Câu Chuyện Thầy Lang
Con Người Trong Không Gian
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Kể từ khi các phi hành gia Sô Viết Yurin Gagarin
và phi hành gia Mỹ Alan B. Shepard, Jr lần lượt bay trong vũ trụ năm
1961 th́ khoa học đă nhận thấy có một sự thay đổi gần như giống nhau
trong cơ thể con người khi về già và khi bay vào không gian.
Do đó, năm 1998, John Glenn, một Thượng Nghị Sĩ Mỹ
và nguyên phi hành gia, đă được đưa vào phi thuyền vũ trụ trong hơn
một tuần để quan sát xem sự tương đồng ra sao. Lang tôi xin cùng quư
vị t́m hiểu thêm về sự việc này v́ biết đâu một ngày thuận tiện nào
đó, ta chẳng có dịp du hành không gian.
Nếp sống con người trên không
gian
Khi vào không gian, con người sẽ sinh hoạt trong
những điều kiện khác so với đời sống trên trái đất.
Không gian không có không khí nên cần một nguồn
cung cấp dưỡng khí cho phi hành đoàn. Thường thường, một hỗn hợp oxy
và khí nitro được cung cấp, khí carbon được hóa chất lithium
hydroxide hút đi và những cái lọc bằng than sẽ loại mùi hôi có trong
môi trường đang bay.
Nhiệt độ trên đó cũng rất nóng hoặc rất lạnh v́
ảnh hưởng của thượng từng không khí. Cho nên phi thuyền được chế tạo
đặc biệt để bảo vệ nhiệt độ bên trong, nhất là khi cất cánh và khi
trở về trái đất.Trong phi thuyền, hơi nóng phát ra từ phi hành đoàn
và dụng cụ máy móc nâng cao sức nóng, và nhiệt lượng này được đưa ra
ngoài qua hê thống dẫn nước đặc biệt.
Trên không gian cũng có nhiều tia phong xạ như tia
cực tím mạnh đến nỗi có thể làm mất thị giác, nên kính chung quanh
phi thuyền được che trở bởi nhiều lớp lọc ánh sáng. Lại c̣n những
hạt bụi, những mảnh vụn bay trong không gian cũng có nguy cơ gây tổn
thương cho cơ thể, do đó cần được bảo vệ.
Vấn đề cung cấp thực phẩm cũng rất tế nhị.
Trước đây, phi hành đoàn phải ăn thực phẩm khô để
đông lạnh, khi ăn th́ thả vào nước cho mềm rồi dùng ống mà hút. Ngày
nay, họ có thể ăn những món làm sẵn giống như ở dưới đất và có bếp
để hâm nóng. Thực phẩm gồm đủ loại, từ sữa chua, trái cây tới thịt
ḅ bíp tếch, cá. Tất cả đều được khử trùng và lấy bớt nước. Đặc biệt
là họ phải dùng nhiều calcium và sinh tố các loại. Nước th́ lấy ra
từ những dụng cụ đặc biệt cung cấp điện năng; độ ẩm trong không khí
thở ra hoặc từ mồ hôi được tiếp nhận và chế hóa để làm nước tắm rửa.
Nghe qua tưởng nước dơ nhưng thực ra v́ đó là nước bốc hơi nên rất
tinh khiết.
Chất phế thải do đại tiểu tiện được hút vào những
túi bịt kín.Tắm th́ hoặc bằng khăn ướt lau ḿnh, hoặc có chỗ tắm.
Ngủ trong những túi ngủ hoặc ngủ bay bổng trong khoảng không ở ḷng
phi thuyền với vài sợi dây ràng buộc để đừng đụng vào thành tầu.
Trên trái đất, mọi bộ phận trong cơ thể vận hành
chống lại sức hút của trái đất, các bắp thịt và hệ thống xương cốt
chống đỡ để ta khỏi té ngă, hệ thống tuần hoàn làm việc để bơm máu
ngược lên phần trên cơ thể và năo bộ.
Khi vào không gian th́ mọi sự đảo ngược: Chất lỏng
trong người dồn hết lên đầu, mặt, cổ làm các bộ phận này như phù lên;
giác quan thay đổi không định hướng đâu là trên đâu là dưới chân. V́
phi thuyền bay, nên mặt trời mọc và lặn mỗi 90 phút thay v́ 24 giờ
như ở trái đất, nên nhịp sinh học trong cơ thể cần được thích nghi.
Thay đổi cơ thể trong không gian
Trong chuyến du hành không gian mấy năm trước đây,
người phi hành trên 70 tuổi John Glenn được theo dơi và so sánh một
số chức năng và cấu tạo cơ thể coi xem ảnh hưởng của khoảng không
trên cơ thể như thế nào. Khi vào không gian, cơ thể có những thay
đổi giống như thay đổi trong sự hóa già.
1- Người cao tuổi thường hay có cảm giác mất định
hướng, nhất là khi đứng lên từ vị trí ngồi hay nằm. Nguyên do được
cắt nghĩa là máu khi đó dồn nhiều về phần dưới của cơ thể, giảm máu
lên năo bộ, nên ta thấy hơi nghiêng ngả, chóng mặt đứng không vững,
không xác định được vị trí ḿnh trong không gian. Ngoài ra trong
tai, có những bô phận giữ cơ thể thăng bằng, trở nên kém nhậy cảm
với tuổi cao, nên người già dễ té ngă v́ không giữ vị trí vững vàng
được.
Người đi vào vùng không trọng lượng cũng có những
cảm giác tương tự, nhất là khi từ trên thượng tầng khí quyển đáp về
mặt đất. V́ thế khi John Glenn bước khỏi phi thuyền, ta thấy ông hơi
nghiêng ngả, phải có người d́u đỡ. Đó là v́ những chức năng giữ
thăng bằng, định hướng của con người không hoạt động hữu hiệu trong
khoảng không, không có sức hút của trái đất. Con người bềnh bồng một
cách tự nhiên với các vị trí ngang dọc mà không thấy chóng mặt, khó
chịu v́ quen đi.
2-Hao ṃn bắp thịt.
Ở người cao tuổi, khối lượng bắp thị thịt nhỏ đi,
các thớ thịt teo rồi hủy hoại.Thịt được thay thế bằng mô liên kết và
tế bào mỡ. Sức mạnh của bắp thịt giảm, con người trở nên yếu.
Trong không gian, bắp thịt của phi hành gia cũng
nhỏ đi đáng kể sau một tuần bay quầng nhất là các bắp thịt ở hạ chi.
Nguyên do có lẽ là trong khoảng vô trọng lượng, sức hút trái đất
không có, bắp thịt ít chịu sức cản, không được dùng tới nên chất đạm
ở bắp thịt bị tiêu hao nhiều hơn là được thay thế.
3- Sự hoại xương.
Cơ thể có khoảng 1000 tới 1200 grams calcium và
400 tới 500 grams phosphore. 99% calcium và 85 % phosphore được dự
trữ trong xương.
Người cao tuổi, đặc biệt là nữ giới sau tuổi măn
kinh, thường bị chứng loăng xương. Khoáng chất, nhất là calcium, hấp
thụ trong ruột giảm bớt, calcium trong xương được điều động cho các
nhu cầu khác quan trọng hơn như cho máu, cho tế bào thần kinh. Do đó
xương trở nên xốp, mềm, yếu, dễ gẫy.
Trên không gian, phi hành gia lơ lửng v́ không có
sức hút của trái đất, hai chân không được dùng tới, cơ thịt giảm sức
mạnh, xương bắt đầu mỏng và yếu. Trong một phi vụ kéo dài, mỗi tháng
phi hành gia mất đi từ 1% tới 2% tỷ lệ đậm đặc của xương, nhiều gấp
4 lần số tiêu hao trong cùng thời gian của xương ở người phụ nữ khi
vào tuổi măn kinh. Calcium được thải ra qua nước tiểu và phân. Để
tránh sự tiêu hao calcium này, phi hành gia được cung cấp các dụng
cụ đặc biệt như treadmill để vận động cơ thể, xương cốt.
4- Về giấc ngủ, khi ta vượt qua vài múi giờ, cơ
thể phải thích nghi với sự thay đồi không gian này. Khi bay về
phương Đông, số lượng giờ ngủ ở người cao tuổi giảm bớt. Khi vào
tuổi già, giấc ngủ thường cũng ngắn hơn, người già hay thức dậy ban
đêm và dễ bị ảnh hưởng bởi những tiến động rất nhẹ.
Phi hành gia cũng bị ảnh hưởng tương tự, v́ cứ mỗi
90 phút họ thấy mặt trời mọc và lặn, thay v́ 24 giờ như khi ở trên
trái đất. Thường thường phi hành gia ngủ ít hơn khi ở dưới đất độ
hai, ba giờ mỗi ngày. Nhiều phi hành gia phải uống melatonin để giúp
ngủ tốt hơn. Đây là hóa chất do một bộ phận ở năo tiết ra trong khi
con người ngủ.
5- Vận chuyển của máu.
Trên trái đất, cơ thể phải vận hành để chống lại
sức hút của trái đất và con người hầu như phải đứng trên đôi chân
hai phần ba thời gian của mỗi ngày.Về sự tuần hoàn, nếu để tự nhiên,
không chống cự sức hút, khi ta đứng lên, máu huyết sẽ bị hút xuống
hạ chi. Năo bộ sẽ hư hao v́ không có dưỡng chất. Nhưng cơ thể đă
thích nghi với hiện tượng này bằng cách khiến tim tăng nhịp đập,
mạch máu hạ chi co hẹp khi ta đứng lên. Nhờ đó sự lưu thông máu được
giữ ở mức độ b́nh thường.
Vào đến không gian là không c̣n sức hút của trái
đất, con người trở nên nhẹ lâng, máu huyết từ tim chuyển nhiều lên
phần trên của cơ thể như ngực, mặt, cổ khiến nơi đây như sưng phù
lên. Một trong những hậu quả của sự di chuyển chất lỏng này là phi
hành gia thường bị nghẹt mũi, nhức đầu, mặt tṛn phù. các mạch máu
dăn nở và cơ thể mất khá nhiều nước qua đổ mồ hôi. Để giảm thiểu rủi
ro, phi hành gia mang những ṿng khóa ở phần trên hạ chi để giữ máu
ỡ phía dưới. Khi đáp xuống đất, họ hay bị chóng mặt và, phải mất một
thời gian ngắn thích nghi để tuần hoàn trở lại b́nh thường.
Trong máu. khối lượng hồng huyết cầu giảm tới 15%
sau ba tháng bay. Do đó dưỡng khi nuôi cơ thể cũng ít đi và khả năng
cung cấp năng lượng của tế bào cũng giảm. May mắn là sau khi trở về
trái đất th́ sự mất mát này được trở lại b́nh thường.
Người cao tuổi cũng thường hay bị triệu chứng như
vậy khi đứng lên, ngồi xuống.
6- Sự say sóng.
Mấy phút sau khi bay vào vùng vô trọng lượng, phi
hành gia cảm thấy mệt mỏi, chóng mặt, buồn nôn. Nhưng sau vài ngày
họ quen với sự thay đổi này. Say sóng (motion sickness) gây ra do
mất thăng bằng liên lạc giữa thần kinh ở tai trong, các cảm giác
ngoài da và thu nhận tín hiệu của mắt. Ngoài ra, sự di chuyển lên
trên của chất ḷng trong cơ thể cũng được coi như nguyên nhân đưa
tới sự say sóng này.
7- Vận động cơ thể trong không gian.
Dù là trong không gian hay trên trái đất, mọi
người đều phải vận động cơ thể để xương cốt, bắp thịt được dùng tới
và được phát triển, nhiều sức lực.
Trên trái đất, sức hút của trái đất giúp ta vận
dộng dễ dàng v́ ta có thể đứng trên hai chân. Trái lại, trong cơi vô
trọng lượng, cơ thể lềnh bềnh ngang dọc, không dễ ǵ mà vân động.
Bay trong không gian mà không vận động cơ thể sẽ đưa tới mau tiêu
ṃn bắp thịt và xương. Cho nên khoa học gia đều nghiên cứu các
phương thức để phi hành đoàn dễ dàng tập luyên cơ thể. Họ có nhiều
cách để tập luyện trong khi làm việc trên không như là đạp một loại
máy giống như xe đạp, chạy trên treadmill đặc biệt, và cũng cử tạ.
Nhưng cơ thể được cột vào máy để khỏi bay bổng. Phi hành gia thường
tập hai lần mỗi ngày, một giờ mỗi lần.
7-Vệ sinh trên không gian. Giữ ǵn vệ sinh cá nhân
là việc mà phi hành gia tiếp tục phải làm, dù ở trên không gian.
Bàn cầu có hệ thống hút chất phế thải vào thùng
chứa; có dây nịt để cột phi hành gia. Nam nữ dùng chung bàn cầu.
Phi hành gia cũng tắm trong một pḥng tắm h́nh
khối, cửa đóng kín, nước dội như thường lệ nhưng nước và xà bông dơ
bay trong pḥng tắm được hút vào thùng phế thải chứ không chẩy xuống
dưới như ở nhà ḿnh. Phi hành gia cũng có thể dùng khăn ướt để tắm
khan, lau ḿnh mẩy cho sạch.
Chuyến du hành của lăo phi hành John Glen chỉ là
để t́m hiểu, quan sát. Và từ những quan sát đó, hy vọng là các khoa
học gia sẽ t́m ra những lư thuyết giải thích sự tương đồng của thay
đổi cơ thể khi vào tuổi già và khi vào không gian.Sau đó hy vọng là
sẽ có những phương thức để đối phó cũng như điều chỉnh những hậu quả
không tốt.
Một chút lang bang ra ngoài đề tài trên đây. Đó là
việc các nhà khoa học đang nghiên cứu coi có thể làm t́nh trên vũ
trụ hay không, cũng như việc trồng trọt trên đó ra sao. Lư do là
trong tương lai, khi đă chiếm được vũ trụ, th́ con người sẽ ăn ở,
sanh con đẻ cái trên đó và phải có thực phẩm để sống.
Theo các nhà chuyên môn th́ chưa có dấu hiệu nào
cho thấy là không thể “đi tơ” trên vũ trụ. Năm 1994, người ta đă
quan sát, thu phim cuộc giao hợp giữa hai con cá Nhật bổn Medaka
trong khoảng không này. Ngoài ra, người phi hành khi trở về trái đất
không có khó khăn ǵ trong việc sinh con v́ cơ quan sinh dục của cả
người nam và nữ đều c̣n tốt.
Năm 1998, trên phi thuyền Mir của Nga, người ta đă
thành công trong việc gây sanh sản của lúa ḿ; một con chuột đă có
bầu đẻ ra con nhỏ hơn là khi đẻ ở trái đất. Một thí nghiệm khác cho
thấy tinh trùng bơi nhanh hơn ở trên thượng tầng không gian.
Khoa học thám hiểm không gian càng ngày càng tiến
bộ.
Một ngày nào đó thế nào ta chả có dịp lên viếng
thăm chị Hằng thường xuyên hơn cũng như cắm dùi một miếng đất, làm
một mái lều tranh bên cạnh nhà chị để ngắm dung nhan chị cho đă con
mắt.
Mong vậy thay!
Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
Texas-Hoa Kỳ
|