Câu Chuyện Thầy Lang
Khoảng Cách
Thế Hệ
Bác sĩ Nguyễn
Ư Đức
Chuyên viên kinh tế Văn Khánh tâm sự với bạn bè:
“Năm nay ḿnh hơn bốn chục tuổi rồi mà ông bố
vẫn coi ḿnh như c̣n con nít. Có chuyện vui chia sẻ với cụ th́ cụ
sẵn sàng dồn cho mấy lời khuyên bảo, mà chẳng bao giờ để ư tới cách
thức ḿnh đă giải quyết khó khăn”…
Bà mẹ của cô con gái 29 tuổi tới thăm cháu
ngoại. Bà tự động dọn dẹp pḥng của cháu, thay đổi hướng giường, nói
là nằm thế này để tránh gió độc. Trước khi ra về, bà c̣n dặn con gái
là phải ăn uống thế này thế kia cho có nhiều sữa. Và chớ có cho cháu
ngoại của bà ăn nhiều rau cải kẻo nó đi tướt...
Thực là ḷng cha mẹ thương con cháu như trời
như biển. Chăm lo cho con từ lúc nằm ngửa, phơi chim, cho tới khi
trưởng thành, nên ông nên bà.
Vậy mà cũng có con than phiền, bảo rằng chẳng
để chúng yên, xía vào đời tư của chúng, coi chúng như c̣n thơ dại.
Các cụ coi có tức hay không cơ chứ!!!
Vâng, đó là những cảnh ngộ thường thấy trong mọi
xă hội. Người ta nói tới khoảng cách giữa người già và người trẻ
ngoài xă hội, giữa cha mẹ và con cái trong gia đ́nh.
Sử gia kiêm chính khách Pháp Alexis de Tocqueville
(1805-1859) có nói: “Trong các quốc gia dân chủ, mỗi thế hệ là một
bộ lạc mới (people)”.
Tại các quốc gia Âu Mỹ, có 4 lớp thế hệ được nêu
ra:
-Thế hệ cựu chiến binh sinh ra từ 1922-1943, tôn
trọng truyền thống và sống thích hợp với hậu quả của Thế chiến I.
-Thế hệ trẻ em bùng phát, (babyboomers), nhiều lư
tưởng sanh từ 1946-1964
-Thế hệ X, tự lập, thành thạo kỹ thuật mới, rất
linh động sinh từ 1965-1979,
-Thế hệ Y, millennis ra đời trong thời gian
1980-1994 có thái độ lạc quan, tự tin, thực tế, đa dạng và nghĩ tới
cá nhân nhiều hơn.
Danh từ Generation Gap, Khoảng Cách Thế Hệ được
dùng tại các xă hội Âu Mỹ vào thập niên 1960. Mỗi thế hệ cách nhau
từ 20-30 năm là thời gian trung b́nh để trẻ em lớn lên và thành
người lớn thực thụ.
Tự điển Oxford định nghĩa generation gap là sự
khác biệt về “thái độ” (Attitude) giữa những người ở thế hệ khác
nhau. Thái độ bao gồm sự suy nghĩ và thấy thế nào về một sự việc
hoặc một người nào đó. Như là:
-Sự khác nhau trong quan điểm về nếp sống hoặc
thiếu sự hiểu biết lẫn nhau giữa lớp thanh niên và lớp người già.
- Khác biệt tuổi tác, giữa những người ở giai đoạn
khác nhau của cuộc đời.
-Khác biệt thế hệ, giữa những người sinh trưởng
trong thời gian khác nhau, h́nh thành trong điều kiện xă hội khác
nhau.
Khoảng cách tạo ra những khác biệt về tâm lư, hành
động, và đối xử.V́ họ không hiểu nhau, có những không giống nhau về
chính kiến, kinh nghiệm và bản chất.
Thực ra, chuyện này cũng chẳng có ǵ mới lạ. Nó đă
hiện diện trong nếp sống con người từ lâu, nhưng rơ ràng hơn kể từ
khi có những tiến bộ về khoa học, kỹ thuât.
Thái độ người già
Thuở xưa, khi nhu cầu đời sống được đáp ứng bằng
sức lực và sự khôn ngoan của con người, th́ người già, nói chung,
được trọng nể v́ kinh nghiệm của họ.
Với tuổi đời, họ tích lũy được những hiểu biết về
canh tác săn bắn, về cách sống, về sự đối phó với khắc nghiệt của
thiên nhiên, về quan hệ xă hội cũng như về văn hóa, nghệ thuật. Các
kinh nghiệm này rất cần thiết cho con cháu, mới vào đời, cho nên vai
tṛ của họ được coi như kim chỉ nam cho giới trẻ trong việc mưu sinh,
lập nghiệp.
Ngoài ra, họ cũng là người nắm giữ tài sản gia
đ́nh gịng họ, có quyền sắp đặt, phân phát cho nên sự nhờ vả, tôn
trọng của giới trẻ đối với họ là điều dễ hiểu.
Trong xă hội, có những tôn-ti-trật-tự,
kính-trên-nhường-dưới, nuôi già, dạy trẻ, kính già, già để tuổi cho.
Cha mẹ nào cũng muốn con cái theo gương cha mẹ, để “chẳng giống lông
cũng giống cánh” và để giữ sự kế tục, danh dự ḍng họ. Mà nói đến kế
tục th́ nhiều cụ thấm nhuần Nho học đều muốn ‘hăy nối tiếp, làm theo
và không được thay đổi” những ǵ tiền nhân để lại.
Do đó, cha mẹ nào cũng thích khuyên nhủ, dậy dỗ
con cái. Có nhiều lư do được nại ra để trao cho con những kinh
nghiệm từ bản thân của họ. V́ đă biết rơ con từ tấm bé khi con chưa
biết ǵ, nên cứ giữ ư kiến là con bây giờ cũng c̣n non dại.
V́ lo lắng cho con, sợ con phạm lầm lỗi.
V́ muốn cho là ḿnh c̣n cần thiết cho con cái.
V́ nghĩ rằng khuyên con vẫn c̣n là trách nhiệm và
quyền hạn của cha mẹ.
Và cũng v́ vẫn muốn kiểm soát con cái.
Tuy nhiên, phải vô tư mà thấy rằng, kinh nghiệm
của người già có thể có tính cách chủ quan, cá nhân về một lănh vực
nào đó. Vậy mà nhiều cụ cứ cho là có thể áp dụng trong mọi trường
hợp, vào mọi thời điểm với hoàn cảnh khác nhau.Do đó họ khư khư bảo
vệ ư kiến ḿnh, không chịu chấp nhận ư kiến của trẻ, có thể hợp thời
đại hơn.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật quá tiến bộ, bất cứ
kiến thức mới nào cũng dễ dàng t́m kiếm qua báo chí, internet, do đó
giới trẻ cũng bớt lệ thuộc vào giới già ở học hỏi kinh nghiệm. Khi
đưa ra ư kiến, nhiều khi các cụ có thái độ gia trưởng, truyền lệnh.
Thay v́ “nên thế này thế kia” th́ họ lại “bố mẹ muốn như vậy”.
Họ cũng đa nghi, cho là ư tưởng của giới trẻ không
có căn bản nên không chịu bàn giao công việc, trách nghiệm…
Họ cũng không muốn thay đổi, đảo lộn những sinh
hoạt mà họ đă quen thuộc từ nhiều năm. Thực ra có thể là họ không
thích ứng được với hoàn cảnh mới, kỹ thuật mới và không theo kịp với
mức độ nhậm lẹ của sự việc. Từ đó, hành động của các cụ quá đắn đo,
dè dặt.
Không ít cụ rất dễ xúc động, có mặc cảm tự ty, cho
rằng ḿnh bây giờ đă về hưu, bớt lợi tức, đâu c̣n quyền uy đối với
con cái. Ngày xưa th́ cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó. Giờ đây đổi đ̣i,
con cái đặt đâu, cha mẹ ngồi đó. Chúng tự do lựa chọn phối ngẫu
tương lai rồi thông báo mẹ cha. Đám cưới chúng giới hạn số bạn bè
ḿnh được mời. Muốn tới thăm cháu, phải hẹn trước. Rồi các cụ hờn
dỗi, tủi thân v́ nhiều chuyện vẩn vơ, không đâu.
Thái độ giới trẻ
Bản chất giới trẻ cũng có một số điều cần lưu ư,
như là:
-Có thể nông cạn về lẽ sống
-Nhẹ t́nh cảm gia đ́nh, quê hương, cội nguồn dân
tộc.
-Nhiều hoài băo, không thỏa măn với cái đă có.
Trước hết, phải thừa nhận là con cái bây giờ có
nhiều điểm thuận lợi hơn cha mẹ già. Các con có kiến thức cao, suy
luận thực tế, khoa học hơn, tính t́nh cởi mở, dám nghĩ dám làm việc
khó, việc lớn
Các con khỏe mạnh hơn, nhiều nhiệt huyết hơn, có
thể làm nhiều việc trong một thời gian định sẵn. Tầm nh́n của con
cái thoáng rộng và thực tế hơn. Họ có nhiều dự tính cho tương lai và
luôn luôn nghĩ tới sự tranh đua, phấn đấu.
Đối với cha mẹ, các con cũng có một cái nh́n hơi e
ngại dè dặt, ít thổ lộ, ít tiếp xúc. Lư do là văn hóa giáo dục khác
biệt. Một bên nghiêm khắc, kín đáo, một bên ồn ào cởi mở. Một bên
dùng những ngôn từ “thời đại” mà phía kia, mù tịt, chẳng hiểu ất
giáp ǵ. Như là “phần mềm, ổ cứng”…trong máy computer.
Tuy nhiên, con người dù tài ba đến mấy chăng nữa
cũng phải có nguồn gốc, có cha mẹ:
“Con người có bố, có ông
Như cây có cội, như sông có nguồn”
V́ thế cũng nên luôn luôn nhớ câu “uống nước, nhớ
nguồn”, dù cha mẹ có không hoàn hảo, vẹn toàn.
Vả lại:
“Tuổi già hiu hắt ngọn đèn
Trước cơn gió lớn, sức bền c̣n không”.
Và:
“Sống th́ con chẳng cho ăn
Chết th́ xôi thịt, làm văn tế ruồi”.
Nhiều cháu có thể có cả một kho tàng kiến thức
nhưng nếu được kết hợp với sự thấu đáo, kinh nghiệm, với sự khôn
ngoan của mẹ cha th́ kiến thức của ḿnh sẽ đạt được nhiều thành công
hơn.
Các cháu nhiều sức lực, trí óc tươi trẻ nên hành
động nhanh nhẹn hơn. Nhưng “đi đâu mà vội mà vàng, mà vấp phải đá,
mà quàng phải dây”. Cha mẹ chậm chạp, nhưng đôi khi chậm mà chắc.
Một số cháu cứ nghĩ rằng cha mẹ già yếu, trở thành
vô dụng.
Thực ra già vẫn c̣n sức mạnh của sự già: sức mạnh
của kiên nhẫn, tôi luyện từ nhiều chục năm lăn lội trường đời. Họ
vẫn c̣n khả năng làm việc, nhưng để hoàn tất, họ cần thời gian lâu
hơn. “Có c̣n hơn không”, phải không các cháu?.
Nh́n chung
Nói ra th́ nhiều, nhưng đi vào thực tế, phải công
nhận là có một khoảng cách dài ngắn, những khác biệt nào đó giữa các
thế hệ khác nhau trong cộng đồng, giữa cha mẹ, con cái. Khác biệt về
suy nghĩ, hành động, về quan niệm sống, về cách diễn tả t́nh cảm,
tâm trạng.
Sông có khúc, người có lúc th́ mỗi lứa tuổi cũng
có đặc điểm, cá tính của mỗi thế hệ, mỗi lớp tuổi.
Không nên coi khác biệt đó là mâu thuẫn gây trở
ngại cho hài ḥa gia đ́nh, xă hội mà là một lẽ đương nhiến trong đời
sống, có già có trẻ. Tre già sát cánh măng non. Cũng như có âm th́
có dương, có sáng th́ có tối, có tốt phải có xấu.
Chẳng nên t́m cách xóa bỏ cách biệt mà nên “biết
người biết ḿnh”, để ḥa hợp chung sống.
Thích nghi, chấp thuận với khác biệt của nhau,
miễn là những khác biệt này không mang tính cách hủy hoại lẫn nhau.
Giúp nhau gọt rũa khác biệt cho dần dần ăn khớp
với nhau.
Sẵn sàng lắng nghe nhau, phân tích dị biệt, bàn
căi thẳng thắn rồi chấp nhận nhau.
Tổng kết các điểm đă thông cảm, thỏa thuận thành
đường lối chung cho đại gia đ́nh.
Mọi người nên nghĩ đời sống là một cái ṿng luẩn
quẩn, như diễn tả của bác sĩ Milton Greenblatt (1914-1994), nhà tiền
phong Hoa Kỳ vể chăm sóc sức khỏe tâm bệnh:
“Trước hết, chúng ta là
con của cha mẹ
Rồi là cha mẹ của bầy con
Sau đó sẽ trở lại làm cha mẹ của cha mẹ
Cuối cùng là con của bầy con »
Để mà thông cảm, chung sống với nhau
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos
|