Câu Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ Nguyễn Ư-ĐỨC
Trái Tim thi ca- Trái Tim Khoa học
Một khoa học gia có ư kiến là khi nói tới trái tim, nhiều người thường nghĩ tới hai khía cạnh: thi ca và khoa học.
V́ trái tim được coi như cái nôi của t́nh cảm yêu thương, của ḷng trắc ẩn nhưng trái tim cũng là một máy bơm rất công hiệu.
Mà nói tới t́nh cảm từ trái tim th́ thi ca đă có nhiều diễn tả trong ít nhất là năm khía cạnh “ Hỉ, nộ, ái, ố, lạc”. Riêng với t́nh yêu nam nữ th́ nhiều không kể, nhất là t́nh yêu dang dở, đoạn trường.
Nhà văn người Anh Edward G Lytton viết: “Một trái tim ngây thơ là một vật mỏng manh, và chỉ một lời thề ước giả dối có thể làm tan nát nó”
Cho nên ta thấy những tim tan nát, tim đau, tim phai, tim lạnh trong các vần thơ quư giá của văn chương Việt Nam. Như là:
T.T.KH trong mối t́nh tan vỡ giữa người con gái vườn Thanh với chàng nghệ sĩ; nàng gạt nước mắt xe duyên với người chồng luống tuổi:
“Bảo rằng : Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ t́nh ta cũng thế thôi” -Hai Sắc Hoa Ty-Gôn
và:
“Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng”
Để rồi:
“Biết chăng chị? Mỗi mùa Đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em.
Vẫn c̣n thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng” -Đan Áo Cho Chồng
V́
“Biết đâu tôi một linh hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi”
Để :
“Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật ḿnh”.
Cảm thông hoàn cảnh, nhà thơ Thâm Tâm đáp lại:
“Một cánh hoa xưa màu hy vọng
Nay c̣n dư ảnh trái tim đau” Màu Máu Ty-Gôn.
Chỉ trong một bài thơ “Tim Em” mà Tương Phố của “ Đôi ta ân ái lỡ làng, Giữa đường sinh tử đoạn trường chia hai”, đă bốn lần nói tới trái tim thương tích:
“ Tim em tan nát từ năm ấy” ;rồi
“ Em biết tim em đă nát rồi” và
“ Tim nát, thời gian lặng lẽ qua”; do trách nhiệm người mẹ phải:
“V́ đứa con côi em phải sống,
Nuôi con rỏ lệ máu tim ḥa”
Tâm sự của Nguyễn Vĩ trong cuộc đời phiêu lăng cô quạnh ngày đêm không bến bờ th́:
“Tim đọng tuyết, ră rời tan từng mảnh,
Đêm sầu về tê lạnh lắm, đêm ôi”! Nguyễn Vỹ- Đêm Sầu Về
Thanh Tịnh trong T́nh yêu th́:
“Nhưng, thời gian xóa vết yêu thương,
Trong quả tim t́nh tắm lệ sương”.
Dù Muộn màng, Xuân Diệu vẫn muốn:
“Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc
Anh chỉ xin về một chút hương”.
Nhà thơ b́nh dân quần chúng Nguyễn Bính chung t́nh với:
“Tim ai khắc một chữ “nàng”
Mà tim chị một chữ “chàng” khắc theo”-Lỡ Bước Sang Ngang
Huy Cận-Tŕnh bày nỗi thống khổ ở trần gian sau khi chết để “ thuở trần gian- xin Thượng Đế thương tôi”:
“Trước Thượng Đế hiền từ tôi sẽ đặt
Trái tim đau khô héo thuở trần gian”.
Và Huy Thông
“ Nhưng than ôi! Tháng ngày càng tan...biến
T́nh vẩn vơ càng quyện Trái tim đau”
Đó là vài trong số cả trăm vần thơ nói tơi con tim.
Nhạc sĩ th́ cũng “ Con tim chân chính không bao giờ biết nói dối”- Đêm Nguyện Cầu -Lê Minh Bằng hoặc Trịnh Công Sơn với “Mặt trời nào soi sáng tim tôi”.
Các nhà tư tưởng cũng nói nhiều tới trái tim với cuộc đời.
Trong L’Homme et l’Amour, Paul Geraldy nêu ra là “ Có những thân thể và khuôn mặt toàn hảo nhưng không có những con tim toàn hảo”
La Rochefoucauld lại nhận thấy “ Trí óc luôn luôn bị con tim đánh lừa”
Nhà chính trị W. Churchill quan niệm “một trái tim để thương xót và một bàn tay để ban phúc”.
Ngoài ra c̣n trái tim thiêng liêng Từ bi, Trái tim Vô Nhiễm... mà người người kính trọng, như Trúc Lang trong:
“Xưa ấy con tim tôi nhập thể:
T́nh Yêu như tượng đá Đồng Trinh!”- Tôi Viết Thơ T́nh Yêu.
Chẳng hiểu các lương y, các chuyên viên giải phẫu khâu vá những mảnh tim tan tác như vậy ra sao, nhưng có điều chắc chắn là người trong cuộc cũng chịu nhiều tổn thương thể chất.
V́ về phương diện y khoa học th́ các chức năng của khối thịt rỗng ruột, lớn bằng hai nắm tay, nặng khoảng 300 gr, chịu nhiều ảnh hưởng của cảm xúc vui buồn, phẫn nộ.
Đông y ta vẫn thường quan niệm: “Mừng hại tâm, giận hại can, lo nghĩ hại tỳ, buồn rầu hại phế, sợ hăi hại thận” hoặc “Tâm bất lăo”, “Lạc giả trường thọ, ưu giả dị yểu”.
Bên Tây y th́ từ thế kỷ 16, y sư Hoàng Gia Anh Quốc William Harvey đă có nhận xét: “Bất cứ tâm bệnh nào với đau đớn hoặc lạc thú, hy vọng hoặc sợ hăi đều tạo ra các khích động không tốt cho trái tim”.
Vào thập niên 1920, Walter Cannon đă diễn tả phản ứng “cầm cự hay bỏ chạy-fight or flight” của con người trước một thách đố, hiểm nguy.
Đầu thập niên 1930, Wilhelm Raab đă chứng minh những rủi ro gây ra do sự quá nhiều các kích thích tố adrenaline và cortisol trong cơ thể.
Rồi tới năm 1956, Hans Selye đă sử dụng từ ngữ “STRESS” cho hậu quả của các t́nh trạng căng thẳng đối với cơ thể.
Tới năm 1974, sau nhiều nghiên cứu t́m ṭi, các bác sĩ Meyer Friedman và Ray Rosenman lại t́m ra sự liên hệ giữa hành vi của con người với trái tim trong lồng ngực.
Trước đó, và ngay cả bây giờ, người ta thường nói tới các nguy cơ bệnh tim như cao huyết áp, mập ph́, tiểu đường, khói thuốc lá. Nhưng các rủi ro này chỉ là phân nửa của nguyên nhân đưa tới bệnh tim. Trong nửa phần c̣n lại, phải nói tới các u sầu, căng thẳng, các stress, một sản phẩm của tiến bộ khoa học, của thời đại tân tiến.
Các thầy thuốc Friedman và Rosenman đă tả nhóm người có hành vi cư xử loại A và loại B (Type A & B behavior).
Loại A là những người hay tức giận, nộ khí xung thiên, nộ vi lôi đ́nh. Họ luôn luôn nóng nẩy, khó chịu, đầy ác cảm, mặt mày nhăn nhó, nói năng ồn ào, ngắt lời người khác, mắt đảo ngược liên hồi. Ngược lại người của nhóm B th́ ôn ḥa, b́nh thản, nghe nhiều hơn nói và đầy thiện cảm.
Theo hai tác giả, 15% những người thuộc nhóm A dễ bị cơn suy tim, so với nhóm B chỉ có 7%.
Viện Sức Khỏe Quốc Gia Hoa Kỳ kết luận là người hành vi nhóm A có nguy cơ gây ra bệnh tim ngang ngửa với các rủi ro khác.
Rồi đến tâm bệnh trầm cảm.
Trầm cảm là một trong nhiều hậu quả trầm trọng của các bệnh về tim cũng như tai biến động mạch năo. Quá bán nạn nhân thoát khỏi lưỡi hái tử thần v́ stroke đều rơi vào ṿng buông xuôi, u sầu, chán nản. Trong khi đó th́ người có bệnh tim mà trầm buồn th́ tim bị tổn thương nhiều hơn.
Nghiên cứu kéo dài trong 27 năm trên 270 người tại Đan Mạch cho thấy bị bệnh tim cộng với trầm cảm sẽ bị cơn suy tim-heart attack nhiều hơn tới 70% và nguy cơ tử vong cao hơn người không trầm cảm tới 60%.
Một nghiên cứu khác với 222 nạn nhân sống sót sau cơn suy tim, công bố trên Tạp Chí Y Học Hoa Kỳ JAMA, cho hay là 6 tháng sau khi nhập viện th́ tỷ lệ tử vong do trầm cảm lên đến 17% trong khi đó không trầm cảm chỉ có 3%. Cũng ở nhóm này, 18 tháng sau khi nhập viện, nguy cơ tử vong v́ bệnh tim cao hơn ở những người bị trầm cảm tới 14% so với người không buồn sầu.
Ngoài ra, người đè nén cảm xúc cũng hay mắc bệnh tim hơn người cởi mở, dễ dàng thích nghi và tử vong của họ cũng nhiều hơn tới bốn lần.
Tại sao cảm xúc lại ảnh hưởng tới trái tim như vậy?
Sinh Hóa Học đă chứng minh rằng các cảm xúc mạnh kích thích tuyến thượng thận tiết ra hai kich thích tố cortisol và adrenaline nhiều hơn. Trong đoản kỳ, sự tăng kích thích tố này rất cần cho cơ thể đối phó với khó khăn khẩn cấp, nhất thời.
Nhưng nhiều cortisol quá sẽ đưa tới rối loạn nhịp tim và nếu kéo dài sẽ đưa tới cơn suy tim (heart attack). Cortisol cũng khiến cơ thể tích tụ chất béo ở bụng thay v́ ở hông và nâng cao nguy cơ bệnh tim mạch.
Nhiều adrenaline sẽ làm tăng huyết áp và cholesterol xấu LDL, tăng nguy cơ máu đóng cục, làm tim đập nhanh hơn và sức co bóp mạnh hơn, co hẹp mạch máu. Nạn nhân hay bị hồi hộp, lo sợ, nhức đầu, tay chân run rẩy. Nếu liên tục, các thay đổi trên đều khiến tim làm việc nhiều hơn và đưa tới bệnh hoạn cho cái bơm huyền diệu này.
Ấy là chưa kể, người bị xúc cảm mạnh nhiều khi không để ư tới sức khỏe, không uống thuốc như lời khuyên của thầy thuốc, ăn uống, ngủ nghỉ bất thường nên bệnh trầm trọng. Nhất là trong trường hơpỉ “sầu đong càng lắc càng đầy” v́ “ Giết nhau chẳng cái dao cầu; Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa”- Cung Oán Ngâm Khúc.
Kết luận.
Nói vậy th́ trái tim máy móc của ta cũng chịu nhiều ảnh hưởng của trái tim cảm xúc, tốt cũng có mà xấu cũng không phải là ít.
Mà ở đời th́ nào ai muốn chuyện xấu.
Cho nên “Nuôi cái tâm th́ không ǵ hay hơn là ít tham muốn”, như Mạnh Tử nói.
Hoặc, cũng lại người Mạnh Tử: “Nhân hữu kê khuyển phóng, tắc cầu chi; hữu phóng tâm nhi bất tri cầu, ai tai!”. Mất con gà con chó c̣n cất công đi t́m, mà để tâm ḿnh lạc lối lại không biết mang về đường phải, tai hại thay!.
Alfred de Musset th́:
“Le coeur d’un homme vierge est un vase profond.
Lorsque la premie`re eau qu’on y verse est impure,
La mer y passerait sans laver la souillure,
Car l’abime est immense et la tache est au fond”
Khi trái tim bị hoen ố th́ nước đại dương nào rửa sạch được. Nói chi đến hậu quả bệnh tật của tim do quá nhiều “Hỉ, nộ, ái, ố, lạc” gây ra.
Bác sĩ Nguyễn Ư-ĐỨC
Texas –Hoa Kỳ
|