Các loại đậu
Bác sĩ Nguyễn
Ư Đức
Đậu được trồng ở khắp nơi trên thế
giới và có tới trên mười ngàn loại khác nhau. Tuy nhiên các bà nội
trợ thường chỉ quen thuộc với một số ít các loại đậu như là đậu hà
lan, đậu tây (cô ve), đậu đen, đậu đỏ, đậu pinto, đậu ngự, đậu nành...
Hạt đậu nằm trong vỏ dài mà khi
chín khô sẽ nứt ra làm đôi.
Theo các nhà khảo cổ th́ đậu được
trồng trước tiên ở các quốc gia Đông Nam Á châu từ cả chục ngàn năm
về trước. Nhiều nơi, đậu được gieo giữa hai luống ngô, v́ đậu có thể
hấp thụ nitrogen từ không khí, tồn trữ dưới đất và làm đất giầu thêm
chất này để giúp ngô tăng trưởng.
Giá trị dinh dưỡng
Hạt đậu là nguồn dinh dưỡng rất
phong phú, ngon mà tương đối lại rẻ tiền.
Đậu nành cung cấp đủ các loại amino
acid thiết yếu mà cơ thể cần. Đậu có nhiều calci, cho nên các vị tu
hành, người ăn chay có thể sống lành mạnh chỉ với đậu hũ và các loại
sản phẩm khác của đậu nành. Nói chung, đậu có lượng đạm chất cao hơn
các các loại ngũ cốc khác từ hai đến năm lần.
Hạt đậu có nhiều sinh tố nhóm B,
nhiều sắt, kali, rất nhiều chất xơ. Đa số hạt đậu đều có rất ít chất
béo và năng lượng, ngoại trừ đậu nành và đậu phộng lại có nhiều chất
béo tốt ở dạng chưa băo ḥa.
Đậu có ít năng lượng nhưng chứa
nhiều nước.
Một trăm gram đậu nấu chín cung cấp
khoảng 100-130 Calori và 7 gram chất đạm, tương đương với số đạm
trong 30 gram thịt động vật. Đậu nẩy mầm có nhiều đạm hơn đậu nguyên
hạt. Khi ăn chung đậu với các loại hạt, đạm của đậu có phẩm chất
tương đương với đạm động vật.
Người Bắc Mỹ và người châu Âu ít
chú ư đến các loại đậu v́ phải mất nhiều thời gian để nấu hoặc phải
ngâm đậu trước khi nấu.
Để tiết kiệm th́ giờ, dùng đậu chế
biến nấu sẵn đựng trong hộp rất tiện lợi: chỉ cần đổ bớt nước mặn
trong đậu hoặc rửa đậu cho bớt mặn rồi nấu.
Nhưng người Nam Mỹ và Á Châu xem
các loại hạt đậu là một thành phần quan trọng của lương thực.
Ở Châu Mỹ La Tinh, từ Mễ Tây Cơ
xuống đến Trung Mỹ, Nam Mỹ, đâu đâu cũng thấy có đậu đen và đậu đỏ
(black and red beans) trong các bữa ăn.
Ở Ấn Độ, đậu lăng (lentil) được ăn
trộn với gạo và rất phổ biến.
Nhật Bản có loại đậu màu nâu gọi là
azuki được ăn với cơm.
Ở Trung Hoa và Nhật Bản, Việt Nam
đậu nành rất thông dụng trong việc chế tạo tương, chao, tầu hũ.
Hạt đậu nấu chín có thể ăn khi c̣n
nóng hay để nguôi.
Có thể nấu đậu với thịt, cá hoặc
với các loại rau khác. Đậu nấu chín cũng có thể cho thêm gia vị,
nghiền nát rồi quệt vào bánh ḿ kẹp để ăn.
Đậu tươi không cần nhiều thời gian
để nấu, nhưng khi phơi khô th́ cần ninh nấu lâu hơn. Để rút ngắn
thời gian nấu, ta có thể ngâm đậu trong nước nóng vài giờ cho đậu
thấm nước và mềm hơn. Nước ngâm đậu có thể dùng để nấu món ăn cho
thêm hương vị.
Ưu điểm của đậu
1- Đậu chứa một loại chất xơ gọi là
pectin. Chất xơ này có khả năng hút nước và nở ra trong dạ dày khiến
người ta có cảm giác no không thèm ăn. Nó cũng làm chậm tiến tŕnh
hấp thụ thực phẩm trong ruột, giúp bệnh nhân tiểu đường tránh được
sự tăng gia quá mau đường huyết, và cơ thể khỏi phải tiết ra nhiều
insulin.
Các loại đậu chứa nhiều pectin có
thể giữ giữ vai tṛ quan trọng trong sự làm giảm lượng cholesterol
trong máu, c̣n tốt hơn cả loại cám yến mạch (oat bran).
Trong các loại đậu, đậu nành được
xem là hữu hiệu nhất để giảm cholesterol và triglyceride trong máu.
Nghiên cứu ở Ư và Thụy Sĩ cho thấy
là, bệnh nhân có cholesterol cao, mà ăn nhiều chất đạm từ đậu nành
thay thế cho thịt cá, th́ mức cholesterol của họ giảm xuống đến 31%.
Kết quả này xem ra c̣n tốt hơn tác dụng của các loại thuốc giảm
cholesterol đắt tiền bán trên thị trường.
Bác sĩ James Anderson thuộc Đại học
Kentucky, khuyên bệnh nhân mỗi ngày ăn một cốc đậu pinto nấu chín để
hạ cholesterol.
2- Cũng theo bác sĩ Anderson, ăn
đậu thường xuyên giảm nhu cầu Insulin để chữa bệnh tiểu đường, v́
đậu làm đường trong máu tăng lên rất chậm.
3- Gần đây các nhà khoa học lại mới
t́m ra một tác dụng vô cùng bổ ích của các hạt đậu, đó là khả năng
chống ung thư. Đậu có chứa chất acid phytic, một chất chống oxy hóa
rất mạnh. có thể chận đứng tiến tŕnh ung thư hóa của tế bào.
Ngoài ra, khảo cứu trên một số động
vật trong pḥng thí nghiệm cho thấy đậu, nhất là đậu “pea” và đậu
lăng “lentil” có chứa chất ức chế protease là chất có khả năng pḥng
chống ung thư da, vú và gan ở động vật. Thử nghiệm ở người cũng thấy
tác dụng tương tự về pḥng chống ung thư vú và nhiếp hộ tuyến.
Chuyên gia về ung thư Anne Kennedy
cho chuột ăn một hóa chất gây ung thư, nhưng khi chất ức chế
protease được bôi vào miệng chuột th́ ung thư không xẩy ra.
4- Đậu giúp đại tiện đều đặn, dễ
dàng v́ phẩn to hơn, mềm hơn, từ đó giảm thiểu được các nguy cơ ung
thư ruột già và trực tràng. Đó là kết quả các nghiên cứu của Tiến sĩ
Sharon Fleming, Đại học Berkeley, California.
5- Một khoa học gia Ấn Độ là SN.
Sanyaldan nhận thấy dân số của người Tây Tạng không thay đổi trong
suốt 200 năm. Thực phẩm chính của họ là một loại đậu. Sau nhiều năm
t́m hiểu, ông ta thấy rằng đậu này có khả năng ngăn ngừa sinh đẻ nhờ
hóa chất m-xylohydroquinone. Ông ta thử phụ nữ dùng chất này th́ tỷ
lệ sinh đẻ giảm hẳn, c̣n với nam giới th́ chất này cũng làm cho số
lượng tinh trùng giảm. Nhận xét này đang được nghiên cứu kiểm chứng
thêm. Ngoài ra có lẽ tác dụng của nó không mạnh bằng các dược phẩm
ngừa thụ tinh hiện có, nên ít ai để ư đến.
Một vài vấn đề khi
ăn Đậu
Một đặc tính của đậu là sản xuất
rất nhiều hơi (gas) trong ruột, với hậu quả gây ra trung tiện làm
nhiều người khó chịu, mắc cỡ.
Nguyên do là v́ nhiều người thiếu
diếu tố (enzyme) để tiêu hóa chất đường alpha-galactosides trong đậu.
Khi xuống ruột, đường này bị các vi sinh vật phân hóa, tạo ra nhiều
chất hơi. Nhưng kinh nghiệm cho hay nếu thường xuyên ăn đậu th́ trở
ngại này có thể không đáng kể v́ cơ thể sẽ quen dần.
Vả lại, các bác sĩ đều cho biết
trung tiện không phải là một vấn đề sức khỏe mà chỉ có thể là một
vấn đề trong giao tế xă hội.
Ông Tổ của nền Y học Tây phưong
Hippocrates nói rằng trung tiện cần thiết cho sức khỏe con người.
Người Trung Hoa cho rằng trung tiện là dấu hiệu của một sự tiêu hóa
tốt.
Benjamin Franklin, một trong những
vị lập quốc của nước Mỹ, đă viết một đoạn văn hài hước về hiện tượng
tiêu hóa này. Ông đề nghị các nhà bác học hăy thí nghiệm để t́m ra
một chất có thể khiến con người ăn vào và sản xuất ra trung tiện có
mùi thơm tho.
Không phải chỉ các loại đậu mới tạo
ra hơi trong ruột. Các thực phẩm khác như ngũ cốc, hành, tỏi, bắp su
và nhiều thức ăn có chất xơ (fiber) đều tạo ra hơi do phản ứng hóa
học hoặc sự lên men trong ruột.
Có nhiều cách để làm giảm bớt hơi
của đậu trong quá tŕnh tiêu hóa.
Nhà hóa học Alfred Olson giới thiệu
cách sau đây.
Trước khi nấu, ta hăy ngâm đậu với
nước trong một đêm; sau đó đổ nước đi. Nhúng đậu trong nước sôi, hay
nấu lên vài phút, sau đó lại ngâm nước khoảng 4 tiếng đồng hồ trước
khi đem ra nấu với thức ăn khác. Khuyết điểm của cách này là đậu sẽ
mất đi nhiều khoáng chất và sinh tố.
Phương pháp thứ hai là xay đậu để
làm thành bột nhăo rồi nêm thêm muối, x́ dầu (soya sauce), tiêu, ớt
cắt vụn vào bột nhăo để chế biến thành các món ăn cho hợp khẩu vị.
Không nên chộn thêm hành tỏi, v́ các món này tạo thêm hơi cho đậu.
Một vấn đề khác nữa là Đậu khô có
nhiều chất purine. Với một số người nhậy cảm, purine có thể làm tăng
uric acid trong máu, đưa tới bệnh thống phong (gout). Tinh thể acid
uric đóng trên các khớp xương mà thông thường nhất là ở ngón chân
cái làm người bệnh rất đau nhức.
Một vài loại đậu có hóa chất làm
mất khả năng hấp thụ các sinh tố B, E, D, beta carotene trong ruột.
Một số đậu khác, nếu không nấu chín,
có thể có vài chất dính liền với khoáng sắt, đồng, khiến hồng cầu
kết tụ lại với nhau.
Đậu phọng là một trong mươi thực
phẩm thông thường nhất gây ra dị ứng hoặc nhức nửa đầu ở một số ít
người dễ nhậy cảm.
Vài loại đậu thường
ăn
Trên thị trường, có các dạng đậu
tươi, đậu khô, đóng hộp hoặc đông lạnh. Mỗi thứ có một hương vị độc
đáo, một h́nh dáng riêng biệt và cách nấu nướng cũng khác nhau.
-Đậu đỏ thường nấu chung với gạo,
với thịt (stew), làm xà lách hoặc dùng trong món chili.
-Đậu lima mầu trắng kem hoặc xanh
nhạt, hạt nhỏ, h́nh trái thận. Đậu này thường dùng để nấu súp, làm
xà lách, hoặc hầm với thịt gà. Hầu hết đậu lima đều được đóng hộp,
làm đông lạnh trước khi bán ra trên thị trường.
-Đậu Pinto mầu cam, h́nh bầu dục
dùng nhiều trong món cơm nấu kiểu Mexico hoặc để hầm với các loại
thịt.
-Đậu đen hạt nhỏ, đen bóng dùng để
nấu chè đường, nấu súp hoặc ninh với thịt.
-Đậu Adzuki hạt nhỏ, mẫu đỏ bóng
loáng dùng làm xà lách, nhồi gà vịt, nấu súp hoặc ninh với thịt.
-Đậu nành hạt nhỏ mầu vàng hoặc hơi
đen làm đậu hũ, tương và nhiều loại thực phẩm rất ngon khác. Kinh
nghiệm ăn uống dân gian ta nói “Đậu nành là anh nước lă” hoặc “Đậu
nành rang, cả làng khát nước”. Ư nói sau khi ăn đậu rang này th́ rất
khát nước. Đậu nành rất phổ biến ở quê hương ta, với nhiều phó sản
độc đáo, như tương, chao, đậu phụ...
-Đậu Hà Lan được bán tươi rất ít,
c̣n hầu hết được đóng hộp hoặc làm đông lạnh. Khi c̣n tươi, đậu có
mầu xanh sáng, sờ hơi mềm như nhung. Đậu đóng hộp rất thông dụng và
dùng trong việc chế biến nhiều món ăn khác nhau.
Ngoài ra c̣n có đậu đũa, đậu ván,
đậu ngự, đâu cô ve, Ḥa lan, đậu đỏ, đen, đậu nành, đậu xanh, đậu
tây, đậu nâu, đậu xoắn, .
Công dụng trị bệnh
trong y học cổ truyền
Ngoài giá trị dinh dưỡng, một số
đậu c̣n được y học dân gian ta dùng làm thuốc trị bệnh. Đó là:
a-Đậu ván
trắng: c̣n gọi là bạch biển.
Đậu ván có vị ngọt, t́nh hơi ôn,
tác dụng vào kinh tỳ và vị. Trong y học cổ truyền, đậu ván khô được
dùng để chữa cảm sốt mùa hè, nôn mửa, tiêu chẩy, tỳ vị suy nhược,
chán ăn, rối loạn tiêu hóa; làm thuốc giải nhiệt, co giật khi nóng
sốt cao; giúp tóc lâu bạc.
b- Đậu Xanh.
Vỏ đậu xanh không độc, vị ngọt,
tính nhiệt có tác dụng giải nhiệt, làm mắt không mờ. Hạt đậu xanh
cũng có tác dụng giải nhiệt, giải độc tính của thuốc và kim loại,
nấm, tiêu trừ phù thũng, chữa sỏi đường tiết niệu, pḥng và chữa
cháy nắng.
c- Đậu Đen.
Đậu này thường dùng để nấu xôi, nấu
chè ăn rất ngon. Ngoài ra, đậu cũng bổ thận, lợi tiểu, nước tiểu
trong hơn và nhiều hơn. Sách Tuệ Tĩnh Nam Dược có ghi đậu đen dùng
để chữa đau bụng giữ dội; trúng gió chân tay tê cứng, chóng mặt, sây
sẩm khi sinh đẻ; chữa mắt mờ ra gió dễ chẩy nước mắt; chữa dị ứng,
lở ghẻ, hen suyễn khi đổi thời tiết.
d- Đậu phọng.
Đậu phọng có giá trị dinh dưỡng cao,
có nhiều chất béo, đạm và nhiều loại sinh tố.Ngoài việc dùng làm
thực phẩm, dầu lạc c̣n được dùng để đốt đèn và chế thuốc.
e- Đậu nành.
Đây là nguồn chất đạm rất quan trọng tại nhiều quốc gia, nhất
là quốc gia đang phát triển. Trong y học, đậu nành dùng làm thức ăn
cho người bị viêm khớp, người mới b́nh phục sau cơn bệnh nặng, đặc
biệt là những người bệnh tiểu đường, huyết áp cao và có nhiều mỡ
trong máu.
g-Đậu Đỏ.
Đậu này có vị ngọt nhạt hơi chua,
tính b́nh. tác dụng vào kinh tâm và tiểu trường. Y học dân gain dùng
đậu đỏ để trị thủy thũng, sưng phù chân, bụng trướng, đau dạ dầy, tả
lị, trĩ đại tiện ra máu, bệnh thiếu vitamin B1, vàng da, lở loét.
Trẻ con chậm biết nói th́ các cụ lấy đậu tán nhỏ ḥa với rượu bôi
dưới lưỡi hàng ngày.
Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
|