Câu Chuyện Thầy Lang
Thuốc Vờ
Bác sĩ Nguyễn
Ư Đức
Những viên “thuốc” không có dược liệu chính xác (hoạt
chất) , “vô thưởng vô phạt” được gọi là “Thuốc Vờ”,“Giả
Duợc”, “Thuốc Trơ”, tiếng Anh, tiếng Pháp gọi là
“PLACEBO”.
Trong ngôn ngữ La Tinh, PLACEBO có nghĩa là “Tôi
sẽ hài ḷng”.
Thánh Kinh có lời cầu xin “Placebo Domino: in
regione vivorum- I will please our Lord in the country of the
living”-Tôi sẽ làm hài ḷng Chúa.
Về Placebo
Placebo là một hiện tượng khá phức tạp, được
nghiên cứu từ nhiều thế kỷ với nhiều tranh luận, bất đồng ư kiến về
sự lợi hại và nguyên lư tác động.
Vào hạ bán thế kỷ 18, từ ngữ Placebo xâm nhập
ngành y dược. Năm 1787, tự điển Quincy định nghĩa placebo như một
phương thức có mục đích làm vui ḷng người bệnh hơn là điều trị.
Từ điển y học định nghĩa placebo là bất cứ chất
xoàng xĩnh, vô dụng nào đó có h́nh dạng dược phẩm được trao cho bệnh
nhân với giới thiệu là có tác dụng chữa bệnh.
Theo nhiều tác giả, placebo lúc đầu là để chỉ một
chất hoặc một phương thức “trơ” (inert), được dùng trong thử nghiệm
hoặc trong y khoa học để kiểm chứng công hiệu của một loại dược phẩm
hoặc để làm dịu một bệnh.
Khi thử nghiệm, một nhóm người được cho dùng dược
phẩm thực, nhóm thứ hai nhận viên tương tự nhưng không có hoạt chất.
Nếu nhóm dùng thuốc có kết quả tốt hơn so với nhóm
kia th́ thuốc có tác dụng trị bệnh. Người tham gia chương tŕnh đều
không biết ḿnh dùng chất ǵ. Đôi khi chính người điều khiển thử
nghiệm cũng không biết.
Thuốc “trơ”được dùng cho những người luôn luôn
than phiền đau ốm (bệnh tưởng -hypochondria), luôn luôn đ̣i hỏi
thuốc mà bác sĩ không t́m ra nguyên nhân, triệu chứng.
Hiện nay, hiệu quả placebo được hiểu rộng răi hơn
và bao gồm tất cả các phương thức được áp dụng để trị bệnh mặc dù
từ bản chất chúng không có tác động nào. Đây có thể là một viên
đường, một cục kẹo, một dung dịch nước pha muối, đường, một bữa ăn
đặc biệt hoặc một phẫu thuật “cuội”.
Nghiên cứu về placebo
Đă có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của thuốc trơ.
Năm 1955, bác sĩ chuyên khoa tê mê Henry K.
Beecher tại Đại học Harvard, Boston đă phân tích 26 nghiên cứu về
thuốc trơ và thấy 35% trong số 1,082 bệnh nhân bị đau nhức, buồn rầu,
đau bụng cho hay là họ thỏa măn với loại thuốc vô thưởng vô phạt này.
Ông đă công bố kết quả trên Tạp san của Hội Y Học Hoa Kỳ dưới tiêu
đề “The Powerful Placebo”, được nhiều người tham khảo, nhắc nhở.
Năm 1960, một nghiên cứu khác cho hay khi bệnh
nhân uống một chất được nói là có tác dụng kích thích th́ huyết áp
của họ lên cao, nhịp tim nhanh. Trái lại khi nói là thuốc ngủ th́ có
phản ứng ngược lại.
Trên báo The New York Times Magazine ngày 9 tháng
1 năm 2000, tác giả Margaret Talbot đă kể lại kết quả nhiều quan sát
về thuốc trơ, trong đó có trường hợp một số bệnh nhân bị viêm ruột
già dùng thuốc vờ và 52% bệnh nhân cho biết họ cảm thấy khá hơn.
Hai khoa học gia Asbjorn Hrobjartsson và Peter C.
Gotzsche phân tích 114 nghiên cứu từ năm 1946 tới 1998 với ba nhóm
người có 40 loại bệnh khác nhau: nhóm 1 chữa bằng thuốc đặc nhiệm
cho bệnh, nhóm 2 chữa với chất trơ, nhóm 3 không thuốc không giả
dược. Kết quả là nhóm 3 có người cũng lành bệnh như nhóm thứ 2.
Một số nghiên cứu cho hay, người bị nhức đầu, đau
lưng, viêm khớp, trầm cảm nói có thể thuyên giảm khi dùng giả dược.
Hoặc placebo cũng có thể làm hạ cao huyết áp, nhiệt độ trên da, nhịp
tim, cholesterol trong máu.
Ngày 4 tháng 1, 2008, nghiên cứu do bác sĩ John
Hickner cho hay 45% bác sĩ tại ba bệnh viện ở Chicago đều cho bệnh
nhân dùng giả dược và 95% các bác sĩ cho biết là bệnh nhân thấy dấu
hiệu bệnh giảm rất nhiều.
Placebo tác động ra sao?
Nguyên lư chính xác của hiệu quả placebo chưa được
biết rơ. Một số giả thuyết cho rằng placebo có tác động sinh hóa và
tâm lư.
Decartes (1596 A.D.-1650 A.D.) có nói “I think,
there for, I am”- nghĩ sao, là vậy.
Đức Phật Thích Ca (560B.C-480B.C.) cũng nói: “You
are what you think, having become what you though”. Tất cả đểu từ
tâm trí mà ra.
Tương tự như vậy, khi tiếp nhận một phương thức
trị liệu nào đó, bệnh nhân đều ở trong tâm trạng “mong
đợi”(expectation) và hy vọng có một mầu nhiệm giúp họ hết bệnh. Sự
trông đợi này có thể thay đổi hành vi của họ, đồng thời cũng có thể
tạo ra vài thay đổi sinh hóa học trong cơ thể, giúp giảm triệu chứng
bệnh. Và bệnh nhân hài ḷng, tương tự như niềm tin “cầu được, ước
thấy”.
Theo Robert DeLap, Giám đốc Nghiên cứu của Cơ quan
Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA): “Sự mong chờ là yếu tố rất mạnh.
Càng đặt nhiều tin tưởng vào một trị liệu th́ càng thấy trị liệu có
vẻ hữu hiệu hơn”.
Sự tin tưởng, hy vọng ở thuốc vờ có thể khích lệ
bệnh nhân thay đổi nếp sống, chịu khó chăm sóc sức khỏe, vận động
đều đặn, giữ ǵn trong sự ăn uống.
Niềm hy vọng khỏi cũng thay đổi sự cảm nhận với
bệnh. Họ sẽ diễn tả t́nh trạng bệnh nhẹ hơn. Nói chung, họ sẽ có
nhiều ư nghĩ tích cực và ít ư nghĩ tiêu cực.
Tiêu cực khiến người quá ám ảnh, tập trung vào dấu
hiệu khó khăn của ḿnh. Trong khi đó, sự tích cực sẽ tạo ra động lực
muốn thay đổi, đưa tới thay đổi sinh hóa trong cơ thể, như là tăng
chất giảm đau endorphins, tăng khả năng bảo vệ của hệ miễn dịch,
giảm chất gây căng corticosteroid. Endorphins mang tín hiệu thần
kinh, lưu hành trong máu, tới cơ quan nội tiết, hệ miễn dịch. Các cơ
quan này lại sản xuất ra một số hóa chất có tác dụng giảm dấu hiệu
bệnh.
Theo nhiều tác giả, phản ứng của người bệnh với
thuốc trơ cũng có thể là một phản xạ có điều kiện, được huấn
luyện, theo thói quen. Trước đây, được cho uống loại thuốc thật
th́ thấy hết bệnh. Bây giờ cứ thấy có thuốc giống như vậy là đă cảm
thấy nhẹ bớt. Phản ứng này tương tự như con chó trong thử nghiệm của
khoa học gia người Nga Pavlov: khi cho ăn kèm theo tiếng chuông reo,
miệng chó tiết ra nước miếng. Lâu ngày, chỉ nghe tiếng chuông là
nước miếng con chó đă tiết ra, dù không có thức ăn.
Tâm lư gia Irving Kirsch, Đại học Connecticut, cho
rằng placebo là do “tin tưởng” ở sự điều trị hoặc cảm giác dễ chịu
chủ quan khi dùng một chất nào đó.
Giáo sư Michael Jospe nhận thấy rằng khi dán một
băng keo có một h́nh ảnh vui vui lên vết thương của em bé, th́ em bé
cảm thấy ít đau hơn, dù h́nh này không có tác dụng trị liệu nào.
Kỹ thuật chụp h́nh ảnh X-quang năo cho thấy sự suy
nghĩ và sự tin tưởng không những ảnh hưởng tới tâm trạng mà c̣n tạo
ra sự thay đổi sinh hóa trong năo bộ.
Theo nhà nghiên cứu Arthur Shapiro, placebo có
mục đích làm bệnh nhân yên tâm nhiều hơn là trị bệnh v́:
-Bệnh có thể đột nhiên hết sau khi lên cao điểm,
đúng vào lúc dùng giả dược
-Bệnh tăng giảm bất thường, dùng placebo đúng vào
lúc bệnh thuyên giảm
-Bệnh khá hơn nhờ khả năng tự chữa qua hệ miễn
dịch.
Một bằng chứng là bệnh cảm cúm nhiều khi không cần
thuốc men mà chỉ cần nghỉ ngơi mươi ngày cũng hết. Trong bệnh ban đỏ
lupus, có nhiều thời kỳ bệnh thuyên giảm dù có dùng thuốc hay không.
Có nhiều người, chỉ mới gặp bác sĩ gia đ́nh thân
quen đă cảm thấy dễ chịu, v́ họ tin tưởng ở vị lương y này. Chỉ với
một cử chỉ vỗ về thân thiện, một lời nói an ủi của bác sĩ đôi khi
cũng làm bệnh khá hơn v́ làm giảm lo âu, khó khăn của người bệnh.
Phẫu thuật “vờ”
Ngoài thuốc vờ, c̣n có phẫu thuật trị liệu vờ
(Sham surgery).
Cách đây hơn 40 năm, bác sĩ chuyên khoa tim
Leonard Cobb tại Seattle thực hiện thử nghiệm rạch lồng ngực, nối
hai động mạch để tăng máu tới tim. Kết quả là 90% bệnh nhân cho hay
bớt đau ngực.Trong khi đó, một số bệnh nhân chỉ được rạch ngực mà
không nối động mạch cũng cảm thấy bớt bệnh.
Áp dụng thực tế
Một câu hỏi được nêu ra là nếu placebo hữu hiệu
th́ tại sao các bác sĩ không áp dụng trong trị liệu. Và khi nào bác
sĩ có thể cho rằng placebo là phương thức trị liệu tốt cho bệnh nhân?
Thực tế ra, ngày nay, vô t́nh hoặc hữu ư, nhiều
bác sĩ cũng dùng placebo để trị bệnh. Chẳng hạn, họ cho bệnh nhân bị
cảm cúm uống kháng sinh, dù họ biết là kháng sinh không có tác dụng
tiêu diệt virus. Có phải v́ trong lời thề Hippocrates có ghi thầy
thuốc “sẽ áp dụng tất cả kiến thức hiện có vào phương thức trị liệu
tốt nhất đối với bệnh nhân”.
Một triết gia Pháp viết “Nghệ thuật trị bệnh là
làm vui ḷng bệnh nhân để thiên nhiên chữa dứt bệnh”. Nhận xét này
có liên hệ ǵ tới placebo không? Liệu có hợp lư khi y giới cho bệnh
nhân một loại thuốc biết chắc là không công hiệu.
Hiệu quả thuốc vờ thay đổi theo một vài hoàn cảnh:
-Thường thường, viên thuốc vờ lớn công hiệu hơn
viên cùng loại nhưng nhỏ; viên mầu hồng mầu đỏ mạnh hơn viên mầu
xanh; uống hai ba viên một lúc có hiệu quả hơn là uống một viên.
-Thuốc chích hữu hiệu hơn thuốc uống.
-Thái độ của bệnh nhân: ḷng tin tưởng, sự tự
nguyện và hy vọng có kết quả tốt khiến cho hiệu năng placebo cao hơn.
-Tương quan bác sĩ-bệnh nhân: tin tưởng ở thầy th́
bệnh nhân mau khỏi (phúc chủ lộc thầy), bác sĩ cho thuốc th́ tốt hơn
là do người thường cho.
Ư kiến khác biệt
Hiệu quả placebo cũng nhận nhiều phản bác.
-Sử gia tôn giáo Lawrence Sullivan, Harvard
Divinity School, có ư kiến rằng placebo là thùng rác độc hại mà
không ai muốn nhận. Ngay cả các “lang băm” cũng cảm thấy bị nhục mạ
khi có người nói “tài ba” trị bệnh của họ là do hiệu quả của thuốc
vờ.
-Kết quả nghiên cứu của Asbjorn Hrobjartsson và
Peter C. Gotzsche, Đan Mạch, công bố trên The New England Journal of
Medicine tháng 5 năm 2001 cho hay có rất ít bằng chứng là placebo có
tác dụng trị bênh. Đi xa hơn, giáo sư Hrobjartsson c̣n kết luận rằng
hiệu quả placebo được công bố đều có một nhầm lẫn nào đó trong
phương thức nghiên cứu v́ số người được thử nghiệm quá ít và nhiều
khi bệnh nhân trả lời cho vui ḷng nhà nghiên cứu.
-Có thắc mắc rằng hiệu quả placebo liệu c̣n tồn
tại nếu liều lượng thuốc vờ tăng hoặc giảm, nếu dùng trong thời gian
lâu ngày hoặc nếu nói cho người bệnh biết là họ đang dùng thuốc vờ.
Kết luận
Do đó, nhiều nhà chuyên môn không đồng ư việc bác
sĩ dùng thuốc vờ để trị bệnh. Theo họ, làm như vậy là lừa dối bệnh
nhân, chẳng khác chi ta khuyến khích người trồng nho cho rượu giả
vào chai, nhà báo tường thuật nhẹ hơn về một vấn đề thời sự quan
trọng.
Hội Y Học Hoa Kỳ (AMA) khuyến cáo là các bác sĩ
chỉ cho dùng giả dược khi bệnh nhân biết và đồng ư, chứ không nên
dùng để xoa dịu bệnh nhân.
Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
www.bsnguyenyduc.com
http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos
|