thức. [15] Nhà thơ người Pháp, tên thật là Charles Marie René Leconte de Lisle (1818-94) thủ lănh phái Thi Sơn. Thơ ông mượn cảm hứng từ thần thoại, kinh thánh và cảnh vật có tính cách hương xa. [16] Ariake c̣n có nghĩa là hừng đông lúc ngày đă rạng nhưng trăng (sau ngày 16) chưa lặn. [17] Yosano Tekkan (Dữ Tạ Dă, Thiết Cán, 1873-1935) tức Hiroshi (Khoan), nhà thơ tanka lỗi lạc thời Meiji, chồng của Akiko (Tinh Tử). [18] V Narod ! trong tiếng Nga có nghĩa là “Hăy về giữa nhân dân ». [19] Sao Măo (Măo tú), tên thiên văn Tây Phương là Pleiades, chùm 7 ngôi sao (Seven Sisters), được coi là một trong Nhị thập bát tú, ư chỉ sự “ tụ họp, thống nhất ». C̣n có thể dịch là Tao Đàn. [20] Chữ Mộc này có nghĩa là “ thợ mộc » nhưng là một chữ Hán do người Nhật chế ra, không có trong chữ Hán, đọc là Moku. [21] Nhóm nghệ thuật cuối đời Meiji mang tên thần Pan (Thần Chăn Dê) trong huyền thoại Hy Lạp. Nhóm chủ trương vận động cho một nền nghệ thuật mới để đối đầu với chủ nghĩa tự nhiên (naturalism) đang bành trướng ở Nhật thời đó. [22] Một văn đoàn theo chủ nghĩa lư tưởng, chịu ảnh hưởng tư tưởng của Tolstoy, trong đó có sự tham gia của vài nhà thơ. [23] Có thể hiểu là ngọc, linh hồn, cái đẹp hay tinh hoa. [24] Nguyên văn karamatsu (lạc diệp tùng), tên một giống tùng. D.Keene dịch là Chinese pines, có lẽ v́ hiểu chữ Kara như là giống tùng đem từ nước ngoài (ở đây là Trung Quốc) vào. Tuy nhiên v́ giống tùng này đổ lá vào mùa đông nên xin dịch là “tùng lá đổ”. [25] Tiếng Bồ-đào-nha. Một loại quả nhiệt đới giống như bưởi. [26] Xem Yoshida Seiichi, sđd, trang 141. [27] Walt Whitman (1819-1892), thi nhân người Mỹ nổi tiếng với tập thơ nhan đề “Lá Cỏ » (The Leaves of Grass), ca ngợi thiên nhiên, ḥa b́nh, dân chủ và cuộc sống của dân chúng . C̣n có tập nghị luận văn học “ Triển vọng của chủ nghĩa dân chủ ». Whitman ảnh hưởng nhiều đến Arishima Takeo và các thành viên phái Shirakaba khác. [28] Edward Carpenter (1844-1929), thi nhân và nhà tư tưởng người Anh, hoạt động cho chủ nghĩa xă hội. Đă viết “ Tư tưởng nước Anh », “ Nhắm đến chủ nghĩa dân chủ ». [29] Yoshida Seiichi, Gendaishi “Thơ hiện đại”,Gakutô Bunko, Tôkyô, 1988, trang 163-64. [30] Paul Morand (1888-1976), tiểu thuyết gia và nhà ngoại giao người Pháp, viết nhiều tác phẩm có màu sắc hương xa, ảnh hưởng nhiều đến trường phái tân duy cảm (neo-sensualism) của Nhật. [31] Ikuta Chôkô đă dịch sang tiếng Nhật Also Spach Zarathustra của Nietzche năm 1911, Il triumfo della morte của d’Annunzio năm 1913, Das Kapital (1920), Salammbô (1913) và The Divine Comedy (1929). Qua dịch phẩm của ḿnh, ảnh hưởng của ông đến văn học duy hiện đại thật không nhỏ. [32] Tanizaki Chiyo không ai khác hơn là vợ cũ nhà văn Tanizaki Jun-ichirô, bạn của Satô Haruo. [33] Chữ nhà Phật, ở đây ư nói “bức tranh muôn mặt”. [34] Màu đỏ thường tượng trưng cho các phong trào theo chủ nghĩa xă hội và màu đen, các phong trào chủ nghĩa vô chính phủ. [35] Trong lĩnh vực tôn giáo, từ Modernism được dịch là “cận đại chủ nghĩa” để đối kháng với Fundamentalism hay “truyền thống chủ nghĩa”, “nguyên lư chủ nghĩa”, “cơ bản chủ nghĩa” trong bối cảnh những cuộc cải cách tôn giáo cuối thế kỷ 19 đầu 20. Trong lĩnh vực nghệ thuật, lại được dịch là “khuynh hướng duy hiện đại” hay giữ nguyên âm mô-đéc. Nói chung, ám chỉ khuynh hướng tái thẩm rơ rệt một quan niệm hay đường lối cũ. [36] Trường phái siêu thực (Surrealism) tiếp nối chủ nghĩa Đa-đa, có mặt ở Pháp từ nhưng năm 1920, chịu ảnh hưởng triết Hegel, phân tâm học Freud, thơ Apollinaire, họa của Giorgio de Chirico, t́m về thế giới bất hợp lư, phi hiện thực bên dưới tầng ư thức. Trong lĩnh vực thi văn có Breton, Desnos, Eluard, hội họa có Ernst, Miro, Dali vv…là những tên tuổi đáng nhớ. [37] Hydrangea (ajisai) tên Việt là tử dương hay tú cầu, có h́nh cái đĩa, màu xanh hay tím nhàn nhạt. Trong ngôn ngữ của hoa là tượng trưng cho sự “thờ ơ”. [38] Trong Hán tự, chữ Hải là biển gồm bộ Thủy và chữ Mẫu là mẹ. [39] Trong tiếng Pháp, chữ Mère là mẹ hàm chứa chữ Mer là biển. [40] Wasuregusa (cỏ quên) là một tên ám chỉ thuốc lá. [41] Rainer Maria Rilke (1875-1926), thi nhân người Áo, xem việc làm nghệ thuật như một công việc có tính cách thiêng liêng. [42] Friedrich Holderlin (1770-1843) nhà thơ Đức thuộc khuynh hướng lăng mạn, ca ngợi thiên nhiên và cái đẹp. [43] Phong trào nghệ thuật ở Đức có khuynh hướng miêu tả khách quan những cái xấu xa của hiện tượng đô thị hóa, cơ giới hóa của xă hội sau thời thế chiến thứ nhất. Về văn học, tiêu biểu có các nhà văn Alfred Doblin (1878-1967), Eric Maria Remarque (1898-1970), nhà thơ Eric Kestner (1899-1974). [44] Thi Sơn (Le Parnasse), nhóm thơ qui tụ các thi sĩ người Pháp cuối thế kỷ 19, chủ trương trọng h́nh thức trong thơ. Panarssus là tên một đỉnh núi thiêng. Trong huyền thoại Hy Lạp, nó là ngọn núi tượng trưng cho thi ca. [45] Phong trào thi ca chủ trương dùng những h́nh ảnh tượng trưng và gián tiếp để thể hiện ư tưởng thần bí, t́nh cảm , trạng thái tâm hồn qua thơ. Xuất hiện ở Pháp và Bỉ cuối thế kỷ 19. Đại biểu bởi Mallarmé, Maeterlinck, Verlaine, Rimbaud, Redon. [46] Bôyô-ki (Vong Dương Kư) lấy ư trong sách Liệt Tử, nói về người có tâm trạng hoang mang như đuổi theo dê nhưng đến chỗ rẽ th́ mất dấu. [47] Thomas Stearns Eliot (1888-1965) nhà thơ người Anh gốc Mỹ. Nổi tiếng như người phát ngôn cho một thế hệ đánh mất ḷng tin . Giải Nobel Văn Học năm 1948. [48] Wystan Hugh Auden (1907-73) người Anh, sống ở Mỹ từ 1939. Được xem như nhà thơ cánh tả, giải Pulitzer. [49] Sir Stephen Spender (1909-95) nhà thơ và nhà b́nh luận người Anh, coi trọng khía cạnh chính trị trong văn học. [50] Cecil Day Lewis (1904-72), nhà thơ và nhà phê b́nh người Anh, trước thế chiến thứ hai có tư tưởng cách mạng nhưng sau 1940 th́ thái độ trung dung và vào khuôn phép. * Nguyễn Nam Trân : Một trong những bút hiệu của Đào Hữu Dũng, sinh năm 1945 gần Đà Lạt. Nguyên quán Hương Sơn, Hà Tĩnh. Theo học Chu Văn An (1960~1963) và Đại Học Sư Phạm Sài G̣n trước khi đến Nhật năm 1965. Tốt nghiệp Đại Học Đông Kinh (University of Tokyo) và Đại Học Paris (Pantheon-Sorbonne). Tiến sĩ khoa học truyền thông. Giáo sư đại học. Hiện sống ở Tokyo và Paris. E-mail: nntran@erct.com .......... ®
"Khi phát hành lại bài viết của
trang này cần phải có sự đồng ư
của tác giả
|