Từ
Bắc Kỳ Di Cư tới Tỵ Nạn Chính Trị.
Bác sĩ Nguyễn
Ư Đức
Sau đây là bài viết về
mấy sự kiện lịch sử của quê hương Việt Nam trong hơn thế kỷ vừa qua.
Dù được viết vào 10 năm về trước, tháng 4 năm 2004, nhưng đọc lại
thấy vẫn c̣n thấm thía về số phận hẩm hiu của quê hương ḿnh. Hết
lạc hậu chậm tiến tới Bắc thuộc rồi đô hộ bóc lột bởi “bạch quỷ” Tây
phương lại đến nạn quỷ đỏ độc tài tham nhũng hiện nay kèm theo hiểm
họa đồng hóa của Bắc phương. Xin phổ biến lại để bà con cùng đọc.
Nhân dịp
kỷ niệm 50 năm di cư từ Bắc vào Nam, lang tôi xin ra ngoài lănh vực
y học, ghi lại vài hàng về biến cố đau buồn này. Để khỏi “Lạc Bất Tư
Thục”, ham vui mà quên cả quê hương, bản quốc...Một quê hương c̣n
nhiều tai ương.
Đang giờ
học Việt Văn của giáo sư Nguyễn Tường
Phượng, th́ tôi được nhân viên pḥng Giám Học kêu xuống gặp người
nhà. Tôi học lớp Đệ Tam ban A Trung Học Chu Văn
An ở Hà Nội.
Tới văn pḥng, tôi thấy bố tôi đang ngồi nói
chuyện với Thầy Hiệu Trưởng Vũ Ngô Xán và Thầy Giám Học Vũ Đức Thận.
Bố tôi quen với hai cụ qua người anh họ tôi là ông Vũ Ngọc Các, chủ
nhiệm báo Dân Chủ ở đường Gia Long Hà Nội. Bố cho tôi hay là
đă xin phép hai cụ để cho tôi nghỉ học sớm và theo ông
về quê có việc.
Hai bố
con về nhà tôi trọ để thu xếp đồ đạc rồi ra bến xe đ̣ về tỉnh Hải
Dương. Trên đường đi, bố tôi cho hay là phải di cư vào Nam ngay v́
Việt Minh sắp tiếp thu Hà Nội và các tỉnh bên đây Bến Hải.
Người quốc gia chỉ có mấy tháng để di cư.
Vào thời
gian đó, t́nh h́nh chiến sự miền Bắc sôi động ác liệt mạnh mẽ.
Đi đâu cũng thấy nói tới sự rút lui của quân đội
viễn chinh Pháp và quân đội quốc gia Việt
Nam.
Khi đó, phương tiện truyền tin là đài phát thanh và mấy tờ báo, chứ
đâu có internet, truyền thanh truyền h́nh như ngày nay, cho nên tin
tức rất hiếm hoi, đôi khi chỉ là dỉ tai, truyền khẩu.
Có tin
đồn rằng, v́ muốn ḥa giải với Tây phương, Cộng sản Trung Hoa và Nga
Sô Viết đă làm áp lực với cộng sản đàn em phải kư kết hiệp định
Geneve; rằng cộng sản Việt đ̣i chia đất
nước từ vĩ tuyến 13 nhưng sau đó phải chấp nhận vĩ tuyến 17; rằng họ
muốn quân đội viễn chinh Pháp rút lui trong 90 ngày, nhưng các quốc
gia đàn anh quyết định là 300 ngày...để mọi người có thời gian
thoát ách cộng sản.
Rất
nhiều dân chúng Hà Nội và các tỉnh lỵ miền Bắc hốt hoảng, vội vă sửa
soạn thu vén di cư vào Nam.
Uỷ Ban Bảo Vệ Bắc Việt đă được thành lập song
hành với ỦyBan Di cư.
Đường
phố ngổn ngang những đồ vật mang ra bán.
Những tủ chè, sập gụ, những lư đồng, b́nh
sứ rồi quần áo, gia dụng. Thôi th́ đủ thứ.
Ai ai cũng cố bán tống bán tháo để có
chút vốn di cư.
Đây là
cuộc di cư vĩ đại của cả triệu đồng bào
miền Bắc bỏ mồ mả cha ông chỉ v́ không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản
ngoại lai. Họ đă nghe nói cũng như
chứng kiến sự khắc nghiệt của chính quyền đối với dân chúng ở vùng
do họ kiểm soát. Những đấu tố, những thủ tiêu không nương
tay, những kiểm soát theo dơi đời sống
rất khắt khe.
Bố tôi
đang làm việc tại ṭa Tỉnh Trưởng Hải Dương. Ông cũng chỉ là nhân
viên phù động do quen biết chứ không phải là công chức chính ngạch.
Xuất
thân con nhà có chút ruộng đất, nên trước chiến tranh, ông chỉ giao
du hưởng thụ.
Ông nội mua cho bố tôi chức Hội trong làng, cho
nên ông cũng có một vài vai vế chiếu trên chiếu dưới đối với chốn
đ́nh trung và ngoài xă hội.
Theo anh
tôi th́ ông cụ cũng “phá gia chi tử” lắm.
Thời đó làm ǵ có ngân hàng, chi phiếu, thẻ tín
dụng nên đỏ đen hết tiền mặt là văn tự ruộng đất nhà cửa được đưa ra
để cầm bán.
Gia đ́nh
chúng tôi phải bỏ quê lên tỉnh làm ăn v́
không thích hợp với “kháng chiến địa phương”.
Ông bác ruột bị thủ tiêu v́ giữ chức Cửu trong xă. Anh tôi
khi đó mới 12 tuổi không sớm băng đồng trong đêm chạy lên huyện th́
cũng bị bắt. Chồng bà cô ruột của tôi bị bắt
nhầm, tưởng là bố tôi. Ông cụ đă về vùng
tề từ mấy ngày trước. Lư do là họ nhà tôi làm chủ một số điền
thổ trong tổng và được liệt kê vào hạng “cường hào, ác bá”.
Hai bố
con về tỉnh để sửa soạn ra đi. Chúng tôi phải
xuống Hải Pḥng để đi tầu thủy, v́ khi đó chương tŕnh di cư đang ở
cao điểm nên di tản bằng đường hàng không trở nên rất hiếm hoi.
Những
ngày nấn ná sửa soạn, bán nhà cửa đồ đạc, chờ ngày lănh giấy lên tầu
là những ngày rất giao động.
Họ hàng
ở dưới quê lên thăm hỏi, chia tay.
Nhiều người nỉ non quyến dụ. Nào là đất
nước thanh b́nh đến nơi rồi, tại sao không ở lại mà hưởng “tự
do, hạnh phúc”! Rằng
chính phủ rất khoan hồng, mọi người đều được tiếp tục làm việc như
trước.
Một bà
bạn của gia đ́nh có cô con gái rượu th́ “cháu ở lại đi, mai mốt
đất nước thống nhất th́ tha hồ mà vào thăm Sài g̣n”.
Ông chú
ruột làm phát ngân viên cho Bảo Chính Đoàn tỉnh được gia đ́nh vợ hai
móc nối ở lại: “cứ mang hết tiền quỹ về quê xây dựng sự nghiệp, giúp
làng xóm, tha hồ mà sướng”.
Nhưng bố
tôi đă nhất quyết ra đi v́ đă phần nào hiểu rơ bản chất của chế độ.
Bà vợ kế ở lại với một đứa con gần hai tuổi và bụng chửa hơn bốn
tháng, v́ bố mẹ ở dưới quê muốn gắn bó với quê cha đất tổ.
Ngày
ngồi trên xe lửa từ Hải Dương xuống Hải Pḥng mới thực vất vả
và chứng kiến nhiều bi hài kịch.
Tầu đậu
ở nhiều ga dọc theo đường số 5 để lấy
thêm khách, mà hầu hết là xuống Pḥng để vô Nam bằng tầu biển há mồm.
Cán bộ địa phương được tung ra để gây trở
ngại cho người di cư. Thôi th́ khóc lóc,
níu kéo ở lại, ngăn cản lên tầu. Cũng có những
chửi mắng “đi liếm chân đế quốc làm Việt gian cho giặc Pháp”.
Chẳng khác ǵ “tàn dư Mỹ Ngụy” mấy chục năm sau
này. Rồi vứt đồ, đánh đập cho bơ ghét.
Làm thân
rau muống Bắc kỳ di cư ở vùng đất trù phú trong Nam, người
dân miền Bắc đă đóng góp nhiều cho mảnh đất quê hương.
Chỉ vỏn vẹn có hai thập niên, mọi người bên này vĩ tuyến 17 đă xây
dựng được một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam với nền tảng khai
phóng, nhân bản; một nền văn học tự do với nhiều dân tộc tính; một
chế độ y tế xă hội phục vụ phúc lợi người dân tương đối đầy đủ.
Và cũng đă hy sinh nhiều xương máu chống lại sự
bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng kết quả là chỉ
tránh được hiểm họa Đỏ cho một phần nhỏ của thế
giới với cái giá là một lần nữa lại tỵ nạn vào phần tư cuối
của thế kỷ hai mươi. Khi mà các thế lực quốc tế
không c̣n cần đến ḿnh trong nhu cầu của họ.
Từ Bắc
Kỳ Di Cư tới tỵ nạn chính trị thấm thoát
mà đă nửa thế kỷ, năm mươi năm, mười lăm ngàn hai trăm năm mươi ngày
dài đằng đẵng.
Nh́n về
quê hương th́ vẫn thấy nhiều ngậm ngùi chua sót.
Những người v́ ḥa b́nh và thống nhất ở lại miền
quê th́ đời sống không khác ǵ mấy, so với 50 năm về trước.
Có chăng là ngọn đèn điện, chiếc ti vi,
chiếc xe gắn máy. Vẫn quần quật giật gấu vá vai lam
lũ. Vẫn chân đất với
bùn lầy nước lỗ chân trâu. Ngày kiếm được
việc làm trị giá 50 xu Mỹ là mừng rồi.
Ông chú
đă sớm ra người thiên cổ, v́ những riếc móc theo
địch, hại nước hại dân, tịch thu tài sản. Bà thím già nua, kèm nhèm
quệt nước mắt với bầy cháu nội ngoại tḥ ḷ mũi xanh
th́ : “Giá mà ngày đó chú thím và các em
theo chân bố cháu!” Cô em gái lao động
Đông Âu dành dụm được chút tiền mở sạp hàng xén cho qua ngày. Mấy
đứa cháu chưa bao giờ biết mặt th́ “chúng cháu
theo giải phóng vào kiếm các chú th́ các
chú đă ra đi, không đợi chúng cháu đi với”.
Báo chí
trong nước phản ảnh đầy rẫy những than phiền của dân chúng cũng như
tuyên bố của viên chức chính quyền các cấp về tham nhũng, cửa quyền,
bất công, thất nghiệp, tệ đoan xă hội, giáo dục tụt hậu.
Đă có những chương tŕnh, đề nghị, nhưng áp dụng,
thực hiện th́ như cứ nửa vời, cầm chừng, trồi sụt như thấy tháng
của bà nạ ḍng sắp vào tuổi măn kinh.
Khoảng
cách giầu nghèo từ nông thôn tới thành thị sao mà quá chênh lệch.
Một bữa “chiêu đăi” cá sông Việt Tŕ bẩy món với rượu ngoại của
người giầu quyền thế tốn công quỹ cơ quan cả dăm bẩy trăm Mỹ
kim như không. Trong khi đó th́ ngân sách
quốc gia dành cho y tế chỉ có năm mỹ kim
mỗi năm cho một đầu người. Tư bản Mỹ thực phí
phạm, bỏ ra những 2000 tiền đô xanh.
Về cộng
đồng tỵ nạn th́ tích cực cũng nhiều nhưng tiêu cực cũng không phải
là ít.
Trong
gần ba mươi năm, hơn một triệu người Việt đă h́nh thành một khối
thiểu số có những sắc thái đặc biệt vừa làm phong phú và vừa thay
đổi một phần nào cấu trúc căn bản của Hiệp Chủng Quốc Mỹ.
Họ đi từ
số không, không có một nền tảng có sẵn như người Trung Hoa hoặc di
dân từ các quốc gia Âu Châu tới Mỹ từ cả trăm năm trước.
Ho vật lộn với nhiều khó khăn để sinh tồn, để thích nghi với nếp
sống mới và để tạo dựng một tương lai vững chắc cho thế hệ con cháu.
Họ âm thầm làm việc, chịu đựng mọi thử thách, kỳ
thị trong những năm đầu. Nếu đa số dân chúng Mỹ không muốn
quay lưng trước hoàn cảnh tuyệt vọng của con dân một quốc gia đồng
minh với họ trước đây, th́ cũng có một thiểu số lạnh nhạt với lớp di
dân này.
Khi mới
tới, họ được phân tán khắp 50 tiểu bang để sự cứu giúp được dễ dàng
cũng như tránh sự tụ nhập quá đông người Việt ở một địa phương.
Nhưng rồi dần dà, sau khi đă có lông có cánh, họ
cũng t́m về với nhau, trong những địa phương thích hợp để tương trợ,
d́u nhau mà đi lên. Dù sao th́ “một
giọt máu đào cũng hơn ao nước lă”. Và “Một cây làm
chẳng nên non; Ba cây chụm lại lên ḥn
núi cao”.
Với bản
tính nhẫn nhục, cần cù, thực tế, dễ thích nghi, có nhiều sáng kiến
nhỏ, họ đă tham gia vào nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống Mỹ
quốc. Họ đă tạo dựng nên những cơ sở kinh tế,
thương mại vững chắc, củng cố và phổ biến văn hóa Việt
Nam vào
nền đa văn hóa địa phương.
Các thế
hệ Việt Nam thứ hai, thứ ba đă mau lẹ tiến tới để thu nhập tinh hoa
kiến thức qua nền giáo dục đa diện của nước Mỹ. Họ đă có nhiều đóng
góp khoa học, kỹ thuật đáng khen ngợi cũng như cung hiến cho nền
hành chánh tiểu bang và liên bang nhiều chuyên gia có khả năng điều
hành, lănh đạo. Sự thành công của thế hệ này đă tạo ra nhiều ngạc
nhiên cho con dân bản xứ.
Càng
ngạc nhiên hơn khi ta nh́n lại khả năng của nhóm di dân mới.
Tới Mỹ không sửa soạn với hai bàn tay
trắng. Họ tức tưởi, đánh tháo rời bỏ nơi chôn
rau cắt rốn trong vội vàng, hoảng sợ, không kịp suy nghĩ, nói chi
đến sửa soạn. Họ không biết là sẽ đi đâu,
không biết tương lai sẽ ra sao.
Họ vào
nước Mỹ đa số không nói được tiếng Anh, không có một Mỹ
kim trong túi. Họ đến từ một văn hóa với
nhiều khép kín, ràng buộc vào một nếp
sống phóng khoáng, tự do. Họ lạc vào rừng người
có cái nh́n khác biệt về chủng tộc, giống tính.
Họ chóng mặt trước sự tiến bộ, phồn thịnh của
một quốc gia mới chỉ có hơn hai trăm năm lập quốc.
Ấy vậy mà họ đă vươn lên, thành công tạo dựng
một thế đứng vững chắc trong một quốc gia nhiều chủng tộc.
Nhưng
tiêu cực th́ cũng nên kể ra, để rút kinh nghiệm.Theo nhiều người,
cũng c̣n một số điều tưởng như cần làm, cần thay đổi, thích nghi.
Chẳng
hạn, có ư kiến cho rằng, nếu cộng đồng vững mạnh th́ bạn cũng lắng
nghe mà đối phương cũng nể v́; và rằng sống trên đất nước mà quyền
tự do, dân chủ được tôn trọng tối đa, chẳng nhẽ lại cứ măi măi “
Con đường của ta là duy nhất đúng”. Chúng ta cùng có mục tiêu là
tranh đấu để có tự do, dân chủ cho đồng bào ở Việt Nam cơ mà.
Trong
một bài b́nh luận, kư giả kỳ cựu Phạm Trần đă có ư kiến “Nhưng trong
thời đại bây giờ, chiến thắng cũng có thể đạt được không phải bằng
quân sự mà bằng kinh tế, ngoại giao và thông tin nên mặt trận này
đ̣i hỏi người Việt tị nạn phải thay đổi suy tư trong công cuộc đấu
tranh với chính quyền Hà Nội... Và sau cùng mỗi cử tri người Việt
cũng nên tự hỏi ḿnh: “Trong ngót 30 năm qua sống ở nước ngoài,
tôi đă làm được ǵ cho đồng bào tôi, hay tôi chỉ biết co ro ngồi một
chỗ để hy vọng viển vông và sợ sệt mông lung”.
Ngoài ra,
mặc dù đă sống trên đất Mỹ gần ba mươi năm, nhưng một số không nhỏ
đồng hương ta vẫn chưa hoàn toàn hội nhập vào ḍng chính; chưa tận
dụng các quyền lợi mà người công dân Hoa Kỳ được hưởng cũng như
chu toàn các bổn phận khi vào quốc tịch.
Do đó nhiều người chịu thiệt tḥi cũng như chưa đóng góp đúng mức.
Một trong những lư do là trở ngại ngôn ngữ, lơ là bổn phận và thiếu
hướng dẫn. Ngoài ra, người ḿnh vốn khiêm nhường,
chịu đựng, chín bỏ làm mười, cho nên không có những ra mặt đ̣i hỏi
quyền lợi như công dân Mỹ.
...Hầu
hết những người theo bố mẹ làm Bắc Kỳ di
cư rồi cùng với đồng hương Miền Nam đứng mũi chịu sào đưa gia đ́nh
đi tỵ nạn chính trị ở ngoại quốc đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc
đời. Hôm nay ngồi lại với nhau, ôn lại ngày lẽo đẽo lên tầu há mồm
vô Nam dọc theo bờ biển chữ S, rồi bồng
bế con cái di tản bằng phương tiện tiến bộ hơn, mà thấy nao nao, ướt
mắt.
Tương
lai như ch́m dần…
Thôi
đành trông cậy ở thế hệ đến sau, trong và ngoài nước, nh́n rơ thực
tại, nhiệt huyết hơn thẳng thắn hơn, công bằng hơn.
Để xây
dựng một cộng đồng uy tín, một quê hương có tự do, dân chủ cụ thể,
thực tế chứ không chỉ trên giấy tờ, văn bản. Dù
là tương đối. V́ có c̣n hơn không.
Bác sĩ
Nguyễn Ư Đức
Tháng Tư năm 2004.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas Hoa Kỳ.

Mời xem thêm
|