Câu Chuyện Thầy Lang
ĐƯỜNG với SỨC
KHỎE
Bác sĩ Nguyễn
Ư Đức
Mặc dù đường cho vị ngon và được nhiều người ưa
thích, nhưng sự lạm dụng chất ngọt, nhất là đường trắng sucrose có
thể gây ra nhiều rủi ro cho sức khỏe.
Sau đây là những điều nên biết
khi sử dụng đường:
a- Đường trắng không có giá trị như các thực phẩm
khác, không mang lại chất bổ dưỡng cho con người, ngoại trừ một
lượng calori khá cao và một số bất lợi.
b- Sau khi ăn, đường được chuyển ngay vào máu,
biến thành glucose, làm ta cảm thấy như có nhiều sinh lực, thoải mái.
Nhưng chỉ vài giờ sau cảm giác đó mất đi, và được thay thế bằng sự
mệt mỏi, uể oải, gắt gỏng...
Nguyên do là khi thấy đường trong máu đột nhiên
lên cao, cơ thể sẽ phản ứng bằng cách ra lệnh cho tụy tạng sản xuất
thêm insulin để cân bằng đường trong máu. Dưới tác dụng của insulin,
đường giảm xuống mau, đôi khi dươí mức b́nh thường, năng lượng cũng
theo đó bớt đi. V́ vậy, những người có gen bệnh tiểu đường không
kiềm chế được sự lên xuống bất thường này của đường và rất dễ mắc
bệnh.
c- Đường các loại đều đưa tới hư răng, sâu răng v́
phản ứng hóa học giữa đường và dịch vị miệng tạo ra chất chua, làm
hỏng men răng. Đồng thời chất ngọt cũng tạo ra môi trường rất tốt
cho vi khuẩn trong miệng tăng sinh, đưa tới nhiễm trùng răng miệng.
Chất ngọt dính trong răng càng lâu th́ răng càng mau hư và hư nhiều.
Cho nên ta cần súc miệng, đánh răng càng sớm càng tốt sau khi ăn.
đ- Đường có nguy cơ gây mập ph́ v́ cung cấp nhiều
năng lượng. Sau khi ăn, năng lượng của đường được cơ thể dùng ngay
thay cho năng lượng từ các chất dinh dưỡng khác. Khi không dùng đến,
các chất dinh dưỡng này sẽ được tích trữ dười dạng mỡ béo, lâu dần
dẫn đến béo ph́. Đó cũng là kinh nghiệm dân gian:“ ngọt môi một phút,
mông mỡ suốt đời”.
Cho nên, không phải chỉ có chất béo mới làm ta mập
như nhiều người vẫn tưởng, mà những món ăn ngọt như cà rem, bánh,
kẹo cũng góp phần gây ra béo ph́.
Kết quả một nghiên cứu kéo dài hai năm về việc
uống nước giải khát của 548 học sinh từ 11- 12 tuổi tại tiểu bang
Massachusetts, được công bố vào năm 1997, cho hay nếu uống thêm một
chai nước ngọt mỗi ngày th́ nguy cơ béo mập ở các em tăng lên đến
60%. Nước ngọt sử dụng trong nghiên cứu này gồm các loại nhước uống
chế biến như nước soda thường, Hawaiin Punch, lemonade, Kool-Aid,
nước trà ngọt và nhiều loại nước trái cây khác.
Vấn đề này đă được bác sĩ John Yudkin, thuộc
trường Đại hoc London , tŕnh bầy chi tiết từ năm 1972 trong tác
phẩm “ Sweets and Dangerous ” (Các chất ngọt và nguy cơ) . Ông lưu ư
rằng đường đă được thêm vào mọi đồ ăn, nước uống của trẻ em và đă
gây ra chứng béo ph́ ở lớp tuổi này.
Theo bác sĩ Phillp James, nước giải khát mau tiêu,
nên người ta uống nhiều, uống liên tục, do đó họ tiêu thụ một số
calories đáng kể.
Theo bác sĩ France Bellisle, thuộc Viện Nghiên Cứu
Y khoa và Sức khỏe (Institute of Health and Medical Research) bên
Pháp, có nhiều bằng chứng về liên hệ trực tiếp giữa việc sử dụng
chất ngọt và nguy cơ béo ph́ ở trẻ em. Béo ph́ ở trẻ em cũng được
coi như có thể gây ra bệnh tiểu đường, bệnh tim, ung thư và phong
thấp khớp về sau này.
e- Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy là những sắc
dân nào ăn nhiều đường, đồng thời lại ăn nhiều mỡ, đều có tỷ lệ cao
về các chứng bệnh tim mạch, bệnh tiểu đường.
g- Đường có thể gây ra đầy hơi làm khó chịu bao tử
v́ phản ứng lên men. Bác sĩ Anthony Cerami, một chuyên viên về bệnh
tiểu đường, c̣n cho là đường làm ta mau già v́ đường lên cao làm hư
hao tế bào trong cơ thể.
h-Đường cũng được coi như làm tăng nguy cơ đưa tới
các bệnh do nấm độc ( yeast infection), nhất là ở vùng cơ quan sinh
dục nữ giới.
i- Ngoài ra, thức ăn có những vị ngon riêng biệt
của nó. Khi thêm nhiều đường vào th́ hương vị của thức ăn bị lu mờ
đồng thời sự nhậy cảm của vị giác với thức ăn cũng bị tê liệt.
k- Mật ong, đường vàng, mật mía... đều gây phản
ứng insulin như nhau, không khác ǵ đường trắng mà ta dùng hằng ngày.
Tuy trong mật ong, đường vàng, mật mía có một chút khoáng chất và
sinh tố nhưng số lượng quá nhỏ không đáng kể. Ngoài ra, mật ong và
mật mía đôi khi chứa chất độc thiên nhiên ở các loại nhụy hoa mà ong
hút để làm mật hoặc từ đất trồng mía.
Đường hóa học
Năm 1985, hăng thông tấn UPI (United Press
International) của Hoa Kỳ có loan tin là Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald
Reagan đă ngưng không uống cà phê với đường trắng hoặc đường hóa học.
Theo ông, không có lư do ǵ để thêm đường hóa học vào cà phê mà
không biết thành phần của nó ra làm sao.
Đó cũng là ư kiến của nhiều người khác. Lư do là
các đường này không có một giá trị dinh dưỡng nào, mà chỉ mang lại
vị ngọt đánh lừa, thỏa măn khẩu vị người thích của ngọt và quyến dụ
họ ăn nhiều chất ngọt hơn.
Các loại đường hóa học, c̣n gọi là đường nhân tạo
hay chất làm ngọt nhân tạo (artificial sweetener), được tạo thành
bằng phương pháp tổng hợp. Tất cả đều ngọt hơn đường trắng tinh chế
tới vài trăm lần, lại có rất ít calori, nên thường được dùng để
tránh béo ph́ và thay thế đường trắng khi bệnh nhân tiểu đường muốn
dùng chất ngọt.
Có ba loại đường hóa học thường dùng: cyclamates,
saccharin và aspartame ..Nhiều nghiên cứu cho hay đường tổng hợp có
thể gây ra một số phản ứng bất lợi cho sức khỏe.
a- Cyclamates
Loại đường này bắt đầu xuất hiện từ đầu những năm
1950, đến năm 1969 th́ bị cấm hẳn tại Hoa Kỳ v́ nghi là có thể gây
ung thư, khuyết tật ở trẻ sơ sinh và có tác dụng xấu vào bộ phận
sinh sản của súc vật đực. Tại Canada, loại đường này vẫn được phép
dùng trong một số mục đích hạn chế.
b- Saccharin
Saccharin xuất hiện rất sớm, từ năm 1879 và được
dùng phổ biến vào các thập niên 1950, 1960. Năm 1977, saccharin bị
cấm hẳn ở Canada v́ những kết quả nghiên cứu trong pḥng thí nghiệm
cho thấy chất này có thể gây ra ung thư bàng quang ở loài chuột. Tại
Hoa Kỳ, lệnh cấm saccharin cũng đă được ban hành, nhưng do tính cách
phổ biến của nó, Quốc hội Hoa Kỳ đă chuần thuận cho phép lưu hành
trên thị trường với điều kiện là phải kèm theo một nhăn cảnh báo
người tiêu dùng về rủi ro của đường này. Vả lại cũng chưa có một dẫn
chứng khoa học nào xác định nguy cơ gây ung thư của saccharin ở
người, mà chỉ chuyện của chuột mà thôi!
Saccharin được biết tới qua tên thương mại Sweet’N
Low, đựng trong túi giấy mầu hồng. Hóa chất này ngọt hơn đường trắng
tới 300 lần, và có vị hơi đắng, không bị nhiệt tiêu hủy, dễ ḥa tan
trong nước, giữ được lâu mà không hư.
Saccharin không được cơ thể hấp thụ, không cung
cấp một lượng calori nào, và toàn bộ được thận bài tiết ra ngoài.
c- Aspartame
Trên thị trường, nhóm đường này được bán với tên
là Nutrasweet hoặc Equal, dựng trong gói giấy màu xanh, và đă được
quảng cáo như một chất ngọt tự nhiên, không nhân tạo như saccharin.
Đây là một tổng hợp của hai amino acid : aspartic acid và
phenylamine.
Aspartame được dùng rất nhiều trong nước ngọt có
hơi, ngũ cốc chế biến khô, cà phê tan liền, hỗn hợp cocoa, món tráng
miệng...
Người dùng nhiều aspartame thường hay than phiền
chóng mặt, nhức đầu, mắt mờ, mau quên, kinh nguyệt không đều, tính
t́nh thay đổi. Trẻ em th́ quá năng động, hay gây gổ. Cũng có ư kiến
e ngại là hóa chất này có thể tăng nguy cơ cơn kinh phong.
Nghiên cứu khác cho hay aspartame làm giảm hóa
chất kiểm soát, điều ḥa sự ngon miệng trong năo bộ, do đó có thể
khiến ta thèm ăn chất ngọt nhiều hơn.
Một vấn đề đáng lưu ư là phụ nữ có thai dùng chất
ngọt này th́ chất phenylalamine có thể được chuyển sanh thai nhi,
làm tổn thương năo bộ. Đây là trường hợp người mẹ bị bệnh bẩm sinh
phenylketonuria (PKU), không chuyển hóa được chất phenyalamine quá
cao. Bác sĩ Harvey Levy tại bệnh viện Nhi Khoa ở Boston cho là
thương số trí tuệ của trẻ em này có thể giảm.
d- Acesulfam Potassium
Hóa chất này ngọt hơn đường sucrose tới hai trăm
lần và cũng có vị hơi đắng. Đường bán với tên Sunsett, Ace-K, Sweet
One
Đường được nhiều người dùng trên khắp thế giới,
trong nước uống, món ăn, trong kẹo cao su.
e- Sucralose.
Ngày 1 tháng 4 năm 1998, Cơ quan Quản lư Thực Dược
Phẩm Hoa Kỳ(FDA) chính thức cho phép loại đường hóa học có tên là
sucralose được lưu hành rộng răi trên thị trường. Mặc dù sinh sau đẻ
muộn, mới được tung ra thị trường, nhưng sucralose đă được niềm nở
đón tiếp v́ nó an toàn cho mọi giới, ngay cả phụ nữ có thai, nuôi
con bằng sữa mẹ và an toàn cho cả trẻ em.
Sucralose là loại đường hóa học duy nhất được làm
ra từ đường tự nhiên, nhưng có độ ngọt hơn đường tinh chế đến 600
lần. Mặc dù vậy, khi đưa vào cơ thể, loại đường này không cung cấp
calori và không bị biến hóa. Sucralose không có vị đắng như các
đường hóa học khác và có thể dùng làm gia vị trong nhiều món ăn,
thức uống.
Trên thị trường, đường này được bán với tên là
Splenda.
g- Acesulfam K.
Hóa chất này được làm ra ở Đức và đă dùng rộng răi
ở nhiều quốc gia trên thế giới trước khi được dùng ỏ Hoa Kỳ vào năm
chó, với tên thương phẩm là Sunette. Đường này có độ ngọt hơn đường
trắng tới 200 lần và được dùng trong nước uống, kẹo cao su, làm bánh
và cho thêm vào thực phẩm trước khi nấu nướng.
Ngoài ra, c̣n có các đường hóa học khác như Poyols,
Alitame, Neotame, Stevia, Beflora, Cyclamate, Stevioside, Thaumatin,
Dihydrochalones, Glycyrhizin, L-Sugars...
Kết luận
Với những bất lợi của đường như đă nói, liệu có
nên loại bỏ đường ra khỏi khẩu phần hằng ngày hay không?
Thực ra một chút đường mỗi ngày cho hương vị ly cà
phê thêm đậm đà cũng không rủi ro ǵ. NHưng cần phải biết rằng, cơ
thể ta không bao giờ thiếu đường v́ các chất dinh dưỡng khác đều có
thể được chuyển hóa thành glucose. Hơn nữa, nếu thích ăn ngọt , ta
có thể ăn các thực phẩm thiên nhiên có vị ngọt như các loại trái cây.
Một miếng dưa hấu. một quả cam, một trái chuối
không những mang lại khá nhiều đường mà c̣n nhiều chất khác như chất
xơ, sinh tố, khoáng chất... Những đường này lan ra trong cơ thể một
cách từ từ nhẹ nhàng chứ không tạo ra cảm giác “lên cao xuống thấp”
bất chợt như đường trắng ytinh chế.
Ngoài ra, các chất ngọt khác như c̣n mật ong, mật
mía cũng có nhiều chất ngọt tương đối tốt lành mà ta có thể dùng
thay cho đường tinh chế.
V́ như đă nói, đường tinh chế nh́n th́ đẹp, mà khi
ăn nhiều lại không mấy tốt cho sức khỏe.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos
|