Chậm Phát
Triển Trí Tuệ
Bác sĩ
Nguyễn Ý-ĐỨC
Ngày 5 và 6 tháng 10
năm 2004, nhiều nhân vật liên hệ tới vấn đề Chậm Phát Triển Trí
Tuệ đã họp tại Montreal để thảo luận và công bố một Tuyên Ngôn
về tình trạng Tàn Tật Trí Tuệ. Tham dự viên gồm có người chậm
trí và gia đình, các giới chức y tế, giáo dục, luật pháp, đại
diện nhiều quốc gia. Tuyên ngôn nhận định rằng những cá nhân
bất hạnh này thường không được tham dự vào các quyết định về
quyền làm người và chăm sóc sức khỏe của họ; rằng họ sanh ra với
đầy đủ quyền hạn và nhân phẩm như mọi công dân; rằng mọi quốc
gia có bổn phận phải bảo vệ họ chống lại sự kỳ thị, lạm dụng,
khai thác, đối xử tàn tệ, trừng phạt quá đáng và lơ là chăm sóc
y tế.
Sở dĩ có nhắn nhủ là tại
nhiều quốc gia, với văn hóa đa dạng, đã nhìn lớp người bất hạnh
đó dưới con mắt khác nhau; đã đặt nhẹ quyền hạn của họ và sự
chăm sóc đã không được xứng đáng, chu đáo. Có nơi, nhiều em bị
đưa vào các trại tập trung, đối xử như thành phần không lương
thiện hoặc lãnh án nghiêm khắc khi phạm pháp. Chỉ vì các em
không được phát triển bình thường như đồng niên may mắn khác và
không phải do lỗi từ các em. Ngay tại nước Mỹ, từ năm 1977 tới
2002, đã có 40 em bất hạnh bị tử hình vì các tội phạm khác nhau.
Và mãi tới tháng 6 năm 2002, sau nhiều kêu gọi quốc tế, Tối Cao
Pháp Viện Hoa Kỳ mới phán quyết rằng chấm dứt sự sống của người
bị Châm Trí Tuệ là vi phạm hiến pháp.
Lang tôi xin cùng quý thân
hữu tìm hiểu thêm về những người có khó khăn phát triển khả năng
trí tuệ này. Vì trong đồng hương chúng ta cũng không ít gia đình
đang phải đối phó với vấn đề.
Định nghĩa
Chậm Trí Mental
Retardation là chữ dùng để chỉ sự khiếm khuyết phát triển trí
não xẩy ra ở trẻ em dưới 18 tuổi. Ðây là một rối loạn rất thường
thấy ở mọi nơi trên thế giới, trong bất kỳ từng lớp xã hội nào.
Các em có một số giới hạn về chức năng trí tuệ và về các khả
năng khác như là đối thoại, tự chăm sóc, và hành xử xã hội.
Những giới hạn này khiến đứa trẻ khó học hỏi và chậm mở mang
kiến thức hơn các trẻ em bình thường. Các em cần nhiều thời gian
hơn để học nói, tập đi đứng và học cách thức tự chăm sóc trong
các nhu cầu hàng ngày như ăn uống, tắm rửa, mặc quần áo. Một số
em không thu lượm được vài môn học căn bản.
Chậm trí thấy trong tỷ lệ
từ 2.5 tới 3% dân số. Bên Mỹ có tới gần 7 triệu trẻ bị khuyết
tật này và thường được phát hiện vào tuổi tới trường, khi mà khó
khăn học hỏi và hành vi trở nên rõ ràng.
Chậm Trí được coi như một
tàn tật (disability), thiếu khả năng nào đó, hơn là một bệnh
(disease); không là bệnh tâm thần như rối loạn hoang tưởng, trầm
cảm. Không có điều trị dứt được rối loạn nhưng với các hỗ trợ,
giáo dục, hướng dẫn thích đáng, đa số các em có thể học hỏi để
thực thi nhiều sự việc liên can tới đời sống.
Nguyên nhân
Có cả trăm nguy cơ đưa tới chậm trí nhưng 60% trường hợp nguyên
nhân chưa được xác định. Sau đây là một số nguy cơ thường thấy.
1- Nguyên
nhân di truyền.
Trong trường hợp này, di
thể bất bình thường từ cha mẹ truyền sang cho con cái và gây ra
khuyết tật. Rối loạn di truyền thông thường nhất và được biết
nhất là Hội Chứng Down mà trước đây gọi là Mongolism với nhiễm
thể 21 bất bình thường; rồi đến khiếm khuyết nhiễm thể giống
tính X; các hội chứng “tiếng kêu con mèo” Cri du Chat, Turner,
Klinefelter ..
2-Bất bình
thường trong khi có thai.
Thai nhi không phát triển
bình thường trong thời gian còn ở trong bụng mẹ. Có thể là do sự
phân bào bị rối loạn. Hoặc khi người mẹ ghiền rượu trong ba
tháng đầu của thai nghén; mẹ mắc bệnh nhiễm ( rubella,
cytomegalovirus); dưới tác dụng của dược phẩm, hóa chất, phóng
xạ; mẹ bị cao huyết áp, suy dinh dưỡng. Mẹ có thai mà suy dinh
dưỡng cộng với sự sinh sống trong môi trường kém hỗ trợ có thể
là nguy cơ chậm trí thường thấy nhất trên thế giới.
3-Khó khăn khi
sanh đẻ.
Sanh thiếu tháng, xuất
huyết, không đủ dưỡng khí, chấn thương não trong khi sanh.
4- Nguyên nhân
sau khi sanh .
Não bị nhiễm vi khuẩn,
virus, hóa chất ; suy dinh dưỡng trầm trọng, kém chăm sóc y tế,
tiếp cận chất độc như chì, thủy ngân trong thực phẩm (cá). Trẻ
sơ sinh bị bệnh cường tuyến giáp, ho gà, thủy đậu, ban sởi mà
không được điều trị chu đáo cũng là những nguy cơ của chậm trí.
5- Yếu tố tâm
lý xã hội.
Trẻ em lớn lên trong khung
cảnh không có thương yêu tình người, thiếu kích thích diễn tả
ngôn ngữ, cảm xúc, thính thị giác cũng thường chậm trễ về trau
dồi kiến thức, hành vi xử thế.
Dấu hiệu và triệu
chứng.
Dấu hiệu chính là thương
số trí tuệ IQ thấp cộng với sự giới hạn trong khả năng giao tế
xã hội, ngôn ngữ, tự chăm sóc. Các em cũng có thể bị kinh phong
hoặc vài vấn đề tâm thần, hành vi bất bình thường. Chẳng hạn lớn
lên các em có thể rơi vào tâm trạng buồn phiền nếu bạn học xa
lánh hoặc cảm thấy bị mọi người coi như kém khả năng và không
giống ai.
Nhiều em có những hành
đông phá phách, hung bạo, không tự chủ được trước một bất bình
nhỏ. Lý do là các em có rối loạn trí não nên không học cách hành
xử, suy luận như trẻ em bình thường. Hành động này gia tăng khi
các em sống trong các trung tâm thiếu nhân viên có kinh nghiệm
chăm sóc, hướng dẫn. Vì dưới sự hướng dẫn, bận bịu với sinh họat
và một chút kỷ luật, các em sẽ khá hơn. Có nhiều trường hợp khi
ở trung tâm, các em có hạnh kiểm tốt, nhưng về nhà, bố mẹ hơi
chiều chuộng buông thả là các em lại đập phá, gây gổ, không tuân
lời.
Trẻ em chậm trí có
một số dấu hiệu như:
a-Chậm trễ trong việc tập
nẫy, ngồi, bò và đi đứng;
b-Biết nói trễ hoặc khó
khăn khi nói;
c-Khó nhớ sự việc;
d-Kém hiểu biết quy luật
xã hội căn bản;
e-Không ý thức được hậu
quả về các hành vi của mình;
f-Khó khăn thực thi công
việc thông thường như tự bón ăn, vệ sinh cá nhân đại tiểu tiện;
g-Khó khăn suy nghĩ hợp
tình hợp lý;
h-Quá năng động, kém tập
trung, hung giữ, chống đối, tự gây thương tích cơ thể;
i-Tâm trạng lo âu, trầm
cảm, rối loạn giấc ngủ.
Chẩn Đoán .
Ngoài kết quả thử nghiệm
sinh hóa học, chụp hình quang tuyến, não điện đồ, phân tích
nhiễm sắc thể, việc chẩn đoán được dựa trên hai điểm căn bản:
1-Khả năng trí não em bé
trong việc học hiểu, suy nghĩ, giải quyết vấn đề và giải thích ý
nghĩa các ngôn từ. Đó là cách đo thương số trí tuệ IQ. IQ trung
bình là 100; thấp từ 70- 75 thì được coi như dưới mức trung
bình.
2-Khả năng để sống một
cách độc lập. Về việc tự chăm sóc, thì ước lượng coi xem các em
có thể làm được những gì, so sánh với các em bình thường. Chẳng
hạn: các em có thể học để biết cách mặc quần áo, tắm rửa, đi vệ
sinh, ăn uống; học nói chuyện với người khác bằng ngôn ngữ, hiều
điều người khác nói và trả lời rõ ràng; cách cư xử với người
chung quanh, với bố mẹ anh chị em.
Các em sẽ được khám sức
khỏe tổng quát, hỏi y lý người mẹ và con; được đo IQ để uớc
lượng khả năng học hỏi và chức năng trí tuệ. Có nhiều trắc
nghiệm trí tuệ đang được áp dụng. Bên Mỹ, ngân sách liên bang
đài thọ chi phí các trắc nghiệm này cũng như sự điều trị, học
hành, huấn luyện kỹ năng của các em. Thân nhân chăm sóc các em
cũng được hưởng phụ cấp sinh sống.
Phân loại.
Chậm trí được chia
ra làm bốn cấp:
1-Chậm
trí nhẹ (Mild MR).
Khoảng 85% các em ở loại này. IQ của các em là từ 52-68. các em
có thể hoàn thành học vấn tới lớp 6. Lớn lên, các em có thể tự
lo tự lập với sự hỗ trợ của gia đình, cộng đồng.
2-Chậm
trí vừa phải (Moderate MR)
với hoảng 10%. IQ các em từ 36-51. Các em có thể thực hiện sự tự
chăm sóc với sự hướng dẫn vừa phải; học cách đối thoại, giao tế
và sống tại các trung tâm cộng đồng với sự giám sát trông nom.
3-Chậm
trí nặng (Severe MR)
khoảng từ 2-3% với IQ từ 20-35. Các em có thể sống tại các nhà
tập thể group home có giám sát.
4- Chậm
trí rất nặng
với tỷ lệ từ 1-2% và IQ dưới 20. Thường thường các em bị tổn
thương thần kinh và cần sự theo dõi, giúp đỡ thường xuyên.
Tương lai.
Theo thống kê, 87% các em
chậm trí chỉ bị ảnh hưởng phần nào về khả năng học hiểu các kiến
thức cũng như khả năng mới. Nhiều em khi lớn lên có thể sống gần
như bình thường.
Khoảng 13% còn lại với
thương số trí tuệ dưới 50 thì có nhiều khó khăn ở trường, tại
nhà cũng như với xã hội. Với các em này, sự hỗ trợ cần tăng gia
và lâu dài . Với sự giúp đỡ tận tình, các em có thể sống tương
đối thỏa đáng.
Các em bị hội chứng Down
có thể bị tổn thương não giống như trong bệnh Alzheimer và nhiều
trường hợp nặng sẽ có các dấu hiệu của bệnh sa sút trí tuệ này.
Chậm Trí Tuệ không là yếu
tố đưa tới mệnh yểu. Tuy nhiên khi có suy giảm trí tuệ trầm
trọng thì tuổi thọ các em thường thấp vì nguyên do gây bệnh hoặc
biến chứng như kinh phong, nhiểm khuẩn hô hấp. Một số em có thể
bị rối loạn thần kinh, trầm cảm, kém tập trung, rối loạn hành
vi.
Phòng ngừa
Bệnh nhiễm có thể đưa tới Chậm Trí như ban sởi rubella cần được
chích ngừa.
Thử nghiệm ngay sau khi
sanh để tìm ra các bệnh như cường tuyến giáp, Phenylketonuria
(không sử dụng được amino acid phenylamine ), thử nghiệm sàng
lọc gene bất thường, siêu âm cũng giúp dễ dàng điều trị, tránh
gây chậm trí.
Các bà mẹ cũng cần được
hướng dẫn để tránh các nguy cơ có thể gây chậm trí cho con như
uống nhiều rượu, kém dinh dưỡng, tác dụng bất lợi từ môi trường.
Mỗi quốc gia cần có chương trình chống lại suy dinh dưỡng của mẹ
có thai nhất là vào thời điểm tăng trưởng não bộ, phát triển trí
tuệ của trẻ em.
Ðiều trị
Mục đích chính yếu của điều trị là giúp các em phát triển tối đa
các khả năng của mình. Các chương trình giáo dục và huấn luyện
đặc biệt có thể bắt đầu ngay từ lúc còn bé mà mục đích là giúp
các em hành động càng bình thường càng tốt.
Tâm lý trị liệu, hướng
dẫn hành vi nhằm giảm thiểu mặc cảm vô dụng, hành động ngoại ý
cũng cần được áp dụng để hỗ trợ cho dược phẩm. Cần có thêm các
chương trình ban ngày để các em tới tiếp nhận huấn luyện căn bản
các dịch vụ đời sống thường nhật. Việc dậy kỹ năng nghề nghiệp
phải được cung cấp để giúp các em học vài nghề giản dị. Các
chương trình cố vấn gia đình cũng giúp thân nhân và các em học
hỏi trao đổi hỗ trợ ở nhà.
Trẻ em Chậm Trí mà mang
thêm các dấu hiệu bệnh tâm thần có thể được điều trị với thuốc
chống trầm cảm, chống rối loạn suy nghĩ, phán xét cũng như khi
có hành vi phá phách, bất tuân.
Quyền
hạn của trẻ em bị chậm trí
Các em có đầy đủ quyền hạn của một công dân như lập gia đình, sở
hữu căn nhà hoặc lái xe nếu các em thi đỗ bằng lái xe.
Dưới các điều luật của
liên bang, các em không bị đưa vào các lớp học đặc biệt. Các em
cần được trắc nghiệm coi trình độ học vấn nào thích hợp với mỗi
em. Một số được sếp vào các lớp đặc biệt với khiếm khuyết học
vấn; một số khác được đưa vào lớp bình thường với sự giúp đỡ
riêng.
Bên Mỹ có 30 tiểu bang
giới hạn hoặc cấm sự kết hôn giữa người chậm trí, nhưng các luật
này ít khi được áp dụng. Đôi khi gia đình đặt vấn đề trước pháp
luật vì sợ có sự lạm dụng người bị khiếm khuyết khả năng học
hỏi.
Vấn đề học hành.
Các em có thể học hành tốt
nhưng cần giúp đỡ cho từng cá nhân.
Cho tới tuổi lên ba, giáo
viên sẽ ngồi xuống cùng cha mẹ để hoạch định chương trình riêng
cho mỗi em; coi xem nhu cầu của em là gì rồi giúp cha mẹ hiểu
biết nhu cầu đó và cách thức dậy con trẻ.
Tới tuổi đi học, có chương
trình dành riên cho các em. Nhân viên sẽ thảo luận với cha mẹ về
nhu cầu học hỏi, điều gì cần làm để có sự liên tục giữa học
đường và gia đình. Các em cần học hỏi một số kỹ năng như:
a-Đối thoại với người
khác;
b-Tự chăm sóc về tắm rửa,
ăn uống, thay quần áo, đánh răng, đi vệ sinh;
c-Học hiểu kiến thức tổng
quát về sức khỏe và an toàn cá nhân căn bản;
d-Giúp cha mẹ các công
việc ở nhà như quét nhà, rửa chén bát, sắp bàn;
e-Tập giao tế xã hội, hiểu
quy luật thông thường;
f-Đọc, viết và làm bài
tính giản dị;
g-Khi lớn lên thì dậy các
em vài kiến thức nghề nghiệp đơn giản.
Nhiệm vụ của cha mẹ.
Để giúp đỡ con em châm
trí, cha mẹ cần:
a-Có hiểu biết về vấn đề
chậm trí, về nguyên nhân, hậu quả, khả năng con trẻ;
b-Khuyến khích con trẻ tự
lo một số công việc căn bản như mặc quần áo, ăn uống, vệ sinh;
c-Giúp con trẻ để chúng dễ
dàng thực hiện công việc được giao phó. Chẳng hạn khi dọn cơm,
thì nói cho hay cần bao nhiêu bát, bao nhiêu đũa; đặt mỗi thứ
vào vị trí để con trẻ bắt chước. Khen thưởng khi con làm được;
làm lại cho con làm theo;
d-Hỏi con đã làm gì ở
trường rồi cùng làm lại với con;
e-Cho con tham dự vào các
sinh hoạt ngoài đời như cắm trại, thể thao...
f-Liên lạc với cha mẹ các
em có cùng vấn đề để chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc cũng như để
tương trợ lẫn nhau
g-Thường xuyên gặp gỡ với
nhân viên nhà trường để tìm hiểu, thảo luận cách thức hỗ trợ con
Nhiệm vụ nhân viên nhà trường.
Nhân viên giảng huấn cũng
nên có một số sửa soạn để hỗ trợ dậy dỗ trẻ em chậm trí.
a-Tìm hiểu thêm về chậm
trí, nguyên nhân, hậu quả, cách hướng dẫn;
b-Tìm hiểu coi khả năng
của học viên như thế nào, các em thích làm gì, có khả năng về
vấn đề gì rồi tập trung sự giúp đỡ để các em khá hơn.
c-Sử dụng các Chương Trình
Giáo Dục Cá Nhân;
d-Với học viên, mình nên
cụ thể rõ ràng trong việc hướng dẫn. Chẳng hạn thực thi điều
mình muốn hướng dẫn cho học viên thay vì chỉ dùng lời nói. Cho
coi hình khi trình bầy về một đồ vật hay sự việc gì để các em
thấy tận mắt.
e-Chia hướng dẫn thành
từng thành phần nhỏ, ngắn để các em dễ thu nhận. Hướng dẫn từng
giai đoạn rồi yêu cầu học viên nhắc và làm lại.
f-Khích lệ ngay sau khi
các em làm xong công việc.
g-Dậy các em các căn bản
của đời sống như nói chuyện, quan hệ, sinh hoạt.
h-Hợp tác với phụ huynh và
các giáo viên khác để cải thiện giúp đỡ ngõ hầu đáp ứng nhu cầu
của học viên
Kết luận
Chậm Phát Triển Trí Tuệ là rủi ro ngoại ý của một số trẻ em. Các
em cũng là con cháu trong gia đình, công dân trong quốc gia xã
hội. Các em cần được tình thương, được tôn trọng như một con
người, được cung cấp đầy đủ các phương tiện y tế, xã hội, giáo
dục như mọi người khác. Như tuyên ngôn Montreal đã xác định.
Bác sĩ Nguyễn
Ý- Ðức
|