|
TIẾNG THU
Tạp
văn Nguyễn Nam Trân
Một người thân ở Paris, gần đây có viết Mail hỏi tôi xem bài Tiếng Thu (1939) nổi tiếng của Lưu Trọng Lư (1912-1991) có lấy cảm hứng từ một bài thơ xưa của Nhật không? Anh ấy đă đọc ở tờ báo Kỹ Nguyên Mới ở Mỹ cho biết nhà văn Nguyễn Vỹ có lần hỏi bạn ông là Lưu Trọng Lư về điều đó. Lưu Trọng Lư trả lời không là không nhưng Nguyễn Vỹ vẫn chưa hết mối ngờ và đem theo nó vào tận Sài G̣n .
Thực t́nh nếu trí nhớ chưa
phản bội tôi th́ chính tôi cũng đă có
cơ hội đọc điều nầy trong
mục Ḿnh Ơi của báo Phổ Thông do
cô Diệu Huyền (một biệt hiệu
của Nguyễn Vỹ) phụ trách. Báo Phổ
Thông thời đó có vài cựu sinh viên
Việt Nam tại Nhật Bản đóng góp khá
thường xuyên và được quần chúng,
trong số đó có tôi, khá yêu chuộng và ḷng
mến mộ nước Nhật của tôi cũng
bắt nguồn từ đó.Giai thoại
Tiếng Thu được kể ra qua cuộc
đối thoại giữa Ông Tú và Bà Tú. Ông bà
Tú không phải là những nhân vật hư
cấu, có chăng là ..cô hàng bán vịt lộn
đôi khi xuất hiện trong đó. Bà Tú là nhân
vật có thực ngoài đời, em gái ông
Vỹ. Ông Trần Tú, chồng bà, gốc ngoài
Quảng như ông Vỹ, là một người
bạn của cha tôi hồi c̣n ở Đơn
Dương gần Đà Lạt. Một người
con của hai ông bà, chị Kim Thoa, là bạn
học với tôi năm lớp nh́ tiểu
học. Theo nội dung của bài báo trên Phổ
Thông th́ Lưu Trọng Lư có thể đă
mượn ư của một bài thơ cổ
của người Nhật nhưng qua một
bản dịch tiếng Pháp v́ ông Lư không
biết tiếng Nhật. Tôi bèn suy ra thơ cổ của Nhật Bản th́ chỉ có tanka và tập thơ tanka căn bản phải là Kokin Waka-Shuu (Cổ Kim Ḥa Ca Tập). Nhân một ngày thứ bảy rỗi việc, tôi mới ra quán sách trong supermarket ở Tôkyô đọc cọp bản của nhà Chuô Kôron và t́nh cờ có thêm một số ít tin tức về bài tanka liên quan xa gần đến Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư.
Trước hết phải nói là
những thông tin của Nguyễn Vỹ rất
chính xác v́ ông có chua âm Nhật của bài thơ
bên cạnh bài báo xuất bản ở Mỹ mà
người thân của tôi ở Paris đă
đọc.
Nguyên
tác : Chúng ta đều biết người Nhật thích thể thơ 5 chữ 7 chữ như Việt Nam thích 6,8. Những bài hát Nhật ăn tiền bây giờ cũng theo thể 5,7. Đọc thơ Nhật như bài nầy th́ nên đi ngược từ câu cuối th́ mới rơ nghĩa. Vâng, bài nầy đă t́m thấy trong phần Thu Ca của tập Kokin Waka Shuu (Cổ Kim Ḥa Ca Tập), một tuyển tập thơ quốc âm Tanka (Đoản Ca) của Nhật. Vào đầu thời Hei-an, văn chương chữ Hán chiếm địa vị độc tôn và thơ quốc âm Waka bị đẩy lùi vào bóng tối. Thế nhưng, Waka không v́ thế mà mai một hẳn, nó chỉ trở thành một h́nh thức thơ để tỏ t́nh cảm riêng tư, sinh hoạt luyến ái nam nữ hay t́nh tự dân gian. Tập Kokin Waka Shuu (Cổ Kim Ḥa Ca Tập) là tập thơ quốc âm đầu tiên đă được soạn để tiến lên vua theo sắc chiếu, c̣n được lược xưng là Kokin Shuu (Cổ Kim Tập). Do bọn các ông Ki-no-Tsurayuki (Kỷ, Quán Chi), Ki-no-Tomonori (Kỷ, Hữu Trắc), Ôshikôchi-no-Mitsune (Phàm Hà Nội, Cung Hằng), Mibu-no-Tadamine (Nhiệm Sinh, Trung Lĩnh) soạn khoảng năm Engi (Diên Hỷ) thứ 5 (905) theo sắc lệnh của thiên hoàng (thứ 60) Daigô (Đề Hồ, trị v́ 897-930). Đây là tập thi tuyển Waka đầu tiên được soạn theo chiếu chỉ và là qui phạm cho những tập soạn theo chiếu chỉ các đời sau.Thi tập nầy gồm 12 quyển, thu thập ước chừng trên 1100 bài thơ, có kèm hai bài tựa (Jo), một viết bằng Kana (tức bài Kanajo) do Ki-no-Tsurayuki và bài kia bằng chữ Hán (Manajo) do Ki-no-Yoshimochi (Kỷ, Thục Vọng) viết. Đặc biệt trong bài tựa viết bằng Kana, không những thuyết về sự hoà điệu giữa cái Tâm và thi Từ mà c̣n chủ trương về vai tṛ đối đầu của Waka với thơ chữ Hán, nói lên được ư thức dân tộc của người soạn ra nó. Kokin Waka Shuu chia thành nhiều bộ (bộ lập=budate) tùy theo chủ đề: Xuân (thượng, hạ), Hạ, Thu (thượng, hạ), Đông, Hạ (chúc tụng), Ly Biệt, Ki Lữ (lữ hành), Vật Danh, Luyến (T́nh Yêu), Ai Thương, Tạp (thượng, hạ), Tạp Thể (thượng, hạ) Đại Ca Sở Ngự Ca.Về thể điệu, phần lớn là những bài ngắn (Tanka), có một ít bài dài (Chôka hay Naga-uta) và thơ đối đáp (Sedôka). Như đă nói, bài thơ chúng ta đang bàn đến có chép trong phần chủ đề về mùa thu (Thu Ca). Về tác giả, sách cho biết “không biết là ai” nhưng chua thêm ”Trong tập Hyakunin Isshuu (Bách Nhân Nhất Thủ, tức một tập chọn mỗi người nổi tiếng một bài ) th́ bảo tác giả là Sarumaru Dayu (Viên Hoàn Đại Phu) một nhân vật truyền thuyết có tên trong 36 nhà thơ thời cổ (Tam Thập Lục Ca Tiên) đă soạn”.
Hyakunin Isshuu được
nhiều người cho là công tŕnh biên soạn
của Fujiwara Sadaie (c̣n đọc là Teika,
tức Đằng Nguyên Định Gia) vào
khoảng năm 1235 và thơ dựa trên Hyakunin
Shuuka (Bách Nhân Tú Ca) tức thơ hay của
trăm nhà mà ông đă chọn để
viết trên giấy họa để trang trí
dinh thự một vương hầu. Hyakunin
Isshu (quen gọi tắt là Hyakuninshu)
chọn của 100 tác giả mỗi người
một bài thơ và lấy những bài đó
ở các thi tập soạn theo sắc chiếu,
tính từ Kokin-Waka-Shuu (Cổ Kim Ḥa Ca
Tập) cho đến Shoku-Gosen-Shuu
(Tục-Hậu Tuyển Tập). Những bài thơ
trong tập sách nầy đều đặc
sắc nên được truyền bá rộng răi
về sau dưới mọi h́nh thức nghệ
thuật. Chẳng hạn vào đầu thời
Edo, có tṛ chơi Utagaruta (Ca Gia Lưu Đa)
tức tṛ chơi “ai nhanh tay” bốc những
quân bài ( Uta=thơ ca;
karuta = Carte ) có in câu dưới của bài thơ
trong Hyakunin Isshu là thắng cuộc. Người
Nhật hầu như ai cũng biết bài
(tạm gọi là) Thu Ca nầy v́ nó có trên
một trong 100 quân bài của tṛ chơi đó.
Khi giám khảo ngâm câu trên trong yomifuda tức
quân bài để đọc th́ phải biết
mà bốc quân bài có ghi câu dưới trong torifuda
tức là quân để bốc. Đây là
một tṛ chơi tao nhă rất phổ biến
trong quần chúng vào dịp Tết nhất cho
đến tận giờ. Sách đă dẫn (Kokin Waka Shuu, bản Chuô Kôron) cho rằng câu đầu và câu thứ hai không xác định nai hay là người đạp trên lá (đỏ chứ không phải vàng v́ Momiji chữ Hán viết là Hồng Diệp tức là lá màu đỏ của cây phong vào thu). Có lẽ là cá hai nhưng cái mơ hồ đó làm tăng thi vị.Hơn nữa, nai của ông Lư nên thơ hơn v́ không kêu để gọi nai cái (hay gọi đàn) như nai Nhật mà chỉ im lặng, ngơ ngác đạp lá vàng khô.
Không riêng Lưu Trọng Lư,
Huy Cận cũng đă viết:
Nai
con gót lẩn trong mù,
Nai
và mùa thu là một chủ đề thường
thấy trong tập Kokin Waka-Shuu nầy nhưng
bên Tàu thời ấy (Đường) cũng có
những bài thi vị dính líu xa gần với
nai và núi vắng như Lộc Sài của Vương
Duy :
Không
sơn bất kiến nhân
Theo
người thân tôi ở Paris cho biết th́ sau
khi nghe Nguyễn Vỹ « kết tội »,
Lưu Trọng Lư đă giẫy nẫy lên « Nhưng
bài thơ tao c̣n có chinh phu, cô phụ kia mà
» vv...Người bạn Paris cho biết thêm
là một thân nhân của ông Lư bảo
rằng ông ta làm bài thơ nói trên sau khi xem
một bức sơn mài có cảnh nai ở trong
rừng. Ngoài ra, theo nguồn tin thân cận khác,
nhà phê b́nh văn học Đặng Tiến nói
ông Lư đă chịu ảnh hưởng Thu
Thanh Phú của Âu Dương Tu. Điều này
làm tôi tự hỏi phải chăng một bài
thơ thu rất hay của một nhà thơ
triều Nguyễn là Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm
của cụ Đinh Nhật Thận, c̣n có
thể là gạch nối giữa Âu Dương
Tu và Lưu Trọng Lư chăng ? Vẫn người
thân của tôi ở Paris lại nhắc đến
Chanson d’Automne, một tác phẩm trứ danh
của Pháp mà ai cũng nằm ḷng từ lúc
ngồi trên ghế trường trung học.Thơ
viết về mùa thu nhiều lắm. Thế th́,
ông Lư sanh sau đẻ muộn nầy lấy
cảm hứng ở đâu để viết
Tiếng Thu đây ?
Khi
tôi có dịp may gặp nhà thơ Xuân Diệu
ở Paris một vài năm trước khi ông
mất và có hỏi : Thế bác viết :
Tuổi
học trời xa, Huế cũng đi,
Có
lấy cảm hứng từ hai câu :
Đồng
học thiếu niên đa bất tiện
không ?
(v́ Xuân Diệu rất sành thơ Đường:
con ông đồ Nghệ, đă viết những
bài như Nhị Hồ, đă dịch và vác ba
lô đi nói chuyện về thơ Đường
khắp nơi) th́ được ông trả
lời « Không. Có thể đó là cái
hồn thơ nho nhỏ của « thằng »
Xuân Diệu đă gặp được cái
hồn thơ vĩ đại của cụ
Đổ Phủ ở chổ nào đó thôi ».
Cho
nên chuyện ông Lưu Trọng Lư có biết
bài thơ Nhật kia không th́ không quan trọng.
Trước hết ông Lư có đủ tài
để làm thơ hay như khi ông viết
về mùa hạ :
Tôi
nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời,
Hay mùa đông :
Em
chỉ là người em gái thôi,
th́ có ǵ mà chẳng làm
được một bài thơ hay về mùa
thu, cũng hay như Vần Thơ Sầu
Rụng nói về mùa xuân với “những ngày
lạnh rớt gió vèo trong cây”.
Cái quan trọng ở đây là
ông Lư đă đẻ ra được cái h́nh
ảnh « con nai vàng ngơ ngác ».Nếu
ông lấy cảm hứng từ thơ Nhật
th́ thi nhân Waka nào đó phải c̣n phải
cảm ơn Lưu Trọng Lư nữa, v́ dù
có mô phỏng cổ nhân, ông đă đưa
hồn thơ Nhật Bản đến cho người
Việt Nam. Cũng như Nguyễn Khuyến
đă đem Thu Hứng của Đổ Phủ
vào thơ Việt khéo đến nổi người
ta khó lập ra quan hệ “liên văn bản”
giữa:
Mấy chùm trước dậu
hoa năm ngoái (Nguyễn Khuyến)
Phải tinh ư lắm mới
nhận ra. Hơn nữa, ông Lư cũng đă
đem vào bài thơ nầy một chủ đề
mùa thu khác như mùa thu của chờ mong thường
thấy trong văn học Trung Hoa, Việt Nam và
cả Nhật Bản (rạo rực, chinh phu, cô
phụ) như ông đă nói rất đúng. Ngoài
ra, cái độc đáo của ông là lối
đặt câu hỏi (không nghe?), tiếng động
mùa thu (thổn thức, xào xạc) như
tiếng thu mà Âu Dương Tu, văn nhân đời
Tống đă bắt gặp giữa một
đêm mất ngủ trong Thu Thanh Phú, hay linh
hồn réo rắt của làn gió thu nghe như
tiếng vĩ cầm trong Chanson d’Automne của
Paul Verlaine (1844-1896):
Les
sangots longs
Chưa
hết.
Bài Waka dịch ra tiếng Trung
với nhan đề Thâm Sơn Hồng Diệp,
Đàn Khả dịch (Nhật Bản Cổ
Thi Nhất Bách Thủ (Riben Gushi Yibai Shou) do nhà
Xuất Bản Văn Học Ngoại Quốc,
Bắc Kinh in năm 1985. Theo Đàn Khả,
dựa trên bài tựa bằng chữ Hán của
Kokin Shuu do Ki no Yoshimochi (Kỷ Thục
Vọng), bài thơ nầy do Ôtomo no Kuronushi (Đại
Hữu Hắc Chủ), thi nhân khoảng tiền
bán thời Heian (794-1188) viết theo một bài thơ
trước đó của Sarumaru Dayu (Viên Hoàn
Đại Phu), như đă nói trên, là một
nhân vật chưa chắc đă có thực:
Thâm sơn hồng diệp măn
địa phiêu
Núi sâu lá đỏ rụng
đầy
(Nguyễn Nam Trân dịch)
Dịch giả giải thích đây
là tâm sự của một người đang
ở giữa đường đời, như
đứng giữa rừng sâu lá đỏ, dưới
trời thu lạnh lẽo, tiền lộ mịt
mùng, lạc lơng không biết về đâu.Theo
lối dịch nầy, chỉ có người
đạp trên lá đỏ và chỉ nghe
tiếng nai vọng đến từ xa.Lối
dịch thế nầy không trung thành với nguyên
tác cho lắm, nhưng xem ra cũng có một thi
vị riêng.
Ngoài ra, vào một buổi
chiều trong thư viện, tôi nhân ṭ ṃ đọc
vài trang của quyển sách nhan đề Lối
Vào Văn Học Đông Nam Á (Tônan-Azia Bungaku
no Shôtai, Sei-unsha, Tôkyo, 2001), thấy trong phần
thi văn Việt Nam, giáo sư Kawaguchi Ken-ichi
đă dịch Tiếng Thu của Lưu Trọng
Lư ra Nhật Ngữ như sau:
Urumu tsuki no shita ni
Ura wakitsuma no kokoro ni
Aki no mori ni
(Aki no oto) Tuy bản dịch chưa đạt như ư chúng ta muốn nhưng phải nói ông giáo Nhật nầy là người có tŕnh độ và phải rơ về cả hai nền văn học v́ ít nhất ông là giáo sư Việt Ngữ Đại Học Ngoại Ngữ Đông Kinh, chuyên gia văn học. Thế mà chẳng nghe ông gợi ra một câu hỏi nhỏ về khả năng của nguồn cội Waka bài Tiếng Thu khi ông dịch nó qua tiếng nước ông. Điều đó chứng tỏ Lưu Trọng Lư, nói dại là có chịu ảnh hưởng bài Waka chăng nữa, đă thành công v́ “che mắt” được cả giáo sư văn chương kia.
Để kết luận, tuy phân
tích của Nguyễn Vỹ rất cần cho nghiên
cứu văn học nhất là văn học
đối chiếu nhưng nếu thế,
lập luận của ông cần phải có thêm
chứng cứ có tính khoa học và khách quan hơn,
nhất là khi luận điểm đó đă
bị chính tác giả phủ nhận. Riêng
ở cương vị một người thưởng
thức, tôi lại muốn đồng ư với
Xuân Diệu khi họ Ngô viết (lâu ngày quên
đích xác thế nào):
Ai đi phân tích một làn hương
mà tôi nghĩ thích hợp cho bài
Tiếng Thu nầy. Tôkyô, 4/2004, một ngày nắng nhưng nhiều gió. Nguyễn Nam Trân
®
"Khi phát hành lại thông tin từ trang này cần phải có sự đồng ư
của tác giả ..........
|