Y Học Dinh Dưỡng
PHO-MÁT
Bác sĩ Nguyễn
Ư Đức
Theo huyền thoại th́ pho mát được một nhà kinh
doanh t́nh cờ khám phá ra cách nay nhiều ngàn năm. Trong một chuyến
đi buôn xa, ông mang theo nhiều lương thực, trong đó có sữa đựng
trong một cái bao tử lạc đà khô.
Một hôm, lấy sữa ra uống th́ thấy sữa đă đông đặc
dưới ảnh hưởng của hơi nóng mặt trời và vài hóa chất c̣n dính lại ở
bao tử lạc đà. Nếm thử “cục sữa” ông ta thấy ngon và béo. Thế là ông
ta t́m hiểu thêm rồi sản xuất món sữa đông rắn này và làm giầu.
Từ đó pho mát được nhiều quốc gia trên thế giới
sản xuất và trở thành món ăn rất phổ thông trong bữa ăn chính, để
tráng miệng, ăn khai vị cũng như ăn vặt trong ngày.
Cách làm
Pho mát có thể làm từ bất cứ loại sữa động vật nào
như cừu, dê, trâu, lạc đà, lừa... nhưng thông thường nhất vẫn là từ
sữa ḅ.
Nguyên tắc làm cũng giản dị.
Vi khuẩn Lactobacilli hoặc Streptococci được cho
thêm vào sữa để chuyển hóa lactose và tạo ra acid lactic. Acid này
làm chất đạm casein của sữa đóng bánh. Một diếu tố lấy từ bao tử ḅ
non được thêm vào rồi để lắng đọng khoảng 24 giờ. Thời gian lắng
đọng càng lâu th́ pho mát càng chắc hơn.
Sau đó cục casein được vắt bớt nước đi rồi đun
nóng cho bay hơi, làm pho mát cứng hơn nữa.
Thế là ta đă có miếng pho mát tươi. Loại pho mát
này chưa ngấu, dễ hư nên cần được để trong tủ lạnh và chỉ dùng trong
dăm ngày. Pho mát được ăn chung với sà lách, bánh ḿ hoặc để nấu.
Muốn có phó mát ngấu, phải lấy bớt chất lỏng ra
bằng muối rồi chế thêm vi khuẩn Penicillum camembert ( pho mát
Camembert, Brie) hoặc vi khuẩn Penicillium roquefort ( pho mát
Roquefort, Blue cheese).
Chế biến pho mát là một phương thức giúp chúng ta
chuyển một thực phẩm dễ hư là sữa, sang một thực phẩm ít bị hư hơn
và đồng thời cũng là cách để dành sữa dưới dạng có thể giữ được lâu.
Các loại pho mát
Pho mát được phân loại theo nhiều cách.
Pho mát tươi như cream, cottage cheese và pho mát
ngấu như Chedda, Swiss, Camembert, Gorganzola,
Thông thường nhất là phân loại tùy theo sự cứng
mềm hoặc độ ẩm của pho mát:
Pho mát mềm như Cottage, Ricotta, cream; Trung
b́nh như Morazella, Blue, Camembert, Pizza, Edam, Swiss, Chedda,
Provolone; Cứng như Dry Ricotta, Mysost, Romano, Parmesan.
Dinh dưỡng
Pho mát giữ nguyên được các chất dinh dưỡng từ sữa
đă sản xuất ra chúng: chất đạm với các amino acid cần thiết, ít chất
béo và cholesterol hơi cao. Hầu hết pho mát có nhiều sinh tố A.
Calci có nhiều trong pho mát rắn, ít trong pho mát mềm.
Trung b́nh 30gr pho mát cung cấp 100 calori, 180mg
calci, 8gr chất béo, 9gr chất đạm.
Chất béo làm pho mát có hương vị hấp dẫn đặc biệt
nhưng cũng gây ra vài không tốt cho sức khỏe. Ngày nay có pho mát ít
chất béo hoặc pho mát làm từ sữa đậu nành.
Ăn pho mát
Pho mát thường được dùng như món ăn chơi hoặc trộn
lẫn với thực phẩm khác như đậu, rau, ḿ sợi, bánh ḿ , chứ không
dùng làm món ăn chính, mặc dù có nhiều chất dinh dưỡng.
Vài điểm cần lưu ư.
a-Một vài loại pho mát như Cheddar, Swiss,
Rocquefort có thể bảo vệ răng khỏi bị sâu. Pho mát kích thích nước
miếng tiết ra để trung ḥa acid do vi sinh vật trong miệng tác dụng
trên thức ăn kẹt trong răng. Acid này ăn ṃn men răng, khiến răng
mau hư.
b-Bác sĩ thường khuyên người bị cao huyết áp, cao
cholesterol, nặng quá kư không nên ăn pho mát v́ có nhiều chất béo
và muối sodium.
c-Ai bị dị ứng với Penicillin không nên ăn blue
cheese v́ pho mát này được làm với tác dụng của nấm penicillin.
đ-Pho mát có nhiều tyramine, một hóa chất làm động
mạch co thắt và có thể gây ra cơn cao máu bất th́nh ĺnh, nhất là ở
bệnh nhân dùng thuốc trị trầm cảm dạng ức chế monoamine oxidase
inhibitors (MAO inhibitor).
Tyramine có nhiều trong các loại pho-mát
Camembert, Cheddar, Roquefort, Blue; rất ít trong Cottage, cream
cheese.
e-Khi mua, lựa pho mát bầy trong ngăn tủ lạnh, coi
kỹ ngày bán và ngày tiêu thụ; không mua loại bị mốc meo, ngoại trừ
khi meo là thành phần cấu tạo của pho mát như blue cheese.
g-Về nhà nên cất pho mát vào tủ lạnh, gói kín để
khỏi khô. Cất gói cẩn thận, pho mát rắn có thể để dành sáu tháng,
c̣n pho mát mềm nên dùng trong ṿng một tuần.
KEM.
Kem (Ice cream) vẫn là món tráng miệng được ưa
thích của nhiều người.
Có nhiều loại kem khác nhau, nhưng thông dụng nhất
là vanilla, chocolate, dâu, xoài riêng. Kem sữa bột ngô ( custard),
nước trái cây(Sherbet) và sữa để đông lạnh cũng là những món tráng
miệng hấp dẫn.
Theo tiêu chuẩn, kem phải có ít nhất 10% chất béo
và 20% chất đạm của sữa.
Chất béo tạo ra một hương vị ngầy ngậy vàvẻ mịn
mặt của kem. Càng nhiều chất béo, kem càng ngon.
Chất đạm là phần chính trong cấu trúc của kem.
Kem có nhiều calci, một ít riboflavin và sinh tố
A.
Một nửa cup kem vanilla có 180 calori, 12gr chất
béo, 2gr chất dạm, 76mg calci.
Kem cần được giữ kín trong b́nh giấy hoặc b́nh
nhựa ở nhiệt độ đông lạnh. Giữ như vậy có thể dùng dần được một tuần.
Khi hộp kem đă mở, th́ phải đậy cho kín để tránh bốc hơi, kem sẽ bị
khô.
BƠ
Bơ được làm bằng cách đánh nhuyễn chất béo của sữa
đă khử trùng.
Theo tiêu chuẩn chung, bơ phải có ít nhất 80% chất
béo của sữa. Chất béo của bơ có 62% là béo băo ḥa, 35% đơn bất băo
ḥa và 4% đa bất băo ḥa.
Một muỗng ăn canh bơ có 11gr chất béo, 7gr chất
béo băo ḥa, 31gr cholesterol và 1100 IU sinh tố A.
Bơ có thể có muối hoặc không có. Khi không có muối
th́ phải ghi rơ là bơ không muối mà nhiều người quen gọi là bơ ngọt.
Bơ được phân chia ra làm loại A và AA. Loại AA th́
thơm, dịu ngọt, mịn mặt và dễ phết mỏng hơn loại A.
Nên giữ bơ trong giấy bao kín để tránh không khí
và lẫn mùi thực phẩm khác trong tủ lạnh. Mặc dù để trong tủ lạnh,
chất béo trong bơ cũng tác dụng với oxy làm bơ có mùi dầu khét. Ánh
sáng và hơi nóng cũng làm bơ mau khét.
Gói kín cất trong tủ đá, bơ để dành được cả bốn,
năm tháng.
Bơ cũng được dùng để rán thực phẩm nhưng đun lửa
quá nóng bơ sẽ bốc khói và thành mầu vàng cháy. Bơ không dùng để
chiên ngập (deep fried) như dầu mỡ được.
Margarin
V́ bơ có nhiều chất béo băo ḥa, có nguy cơ gây ra
nhiều bệnh tim mạch, ung thư nên nhiều người đă chuyển sang dùng
margarin. Hầu hết margarin được chế biến từ dầu thực vật.
Margarin được một nhà hóa học Pháp là Hippolyte
Mege-Mouries chế tạo ra vào năm 1870 khi hoàng đế Nă Phá Luân III (
1808 –đăt1873) treo giải thưởng cho ai có thể làm ra một loại bơ
khác với bơ từ sữa ḅ.
Margarin được làm bằng cách trộn đánh chất béo
lỏng với sữa không chất béo đă khử trùng, rồi thêm một vài gia vị
thơm.Thường thường khoảng 15,000 IU sinh tố A được cho thêm vào
margarine.
Năm 1993, các nhà nghiên cứu tại Đại Học Harvard
đă nêu ra một nghi vấn về sự an toàn của margarin và cho là một vài
loại có thể gây ra bệnh tim nhiều hơn là bơ thật.
Thông tin này làm cho người tiêu thụ cảm thấy bối
rối, không biết nên dùng bơ hay margarin. Có điều chắc chắn là bơ
cho nhiều hương vị hơn là margarin. Nhưng margarin có nhiều chất béo
bất băo ḥa hơn bơ do đó lành hơn, nhất là loại margarin mềm. Nếu
margarin lại được làm từ dầu cây canola, hướng dương ( sunflower),
dầu ngô th́ lại càng tốt hơn nữa.
Cả bơ và margarin đều cho một số calori bằng nhau.
Khi margarin lỏng được chuyển sang rắn th́ lại có
nhiều chất béo băo ḥa Trans Fatty acid. Đây là chất mà nhiều người
cho là có thể làm tăng cholesterol trong máu.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos
|