Câu Chuyện Thầy Lang
Cá
Bác sĩ Nguyễn
Ư Đức
Cá là những động vật máu lạnh, sống dưới nước, thở
bằng mang, h́nh thon dài, trên ḿnh có vẩy, di chuyển bằng vây và
đuôi.
Các nhà khoa học đă tả và đặt tên cho hơn hai chục
ngàn loại cá. Phần mềm của các động vật này được dùng làm thực phẩm,
mà ta thường gọi chung là cá. Nhưng xương và đầu cá ninh cũng cho
nước dùng rất ngọt và có nhiều chất bổ dưỡng.
Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc vào năm 1995 th́
tỷ lệ chất đạm do cá cung cấp cho dân Á Châu là 26%; 17% cho dân Phi
Châu, 9% dân Âu Châu và chỉ có 7% ở Bắc và Trung Mỹ Châu.
Có đến 75% tổng số cá bắt được trên thế giới được
dùng làm thực phẩm cho con người, số c̣n lại được chế biến làm thực
phẩm cho gia súc.
Nhu cầu tiêu thụ cá của dân chúng càng ngày càng
tăng. Căn cứ vào sự gia tăng của dân số, th́ vào năm 2010 nhu cầu
này có thể lên tới 120 triệu tấn, so với 85 triệu tấn vào thập niên
1990.
Như vậy, cá là nhóm dinh dưỡng chất đạm chính yếu
tại nhiều quốc gia thuộc châu Á, châu Phi. Châu Âu đứng hàng thứ nh́
trong việc tiêu thụ cá.
Ở một số quốc gia phát triển, nhiều người quên mất
nguồn dinh dưỡng nhiều chất đạm này mà ăn nhiều thịt động vật có vú
hay có cánh, vừa nhiều calo lại nhiều mỡ béo.
1-Giá trị dinh dưỡng.
Cá là một thực phẩm có giá trị dinh dưỡng khá cao
với lượng chất đạm đáng kể lại dễ tiêu, ít mỡ. Cá có đủ các loại
amino acid cần thiết là những thứ mà cơ thể lại không tạo ra được,
phải trông cậy vào thực phẩm.
Cá có nhiều sinh tố A, D, K và các sinh tố nhóm B;
nhiều khoáng chất như iod, calci, phospho, sắt, kali, đồng và fluor.
Đặc biệt xương cá đóng hộp sardine và salmon đóng hộp có rất nhiều
calci.
Mỡ của cá hầu hết thuộc loại chất béo chưa băo ḥa
dạng đa rất dễ tiêu, sẵn sàng để tế bào cơ thể dùng. Mặc dù có
cholesterol, nhưng cá có ít mỡ băo ḥa nên nó không làm tăng
cholesterol trong máu .
Về thành phần hóa học, cá có từ 66- 84 % nước, 15-
22 % đạm, 0.1- 22 % chất béo và khoáng chất, 0.8- 2% sinh tố.
Lượng chất đạm và lượng dầu trong cá thường thay
đổi tùy theo loại cá.
-loại ít dầu (dưới 5 %) thường có nhiều đạm( 15-
20 %) như cá morruy, cá ngừ ( tuna), cá bơn lưỡi ngựa (halibut);
-loại dầu trung b́nh 5-10 % dầu, nhiều đạm như
loại cá hồi salmon;
-loại cá nhiều dầu (trên 15 %) ít đạm (dưới 15%)
như cá hồi trout.
Tuy nhiên thành phần này cũng thay đổi tùy theo
thực phẩm nuôi cá, vùng sinh trưởng, trọng lượng, độ tuổi của cá và
mùa bắt cá. Chẳng hạn cá thu (mackerel) đánh bắt vào mùa hè có nhiều
dầu hơn mùa xuân.
Đầu cá có lượng đạm cao nhất, ḿnh cá có nhiều
nước nhất, phần đuôi có nhiều chất béo và nước.
Nhiều người cho là cá có mầu đỏ th́ có nhiều dầu
cá và chất glycogen. Thực ra, mầu của cá là do những phần tử huyết
tố nằm trong phần mềm của cá. C̣n cá hồi salmon, cá trout có mầu
hồng hấp dẫn là nhờ chất carotinoid trong tôm cua, côn trùng mà cá
đă ăn vào.
Một điểm cần lưu ư về khía cạnh dinh dưỡng là
không có ǵ khác biệt giữa cá nuôi trong trang trại và cá bắt từ
sông lạch hoặc ngoài biển cả. Cá trong thiên nhiên th́ sống bằng cá
con, tôm tép, thực vật. Trong trang trại, cá được nuôi bằng thực
phẩm chế biến từ đậu nành, ngô; được ngừa bệnh bằng kháng sinh. Đôi
khi người ta c̣n sử dụng chất tăng trưởng để cá lớn hơn hoặc dùng
thuốc ngừa sanh đẻ để cá chỉ lớn mà không sinh trứng.
2-Ưu điểm trong việc ăn cá
Theo kinh nghiệm dân gian và khoa học cũng đồng ư
th́ ăn nhiều cá có những ích lợi như ít mắc bệnh tim, ít bị kích tim,
huyết áp ở mức trung b́nh, chức năng của thận tốt, bớt bị phong thấp,
ít bị bệnh vẩy nến, mầu da hồng đẹp, tuổi thọ cao hơn.
Cá cũng giúp cho thai nhi tăng trưởng nhanh, năo
bộ phát triển mạnh nên cá là món ăn được phụ nữ mang thai ở các quốc
gia đang phát triển ưa chuộng. Tuy nhiên, mới đây các nhà khoa học
cũng lưu ư rằng một số cá có thể bị nhiễm thủy ngân, có tác dụng xấu
đối với thai nhi. Họ khuyên các bà nên cẩn thận và chỉ nên ăn cá hai
lần một tuần.
Năm 1998, Theo kết quả nghiên cứu của bác sĩ
Christine M. Albert (Boston, Hoa Kỳ) được công bố năm 1998 th́ mỗi
tuần ăn cá một lần sẽ giảm được 52% nguy cơ chết đột ngột v́ bệnh
tim, nhưng nguy cơ bị lên cơn đau thắt tim (heart attack) th́ không
thay đổi.
Một nghiên cứu khác lại cho rằng ăn cá ba lần một
tuần th́ những bệnh về tim mạch giảm xuống rất nhiều. Đó là nhờ
trong mỡ cá có nhiều loại aci béo, đặc biệt là omega-3 và omega- 6.
Nói chung, cá rất ngon, bổ dưỡng, ta nên ăn.
3-Những điều cần lưu ư khi ăn
cá.
-Khi ăn cá sống ăn gỏi, cần cẩn thận chọn cá và
làm cá thật kỹ, v́ cá có thể bị nhiễm kư sinh trùng, gây ra bệnh cho
người ăn. Có nhiều kư sinh trùng như sán cá (Fish Tapeworm), lăi
Clonorchis, Epistorchis, Angiostronggylus cantonensis truyền từ
chuột sang cá.
-Cá có nhiều dầu như cá trích (herring), cá thu
mua về cần được nấu ngay v́ để lâu, dầu cá mau hư, dễ gây nhiễm độc.
-Loại cá lớn, sống lâu ngoài biển như cá ngừ, cá
mũi kiếm ( swordfish) có thể tích tụ nhiều kim loại nặng, độc hại
cho cơ thể như thủy ngân. Tuy nhiên, cá đóng hộp thường an toàn hơn
v́ đă được kiểm tra trong khi chế biến. Phụ nữ có thai không nên ăn
các loại cá này để tránh gây ảnh hưởng xấu cho thai nhi.
-Cá sống ở gần các nhà máy có thể nhiễm một số hóa
chất độc, nhất là những nơi mà nhà máy xả nước dư thừa xuống sông,
xuống lạch.
-Xương cá, nhất là những xương nhỏ, cũng là mối
nguy hiểm cần để ư đối với người già và trẻ em khi sử dụng loại thực
phẩm này.
4 Lựa cá
Thực phẩm các loại cần phải tươi th́ ăn mới ngon,
từ rau trái tới thịt cá. Chỉ chế biến khi c̣n tươi mới bảo đảm được
phẩm chất tốt cho món ăn.
Với cá, đ̣i hỏi này c̣n quan trọng hơn v́ cá là
những sinh vật rất mỏng manh, hương vị của cá mau hư khi mang ra
khỏi môi trường nước (con cá nó sống v́ nước).
Cho nên khi mua nên cố gắng lựa những con cá càng
tươi càng tốt, lư tưởng là cá sống vừa mới bắt từ dưới nước. Đa số
cá chuyên trở từ sông biển về đều được ngâm trong nước đá pha vài
hóa chất để giữ cá tươi hoặc chlorine để diệt vi khuẩn.
a-Cá tươi ngon cần hội đủ những
tiêu chuẩn tối thiểu sau đây:
-Da hồng, vẩy óng ánh nhiều mầu, dính chặt vào
thịt;
-Mang đỏ hỏn, không nhớt;
-Mắt trong, đầy, long lanh;
-Thịt dính vào xương và chắc nịch, lấy ngón tay ấn
vào buông ra th́ thịt dội ra ngay;
-Mùi tanh nhẹ, chứ không bốc mùi ươn hôi của cá
chết.
Cá cắt thành từng khúc, miếng thịt c̣n ướt bóng,
thớ thịt dính liền không khô hay đổi mầu bạc thếch.
Với cá đông lạnh, cá phải cứng trong nước đá,
không đổi mầu hoặc trắng bệch, mùi nhẹ không ươn. Cá được gói trong
giấy đặc biệt để khỏi thấm hơi nước, và không có không khí giữa cá
và giấy bọc.
b-Cá được bán dưới nhiều h́nh thức:
-Cá nguyên con mới bắt ở dưới nước lên, c̣n đủ các
bộ phận, cần được cạo vẩy, bỏ ruột, vây, đuôi trước khi nấu. Người
bán có thể làm việc này cho khách.
-Cá cũng có thể đă được mổ ruột, cạo vẩy nhưng đầu
đuôi vẫn c̣n. Cá làm sẵn chỉ việc nấu v́ ruột đă được moi bỏ, vẩy
cạo, vây đuôi cắt bỏ.
-Cá cắt sẵn như lườn cá nạc từng miếng ( filet)
không xương, hoặc cá khúc c̣n xương để thêm hương vị và khoáng calci;
hoặc từng thỏi cá nạc bằng cỡ ngón tay sẵn sàng để ướp thêm gia vị
và nấu nường.
Tất cả đều phải có thịt chắc, mầu hồng hay trắng
tươi, mùi tanh nhẹ không ươn thối.
5-Cất
trữ cá.
Cá mua về, nếu không ăn liền, nên cất ngay vào tủ
lạnh, ngăn dưới cùng . Đô lạnh càng thấp th́ cá càng chậm hư hao.
Nhiệt độ trong khoảng từ 2ºC đến 7ºC là tốt nhất.
Cá đóng hộp có thể được giữ nguyên trong hộp như
khi mua về.
Cá đă làm sẵn khi mang về cần bỏ ra đĩa, che đậy
bằng giấy nylon hay giấy nhôm và chỉ nên giữ trong tủ lạnh vài ba
ngày kẻo cá ươn, mất ngon.
Cá đông lạnh được giữ để quanh năm. Đây là cách
rất tốt để tích trữ cá và chỉ nên để dành loại cá ngon, quư.
Nên làm sạch cá (bỏ ruột, cạo vẩy, bỏ đầu) trước
khi để ngăn đá để khỏi choán chỗ và gói bằng giấy chống độ ẩm, và
chống mùi vị khác xâm nhập.
Ghi rơ tên loại cá, ngày tháng, trọng lượng để dễ
dàng khi cần dùng. Tuy nhiên cũng không nên giữ lâu quá sáu tháng.
Xin nhớ là cá đông lạnh không ngọt thịt bằng cá tươi.
Chỉ làm ră đá đông lạnh trước khi nấu, bằng cách
tốt nhất là để trong tủ lạnh khoảng 24 giờ.
Nếu cần ră mau hơn, có thể để nguyên gói giấy bọc
trong chậu và cho nước lạnh chẩy qua. Không nên ngâm trong nước nóng
hoặc để ră ở nơi nóng, nắng v́ như vậy vi khuẩn dễ làm hư cá.
Sau khi ră đá th́ ăn cá ngay không nên cất lại vào
tủ đá, v́ vi khuẩn có thể đă xâm nhập cũng như cá bắt đầu hư hỏng.
Cá nạc từng miếng hay thỏi có thể không cần ră đá
trước khi nấu mà chỉ cần nấu lâu hơn một chút.
Cá đóng hộp rất tiện lợi, chiếm tới 40% tổng sản
lượng cá. Cá hộp sẵn sàng để ăn mà không cần nấu nướng lại có hương
vị đặc biệt cũng như có rất nhiều năng lượng, vỉ thế khi ăn nên chắt
bỏ bớt dầu cá.
Nên giữ cá hộp nơi lạnh, khô ráo nhưng không giữ
lâu quá một năm hoặc hạn dùng ghi trên hộp.
Chọn mua những hộp nguyên vẹn, không móp hoặc
phồng to, v́ rất có thể hộp ấy đă bị nhiễm khuẩn độc hại.
Cá có thể cất giữ bằng cách ướp muối, sấy khô, hun
khói hoặc ướp nước sốt gia vị. Cá ướp thường có nhiều muối natri,
nên người cao huyết áp nên hạn chế. Cá ướp cũng nên cất giữ trong tủ
lạnh nhưng không nên để lâu quá dăm tuẫn lễ.
Vùng Châu Đốc- An Giang có món khô cá tra phồng
rất độc đáo: thịt của cá chắc nịch, mầu vàng óng, miếng cá khô lóng
lánh dưới ánh mặt trời, chưa ăn đă thèm. Chỉ cần ăn cá khô với cơm
nguội cũng đủ nhớ măi An Giang.
Cá đă nấu chín có thể để dành ba bốn ngày trong tủ
lạnh hoặc bốn năm tháng trong tủ nước đá. Cá chưa nấu chín chỉ nên
giữ trong tủ lạnh độ hai ba ngày nhưng có thể giữ tới sáu tháng
trong tủ đông đá.
Cá đông lạnh thường mất đi một phần giá trị dinh
dưỡng v́ chất đạm và chất béo bị chuyển hóa, biến chất.
Nhiều người tưởng cá đắt hơn thịt, nhưng thực ra
so với hiệu quả sử dụng th́ ăn cá có lợi hơn mà thời gian nấu cũng
mau hơn, không phải mất công ướp gia vị lâu như thịt. Trung b́nh,
chỉ cần một kư cá cho bốn người ăn là đủ một bữa cơm
6-Vài món ăn đặc biệt
a-Trứng cá
Đây là món ăn b́nh dân rất hấp dẫn nhưng cũng được
giới thượng lưu ưa chuộng. Trứng cá chép, cá chuối từng buồng béo
ngậy mà rán bơ hay hấp với vài vị thuốc bắc th́ tuyệt hảo, vừa béo
vừa bùi.
Người Âu Mỹ thích ăn trứng (caviare) của cá lớn
như hồi, cá chép (carp), cá ngừ , cá tuyết (cod) đặc biệt là cá tầm
(sturgeon). Cá tầm có thể nặng tới 1500kg và sống lâu hàng trăm năm.
Trứng cá rất dễ hư, nên khi mua cần lựa trứng thật
tươi. Về nhà nếu không ăn liền phải cất ngay trong tủ lạnh.
Trứng cá bán trên thị trường thường được ướp khá
mặn nên có nhiều muối natri (khoảng 2g trong 100g trứng). Trứng có
nhiều năng lượng ( một th́a cà phê có tới 40 calor), nên không tốt
cho những người đang muốn giảm cân hoặc bị tăng huyết áp
b- Vi cá
Vi cá là những món ăn ưa thích của người Á Đông.
Cá càng to th́ vi càng lớn.
Vi cá thường được lấy từ các loại cá mập ( đen,
xanh, xám. cồn...) , cá mú chiên, cá mú giấy, cá hồng, cá heo, cá
thu.
Để làm cước cá, vi cá được ngâm nước sôi, cạo sạch
lớp da rồi tách từng sợi cước nhỏ cấu tạo thành vi. Vi cá là món ăn
rất đắt tiền.
Vây cá mập c̣n được coi là trị được bá bệnh nhất
là có công năng làm cường dương, tăng sinh lực.
c- Da cá
Miền B́nh Định có món da cá mú bông phơi khô. Khi
ăn cắt nhỏ bằng đầu đũa, rang với cát nóng rồi ngâm nước lă cho nở
ra, thêm gia vị mắm tỏi, lá dăm. Người B́nh Định có lưu truyền câu
nói dan gian ca ngợi món ăn này: “ Nhất da cá mú bông, nh́ ḷng cá
chẽm”.
c-Ruột cá
Thực ra chữ ruột là chỉ chung cho cả tim, gan,
ruột, bao tử, bong bóng, trứng cá, tinh dịch cá... Tất cả đều là món
ăn rất ngon.
Bộ đồ ḷng cá nóc được người miền Nam rất trân
trọng và thường được dành cho vị khách quư hoặc người được trọng
vọng nhất trong bàn ăn. Kẻ hậu sinh mà vội vàng lấy bộ ḷng trước
mọi người th́ được cho là “ chưa học ăn, học nói”
Cá càng to, bộ ḷng càng lớn. Ḷng ít khi được bán
ở chợ mà dân chài thường giữ lại cho gia đ́nh bạn bè.
Làm ḷng cá không phức tạp như ḷng ḅ, ḷng heo.
Chỉ cần lộn trái bao tử và ruột, sát chút muối là hết mùi tanh.
Ḷng cá nấu canh chua th́ là ăn với hoa chuối, rau
ngổ điếc th́ ngon hết chỗ nói. Sành điệu như các cụ ngày xưa th́
phải thêm vào tí ớt, chút nước cơm.
Ḷng cá không cứng như ḷng ḅ, không dai như ḷng
heo, không mềm như ḷng gà, ḷng vịt mà có hương vị khác hẳn. Dạ dầy
cá khi nhai phát ra âm thanh sần sật; bong bóng cá và ruột th́ dẻo
dẻo, dai dai.
Ḷng cá cũng được làm mắm (gọi là mắm ruột), ăn
với rau sống, dưa chuột, chuối chát, khế chua th́ chẳng sơn hào hải
vị nào ngon hơn. Mắm ruột An Giang là món ăn quê hương nổi tiếng
khắp ba miền Trung Nam Bắc.
Bong bóng cá thiều, cá sú, cá đường phơi khô đă
được giới sành ăn coi là “hải vị trân hào” v́ có nhiều chất bổ dưỡng,
nhiều người cho là có thể “cải lăo hoàn đồng”.
d-Đầu cá.
Người sành ăn rất thích ăn đầu cá, cho là bổ dưỡng
v́ nhiều mỡ cá béo ngậy Hai miếng thịt ở hai bên má rất ngọt và thơm.
Đầu cá mè, cá chép mà nấu canh chua với mẻ hoặc
bỗng rượu, củ chuối non thái mỏng... là món ăn ngon và mát.
Có người nấu tầu hũ thêm vài cái óc cá cũng làm
hương vị món tầu hũ ngậy mùi béo béo, thơm thơm...
7-Chế biến các món cá
Cá là thực phẩm có thể nấu thành nhiều món ăn hấp
dẫn, đa dạng...
Cá được nấu chín khi thịt cá đổi từ trong sang đục.
Không nấu cá chín quá v́ cá sẽ khô, cứng và mất hương vị. Cá có thể
nướng trên vỉ, bỏ ḷ, rán, hấp, rim kho với lửa nhỏ hoặc vùi bếp tro
hồng..
-Cá bỏ ḷ là giản dị nhất, v́ không cần mất nhiều
công săn sóc: chỉ việc pha chế với gia vị rồi đặt vào ḷ với nhiệt
độ khoảng 175ºC trong nửa giờ là có món ăn ngon.
-Cá nướng trên vỉ mau chín v́ độ nóng tỏa trực
tiếp và rất mạnh từ một nguồn duy nhất.
Chọn cá dầy ít nhất 2,5cm và nếu là cá đông lạnh
th́ cần ră đá trước. .Muốn cá mềm và không quá khô, nên bôi một chút
bơ.
Ta có món cá quả (cá lóc) xiên tre nướng nguyên
con mà trong Nam gọi là nướng trui ăn ngon lắm. Miếng cá được gói
trong bánh tráng mỏng với rau sống, bún, giá, hẹ, dưa chuột, chấm
với tương ngọt nghiền nhuyễn, thêm tí ớt th́ ngon chẳng ǵ bằng.
-Cá chiên rán có lẽ là cách được các bà nội trợ
dùng nhiều nhất.
Nên dùng dầu thực vật v́ mỡ động vật mau bốc khói
khi đun lâu, làm giảm hương vị tự nhiên của cá. Nhiệt độ tốt nhất
khi rán là 175ºC v́ nóng quá phần ngoài của cá cháy vàng mà phần
trong chưa chín tới . Nhiệt độ thấp quá th́ mặt cá trắng bệch.
Sau khi rán, nên để cá trên giấy bản để hút bớt
dầu, bỏ vào bếp ḷ ở nhiệt độ thấp để cá chín đều rồi ăn ngay mới
ngon.
Cá cũng có thể chiên bằng cách nhận ch́m trong
chảo dầu hoặc rán gịn hai mặt trên chảo với một chút dầu.
-Cá kho là món ăn ưa thích và phổ biến nhất.
Cá được xếp một lớp mỏng trong nồi rộng, gia vị
mắm muối đuợc phủ lên vừa kín mặt cá, đậy vung để ngăn mùi thơm bốc
hơi bay đi, đun nhỏ lửa cho tới khi lấy muổng khều cá rời ra từng
miếng là cá đă chín.
Có nhiều cách kho cá: kho dứa, củ cải, khế, măng,
riềng, kho tộ, kho nước dừa...
-Cá hấp là món rất tốt v́ giữ được tất cả hương vị
cũng như chất ngọt tự nhiên.
Nước để hấp có thể là nước thường hoặc nước đă pha
thêm gia vị, rau thơm để tăng mùi vị. Sau khi xếp cá vào vỉ, đậy
thật kín rồi đun nước sôi để hấp. Các món hấp chua ngọt, hấp gừng ,
hấp gan lợn đều rất hấp dẫn.
Tay sành ăn thấy rằng cá hấp hay bỏ ḷ c̣n giữ
được hương vị cá hơn là cá chiên nhưng ăn cá chiên lại khoái khẩu vị
hơn
-Cá luộc ít phổ biến hơn so với các loại hải sản
khác như tôm, cua, ṣ, hến.
-Cá chà bông để cho trẻ em ăn với cơm hoặc bánh ḿ
ngon, tiện và lành.
Nấu nướng là để làm chín cá nhưng cũng có mục đích
làm tăng hương vị và làm mềm tế bào của cá. Nếu nấu quá lâu với
nhiệt độ quá cao th́ cá trở nên cứng, khô và mất bớt hương vị tự
nhiên. Nhưng cũng có nhiều người thích ăn cá thu, cá rô kho tới khi
xương cá mềm tan.
Khi nấu lên đến nhiệt độ 150ºC th́ nên mở vung nồi,
món cá sẽ hấp dẫn hơn đậy vung.
Cá chín khi tế bào thịt của cá chuyển từ mầu trắng
trong như nước sang mầu đục trắng như sữa, lấy niễng bới th́ cá rời
ra từng mảnh nhỏ. Sau khi nấu, cá thường mềm, dễ bể vỡ nên cần cầm
nhẹ nhàng và ăn càng sớm càng tốt .
-Gỏi cá. Món gỏi cá của ta hay món sushi - sashimi
của Nhật là món ăn rất khoái khẩu, được nhiều người ưa chuộng. Dân
gian ta thường nói:” Cơm Gà, Cá Gỏi” đủ biết gỏi cá đă được nhiều
người khen ngon.
Gỏi cá mè, cá chép...đều có thể làm gỏi rất ngon.
Để làm gỏi, cá được thái mỏng, rửa kỹ với rượu,
lau khô bằng giấy bản làng Bưởi, bóp thính, giềng giă nhỏ.
Gỏi cá cần ăn với lá sung non, lá đinh lăng, lá mơ
tam thể, lá vọng cách, bạc hà, ng̣ gai; chấm mắm tôm pha chế với
nước trái chanh, vài nhánh tỏi, nửa th́a đường, vài quả ớt.
Gỏi cá Mai ở Miền duyên hải B́nh Thuận, cá diếc ở
vùng Đập Đá Quy Nhơn, cá chắm đen ở Lạng Sơn ...đều là những món ăn
dân tộc làm nhiều người xa quê hương phải nhớ măi.
Một số loại cá thường bị nhiễm kư sinh trùng như
cá măng, cá hồi cá vượt, cá quân, cá tuyết, ngừ, thu, cá bẹ, cá bơn...
8-Một số loài cá
Trên thị trường, có cả hàng trăm loại cá, nhưng
người tiêu dùng chỉ nhớ khoảng vài chục loại cá thường mua.
a-Cá trích (herring)
Cá thường được đánh bắt nhiều nhất ở vùng Bắc Đại
Tây Dương, bán trên thị trường dưới h́nh thức cá muối, cá hun khói,
hoặc đóng hộp với dầu đậu nành.
b-Cá Mahi Mahi:
Cá có màu da ḥa hợp giữa mầu xanh lá cây và mầu
bạc kim loại của vàng. Mới nh́n qua, cá này có dáng vẻ như cá heo
(dolphin). Thịt cá chắc và ngọt, có hương vị giống như cá tua và cá
kiếm. Loại cá này nướng hay bỏ ḷ th́ đều rất ngon. Cá có quanh năm,
nhiều nhất là vào mùa Đông
c-Cá ngừ (Tuna) .
Cá ngừ, nhất là loại mắt to, có nhiều và hầu như
quanh năm ở các quốc gia vùng nhiệt đới. Cá nặng từ 70 kí tới 250 kí.
Thịt cá ngừ tươi có mầu đỏ chói trang và gần như
trong mờ. Cá ngừ được bán c̣n tươi hay đă đóng hộp. Thịt có thể ăn
gỏi, nhưng nướng ngon hơn v́ thịt mềm giống như thịt mông của ḅ.
Cá ngừ là một trong những hải sản được khách sành
ăn ưa chuộng nhất.
e-Cá lưỡi kiếm.
Đây là một trong những loại cá lớn nhất ở biển, có
quanh năm ở vùng nước ôn đới. Cá có thể nặng tới 5, hay 6 trăm kư lô.
Thịt của cá không có mỡ, rất mềm, ngọt rất ngon miệng khi nướng hay
bỏ ḷ .
g-Cá hồi ( Salmon ).
Thịt cá hồi có mầu hồng da cam nom rất đẹp mắt, v́
chúng ăn tôm chứa chất mầu này. Đây là loại cá phổ thông nhất trên
thế giới nhờ có mùi vị thơm ngon và có thể chế biến nhiều cách.
Trước đây, cá chỉ có vào mùa Hè, nhưng ngày nay
nhờ kỹ thuật giữ cá đông lạnh, nên có cá bán quanh năm. Cá đóng hộp
có thể để cả xương hoặc rút bỏ xương. Phần da cá thường có nhiều
muối natri.
Cá hồi được nuôi tại nhiều quốc gia như Hoa kỳ,
Gia Nă Đại, Chí Lợi, Na Uy, Ái Nhĩ Lan. Khoảng một tuần lễ trước khi
mang bán trên thị trường, người ta ngưng cho cá ăn để cho thịt của
cá săn lại và để tránh nhiễm độc.
Với cá hồi, đầu bếp có nhiều cách để chế biến như
nướng, bỏ ḷ, hun khói, trộn xà lách.
Khi nướng, nên lựa miếng cá béo, c̣n da v́ da cá
rất ngon. Trước khi nướng, bôi lên da một chút dầu cho da khỏi rách.
Theo khách sành ăn, thịt cá hồi vừa mới bắt ăn rất ngon.
Cá hồi có rất nhiều chất đạm, sinh tố A, B và dầu
Omega- 3.
h-Cá ṃi ( Sardine).
C̣n gọi là cá trích, là loại cá nhỏ vẩy lóng lánh
như bạc, bơi thành từng đàn trên mặt nước. Xương mềm, thịt thơm ngon.
Cá được bán tươi, đóng hộp với nước xốt cà chua, mù tạc, hoặc hun
khói ( smoked ).
Khi mua cá ṃi tươi, nên để ư coi xem cá đă bắt
lâu chưa, v́ dầu của cá này rất mau trở mùi ươn. Sau khi bắt, cá cần
được giữ trong nước đá cho tới khi nấu.
Cá ṃi quệt bơ, rắc thêm chút tiêu muối, nướng
trên lửa hoặc trên vỉ là món ăn chơi rất thú vị. Nhưng xin lưu ư là
cá này có nhiều purine, một chất gây bệnh thống phong (gout). V́ thế
những ai mắc bệnh này không nên ăn.
Ngoài các loại cá kể trên, ở nước ta c̣n có rất
nhiều loại cá đặc biệt.
Cá nước ngọt ở sông, hồ, rạch, suối như cá bă trầu,
cá bạc, cá ḅ, cá bông, cá bống với nhiều loại khác nhau như bống
cát, bống dừa, bống kèo, bống mú, bống tượng; cá chép, cá chẽn, cá
chuối, cá diếc, cá trê, cá trắm, cá mương, cá ḷng tong, cá măng...
Cá nước mặn như cá đao, cá bạc má, cá thu, cá
trích, cá vược, cá sạo, cá róc, cá mú song, cá nàng tiên, cá miền,
cá ngừ, cá ong, cá chim, cá cơm, cá đè, cá hanh, cá ḱm, cá nục, cá
nược có vú, đẻ con.
Một hải sản người Việt ta thường ăn là bào ngư.
Đây không phải là cá mà là một loại ốc biển, c̣n gọi là ốc cửu khổng
hay ốc chín lỗ. Phần ăn được của bào ngư là bắp thịt khép (adductor
muscle) mà ốc dùng để ḅ di chuyển. Bào ngư có thể được ăn sống khi
mới bắt c̣n tươi, hoặc nấu nướng với nhiều món ăn rất hấp dẫn. Khi
nấu, tránh nấu quá lâu kẻo thịt thành cứng, dai.
9-Món
Cá quê hương
Những món cá quê hương lấy từ đầm, ao, sông lạch
của ta rất nhiều mà cũng rất hấp dẫn.
Cá kho nhừ trong nồi đất, chả cá Lă Vọng, Sơn Hải,
cá nấu giấm, nấu canh chua, lẩu cá, gỏi cá lá mơ, cá lẩu, cá rút
xương, canh chua, cá kho tộ ...là những món đặc sản ngon lành, bổ
dưỡng, dễ tiêu mà giá cả phải chăng. Hiếm hoi hơn c̣n có các món ăn
cá ch́nh, cá anh vũ , cá song, cá măng, bông lau, cá vượt...
Ngày nay, người ta c̣n chế ra nhiều món ăn từ cá
rất hấp dẫn, nhưng đôi khi chỉ hợp khẩu vị một số người...
“ Có cá đổ vạ cho cơm”, các cụ ta vẫn thường nói
vậy v́ với món cá ngon, cơm ăn bao nhiêu cũng hết, nhất là với gạo
tám thơm hay gạo ba giăng.
Miền Nam có cá lóc chà bông, cá chạch kho nghệ, cá
chẽm chưng tương hột hoặc chiên gịn, cá chốt kho, cá bống sao kho
sả ớt, cá bống dừa G̣ Công kho tiêu...
Miệt sông rạch G̣ Công, Tiền Giang có loại cá bống
dừa, sống trong rừng dừa nước, to bằng cổ tay, thịt dẻo và ngọt. Cá
này mà kho sả ớt, kho tiêu, nấu canh với lá bồ ngót, mướp hương th́
ăn một lần cầm chắc khó quên.
Cũng họ cá bống, c̣n cá bống mú, bống vượng, bống
cát, bống trứng, bống xèo, bống nhẩy cũng đều rất ngon. Món bún cá
Kiên Giang rất nổi tiếng.
Đặc sản miền Trung như cá sứt mũi sông Chu Bái
Thượng nấu với dưa cải sen núi Mục hoặc canh chua thập cẩm với cúc
tần, cần trắng, cà chua, khế, tiêu; cá chép gói lá chuối lùi trấu
nóng; cá chép nấu hoa cúc đại; cá ngứa chiên gịn; cá vượt nấu canh
chua...
Cố đô Huế c̣n nổi tiếng với năm món canh nấu với
cá: thác lác nấu hành lá, rau mùi; cá thệ nấu dứa; cá ngạnh nấu măng
chua; cá tràu nấu với mít và cá lúi nấu khế; cá sứt mũi sông Chu nấu
canh chua với dưa cải sen núi Mục của miền Trung.
Miền Bắc cũng có nhiều món cá như hai miền kia
nhưng nổi tiếng là cá rô Đầm Sét ở ngoại thành Hà Nội rán ch́m trong
mỡ; cá chắm đen kho ngũ vị, gừng ở Nam Định; cháo cá quả Hà Nội.
Cá rô Đầm Sét đă đi vào văn hóa dân gian với câu:
“ Vải Quang, Húng Láng, Ngổ Đầm; cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây” .
Ngoài ra c̣n có “cá rô làng Cháy, cá gáy làng Chờ”
cũng được văn học dân gian ghi nhận.
Cá rô mùa gặt lúa mà mang vùi chín trong đống lửa
trấu hay rán mỡ sôi trăm độ rồi ăn với cơm gạo mới th́ bao nhiêu cơm
cũng thiếu!
Nhà văn Văn Quang đă tả món cháo ám gia truyền với
cá lóc, cá quả mà chỉ nghe thôi đă thấy thèm thèm. Tiết trời lành
lạnh Hà Nội mà ăn bát bún cá quả nấu với rau cần
Tháng Giêng th́ chẳng ai chịu ngưng ở một bát.
10-Nước mắm cá
Nói về các món ăn với cá mà không nhắc tới nước
mắm và các loại mắm cá th́ là một thiếu sót lớn.
Có nhiều loại mắm cá: mắm cá nóc, cá thu, cá cơm,
mắm nhum (cầu gai),với nhiều cách ăn rất ngon và hấp dẫn.
Nước mắm chế biến từ cá là một món gia vị độc đáo
của riêng người Việt ta, cũng như maggi của Thụy Sĩ, tương tầu của
Trung Hoa...
Nước mắm cá đă quá thông dụng, lấn át các loại
nước mắm làm bằng thủy sản khác ( như nước mắm cáy, mắm cua...) nên
tên gọi nước mắm đă được dùng để chỉ nước mắm chế biến từ cá.
Đây là một chất nước sền sệt, vàng đậm, thơm thơm
và đậm đà. Mắm càng ngon càng dậy mùi, găn gắt.
Nước mắm làm bằng cá cá cơm, cá nục nhỏ th́ ngon
hơn các loại cá khác, nhất là lại được sản xuất từ Nha Trang, Phan
Thiết, Phú Quốc. Thành phố Hải Pḥng ngoài Bắc có nước mắm Vạn Vân
do ḍng họ nhạc sĩ Đoàn Chuẩn chế biến đă nổi tiếng trong dân gian
với câu nói “nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”.
Nước mắm hiện diện trong mọi bữa cơm Việt Nam. Nó
được ưa dùng trong mọi gia đ́nh và được dùng cho hầu hết các món ăn,
từ rau muống, rau cải tới bánh hỏi thịt nướng và ngay cả bát trân ẩm
thực cung đ́nh.
Nước mắm được các bà nội trợ khéo tay pha chế th́
lại càng ngon hơn.
Thịt vịt mà không có nước mắm gừng, cá trê rán mà
không có nước mắm ớt, rau muống không chấm nước mắm vắt chanh...th́
đều chưa đủ gọi là ngon...
Xoài xanh, sấu chín mà ngâm nước mắm đường thêm
chút ớt cay cay th́ không cô nữ sinh trung tiểu học nào không nhớ
đời đời đến một thời “ăn lén” trong lớp học...
Khách nước ngoài lần đầu tiếp xúc thường khó chịu,
chê mắm có mùi, nhưng khi đă ăn thử một lần với chả rán th́ “mê đến
chết, húp cả bát”.
Ngay cả người Việt Nam, “ăn mắm cá thu, buông đũa
c̣n thèm” huống chi dân sành ăn tứ xứ!
11-Cá đi vào văn học dân gian.
Là một thực phẩm phổ thông, ưa thích nên cá đă đi
vào thi ca dân gian với những câu trữ t́nh, lăng mạn, mang đậm bản
sắc, t́nh tự quê hương.
Chai rượu miếng trầu em hầu Tía, Má
Nấu tô bún cá đặng lấy ḷng anh.
Ai về Rạch Giá, Kiên Giang
Ăn tô bún cá chứa chan t́nh người.
Ai về nhắn với nậu nguồn
Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên
“Cá chọn nơi sâu, người t́m chỗ tốt ”,
Ư nói trong đời sống ai cũng chọn nơi có điều kiện
thuận tiện để sống.
“Cá chuối đắm đuối v́ con”
Ư nói cha mẹ chịu nhiều khổ đau, vất vả để gây
dựng cho con cái.
“Cá đối bằng đầu”
Nhắc nhở con người phải biết cư xử phân biệt,
thích hợp với vai vế trong gia đ́nh, xă hội, phải biết kính trên
nhường dưới, đừng “cá mè một lứa”, xem ai cũng như ai.
“ Cá nhẩy, ốc cũng nhẩy”,
hay:
“Voi đú, chó đú chuột chù cũng nhẩy”.
Ư nói không nên đua đ̣i theo kẻ khác mà đi ngược
với bản chất hoặc vượt quá khả năng hiện có của ḿnh.
“Cá ngoi mặt nước là trời sắp mưa”
Đây là kinh nghiệm quan sát thời tiết của dân gian,
khi sắp mưa khí trời thường oi bức, dưỡng khí trong nước giảm, cá
phải ngoi lên để đớp không khí.
“ Cá vàng, bụng bọ”
Ư nói bề ngoài hào nhoáng bên trong xấu xa, và
không nên đánh giá con người hay sự vật qua vẻ bên ngoài.
“Cá vào tay ai nấy bắt”,
Ư nói mối lợi ngẫu nhiên đến với ai th́ người đó
chiếm giữ.
Cá cháy vàm Trà Ôn đă được ghép chung với hai món
ăn ngon quư của người phong lưu:
“ Sáng ngày bồ dục chấm chanh,
Trưa gỏi cá Cháy, tối canh cá Chầy”
Và dưới đây là một số câu ca dao về các món cá
trong dân gian, hoặc đôi khi mượn h́nh tượng con cá để truyền lại
kinh nghiệm, ví von hay câu răn đời:
“Cá nục nấu với
dưa hồng;
Lờ đờ có kẻ mất chồng như chơi”
“Canh bún mà nấu
cá Rô;
Bà xơi hết thẩy mấy tô hỡi bà”!
“ Con cá cơm
thơm hơn con cá bẹ;
Bởi mê nước mắm Ḥn, em bỏ mẹ theo anh”
“Chim mía Xuân
Phổ; Cá bống Sông Trà”.
“Đập con cá lóc
nướng trui;
Làm mâm rượu trắng, đăi người phương xa”
“Đắt cá c̣n hơn
rẻ thịt”
“Đầu chép, mép
trôi, môi mè, lườn trắm”
“Điên điển mà
đem muối dưa;
Ăn cặp cá nướng, đến vua cũng thèm”
“Đốt than nướng
cá cho vàng;
Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi”
“Kèo nèo mà lại
làm chua;
Ăn với cá rán chẳng thua món nào”
“Một con cá
trích cắn ngang;
Mắm tôm quệt ngược, tan hoang cửa nhà”
“ Mùa Hè cá sông,
mùa Đông cá ao”
“Rau đắng nấu
với cá trê;
Ai đi Lục Tỉnh th́ mê không về”.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos
|