Câu Chuyện Thầy Lang
Dinh Dưỡng Y
Học
Rong Biển
Bác sĩ Nguyễn
Ư Đức
Rong Biển
Rong biển (seaweeds) c̣n có các tên gọi khác như
rong mơ, rau mă vĩ, hải tảo là loại thực vật sống ở biển.
Theo các nhà sinh vật học, có đến hơn hai ngàn
loài rong biển, từ những mảng rêu trong ao nước tới các loại tảo bẹ
(kelp) ngoài biển cả.
Rong biển được phân chia ra làm bốn nhóm chính tùy
theo mầu sắc của chúng: Rong nâu, rong đỏ, rong mầu lục và rong mầu
xanh.
Rong có thể ngắn nhỏ li ti hoặc dài đến 700 thước
như tảo bẹ
Rong mọc tự nhiên rất nhiều ở biển. Nhưng hiện nay
nhiều quốc gia cũng lập những trại nuôi rong biển để thỏa măn nhu
cầu ngày một tăng.
Giá trị dinh dưỡng
Từ lâu rong biển đă được dùng làm thực phẩm cho
người và gia súc v́ có nhiều chất dinh dưỡng và khi ăn cho một vị
rất ngon.
Loại thực vật này chiếm tới 25% trong các món ăn
của dân chúng Nhật như nấu súp, trộn sà lácht, ăn với đồ biển
(sushi), với thịt. Người Việt Nam cũng đă biết thưởng thức rong biển
từ lâu, tuy rằng ít người chú ư đến đặc tính bổ dưỡng và trị bệnh
của nó. và cũng nhiều người không để ư là trong kem, dầu sà lách
hoặc thuốc đánh răng cũng có một chút rong biển để các chất này bớt
nhăo.
Rong biển rất giàu những chất dinh dưỡng căn bản
như chất đạm, folic acid, beta carotene, calci, iod, natri,
magnesium, kali, phosphor và sắt. Viện Nghiên Cứu Rong Biển ở Na Uy
phân tích được tới gần 60 khoáng chất khác nhau trong rong biển.
Rong biển cung cấp rất ít năng lượng: một phần ăn
trung b́nh chỉ cung cấp chứng 100 calori nên rất tốt cho những ai
muốn giữ thân h́nh thon thả.
Loài rong biển wakame ở Nhật c̣n có nhiều loại
amino acids như alanine, arginine, glutamic acid, glycine, leucine,
isoleucine, v.v...V́ thế rong biển là một món ăn bổ dưỡng và ngon
miệng..
Bác sĩ người Đức Heinz A.Hope, một chuyên gia nổi
tiếng về rong biển, cho rằng rong biển là nguồn thực phẩm rất lớn,
có khả năng giải quyết nạn khan hiếm thực phẩm ở các nước nghèo.
Trong rong có chất algin được dùng trong kỹ nghệ
thực phẩm để làm cho các chất lỏng kết hợp với nhau. Chẳng hạn khi
cho vào kem, algin làm nước trong sữa không kết tinh mà trộn đều với
nhau.
Rong được bán tươi, phơi khô, hoặc xay thành bột
hoặc làm thành dạng viên.
Bột rong được rắc vào súp, sà lách, pho mát hoặc
khoai tây bỏ ḷ để tăng hương vị món ăn.
Tác dụng trị bệnh
Tương truyền là Vua Thần Nông (khoảng 3.000 năm
trước Công nguyên ) và Đức Khổng Tử (551 đến 479 trước Công nguyên)
đều đă biết rằng rong biển có đặc tính dinh dưỡng và trị liệu. Từ
thời thượng cổ, ở Trung Hoa, rong biển đă được dùng để chữa bệnh ung
thư.
Theo Jean Carpenter, khoa học ngày nay đă công
nhận rong biển là một trong nhiều môn thuốc thiên nhiên có quanh năm,
với nhiều công dụng như ngăn ngừa và chữa vài loại ung thư, làm giảm
cholesterol và huyết áp, làm loăng máu, ngăn ngừa viêm loét bao tử,
tiêu diệt vi trùng, và làm thông đại tiện.
Theo bác sỹ Jane Teas của Đại Học Harvard, những
vùng có tập quán ăn nhiều rong biển, như miền biển Sago và Hokkaido
ở Nhật, th́ nơi đó ung thư vú thấp hơn so với các địa phương khác
Bác sĩ Nhật Ichiro Yamamoto của Đại Học Kitasato
nghiên cứu rong biển trong 15 năm, và kết luận rằng rong biển có tác
dụng chống ung thư vú, ung thư máu, ung thư ruột già và nhiều loại
ung thư khác.
Rong biển c̣n có khả năng kháng sinh. Năm 1917,
khoa học gia người Đức R. Harder đă khám phá đặc tính kháng sinh của
rong biển.
Đến năm 1959 khoa học gia Mỹ J.M.N. Sieburth nhận
thấy trong ruột của chim cút (penguin) không có vi khuẩn. Sau khi
nghiên cứu, ông mới t́m ra nguyên do là chim cút ăn tôm, mà tôm th́
có chất kháng sinh nhờ ăn rong biển.
Từ đó tới nay, nhiều cuộc khảo cứu khác cho thấy
rong biển có chứa những chất kháng sinh với đặc tính không kém ǵ
các kháng sinh nhân tạo như penicillin, terramycin, và streptomycin.
Ngoài khả năng kháng sinh, rong biển c̣n có đặc
tính hạ huyết áp, làm loăng máu và hạ cholesterol cho nên người Nhật
xem rong biển là thực phẩm giúp sống lâu.
Loại rong biển wakame ở Nhật có đặc tính hóa giải
chất độc nicotine trong thuốc lá.
Rong biển có nhiều iod, cần cho các chức năng của
tuyến giáp. Thiếu iod, tuyến giáp sưng to, kích thích tố của tuyến
giảm, cơ thể suy nhược, da khô và thô, tóc rụng, trí tuệ giảm, người
như mụ mẫm, buồn rầu.
Một nhược điểm của rong biển là tỷ lệ muối natri
khá cao: Nửa ly rong biển tươi có tới 900 mg natri. Do đó, người cao
huyết áp không nên ăn nhiều rong biển.
Rong biển đôi khi cũng làm mụn trứng cá trở nên
trầm trọng hơn./.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos
|