Y Học Dinh Dưỡng
Khoai lang -
Khoai tây
Bác sĩ Nguyễn
Ư Đức
Khoai lang.
Khoai lang là món rất quen thuộc với người Việt
nam, một món ăn b́nh dân, rẻ tiền, rất dễ kiếm, nhưng cũng là một
món ăn rất bổ dưỡng và có tác dụng trị bệnh. Khoai lang (sweet
potato) c̣n có tên gọi khác như cam thự, hồng thự hoặc phan thự.
Nguồn gốc của khoai là từ Peru rồi được trồng ở Âu
châu vào thế kỷ thứ 16, sau đó lan sang Á châu. Các quốc gia trồng
nhiều khoai là Trung Hoa, Nam Dương, Việt Nam, Nhật, Ấn Độ. Khoai
thích hợp với khí hậu vùng nhiệt đới.
Giá trị dinh dưỡng
Khoai lang không có chất béo và cholesterol, nhưng
chứa một lượng lớn beta carotene, sinh tố A và C, sinh tố B 5 hay
pantothenic acid, khoáng chất kali và chất xơ.
Một củ khoai lang nướng có 117 calor, 2gr chất đạm,
28 gr carbohydrat, 32 mg calci, 63 mg phospho, 0,5 mg sắt, 400 mg
kali, 3 g chất xơ, 750mcg sinh tố A, 30 mg sinh tố C, 8 mg sinh tố B
1.
Công dụng y học
Khoai lang có nhiều sinh tố B5 và beta-caroten,
nên được coi như có nhiều tác dụng y học tốt.
Sinh tố B 5 giúp cơ thể chống mệt mỏi v́ những
căng thẳng (stress ), cho nên c̣n được gọi là “sinh tố chống stress”
qua việc thúc đẩy sự chuyển hóa carbohydrat, chất đạm và chất béo.
Vitamin này kích thích nang thượng thận, làm tăng
sự biến hóa căn bản, tạo ra năng lượng từ chất béo, chất
carbohydrate; làm da bớt nhăn và làm chậm sự lăo hóa; làm hệ thần
kinh khỏe mạnh; làm giảm độc tính của thuốc kháng sinh và tia phóng
xạ; làm bớt dị ứng, nhức đầu, đau khớp xương, chống mất ngủ, hen
suyễn.
Một củ khoai lang có khoảng 14 mg beta-carotene.
Beta- carotene là một chất có khả năng chống ung thư nhất là ung thư
phổi ngay cả ở người ghiền thuốc lá.
Khoai c̣n làm tăng tính miễn dịch, làm giảm nguy
cơ bị cườm mắt (catarracts), làm giảm nguy cơ tai biến động mạch năo,
chứng kích tim, và làm giảm cholesterol trong máu.
Các cụ ta tin là khoai lang có thể chữa được bệnh
phong nhức khớp xương và chứng đau bụng.
Nhiều người c̣n cho là khoai lang có thể làm giảm
chứng ói buồn nôn ở phụ nữ có thai, làm kinh nguyệt điều ḥa, lợi
tiểu tiện, ngăn ngừa sẩy thai, làm giảm cơn hen suyễn...
Theo giáo sư Đỗ Tất Lợi, khoai lang có tác dụng
nhuận tràng và trong dây khoai lang có một chất giống như Insulin,
rất tốt cho bệnh nhân tiểu đường.
Khoai lang có chứa oxalate nên người bị sạn thận
cần giới hạn tiêu thụ.
Các loại khoai
Có hai loại khoai lang chính:
-Loại vỏ mầu nâu vàng, ruột mầu cam, sau khi nấu,
cho nhiều vị ngọt, mềm và có nhiều nước.
-Loại có vỏ mầu hồng lợt, thịt vàng và khô, ít
ngọt, ít hương vị hơn.
Lựa và cất giữ khoai
Khi mua khoai, ta nên chọn củ c̣n chắc nịch, cầm
thấy nặng tay, vỏ trơn tru, không trầy xát; tránh mua khoai bị nứt,
hà rỗ vỏ hoặc bị cắt mất đầu mất đuôi.
Mang về nhà, nên cất khoai trong bóng tối, không
để trong tủ lạnh và nên dùng trong ṿng hai tuần lễ để hưởng thụ
được tất cả chất bổ dưỡng của khoai.
Khoai cũng được đóng hộp sau khi nấu chín với
đường hoặc được phơi sấy khô.
Món ăn với khoai lang
Khoai lang thường được dùng để nấu chè, nướng hoặc
luộc.
Nên rửa sạch củ khoai bằng bàn chải trước khi luộc.
Giữ nguyên vỏ khi luộc để khoai khỏi đổi mầu và cũng dễ bóc hơn. Vỏ
khoai có nhiều chất xơ pectin ăn được.
Khoai lang cũng được nấu với mật ong, mật mía,
đường hoặc mật ngô.
Khoai chín nghiền nát được dùng làm bánh, kẹo.
Ngọn non của dây khoai lang (đọt lang) được dùng
như một loại rau ăn phổ biến, c̣n dây khoai lang được dùng trong
chăn nuôi gia súc.
Ngọn khoai lang luộc chấm mắm cáy đặc là món ăn
ngon.
Cáy tương tự như cua, sống dưới nước, có nhiều ở
những vùng duyên hải như Kinh Môn, Thanh Miện, Thanh Hà tỉnh Hải
Dương. Tại các địa phương này đều có nghề làm mắm cáy ngon nổi tiếng.
KHOAI TÂY
Khoai tây là thực phẩm được nhiều người ưa thích
v́ có hương vị ngon và giá trị dinh dưỡng cao. Thuở xưa, khoai là
thực phẩm chính của người nghèo, nhưng bây giờ th́ mọi người đều ăn
khoai tây
Khoai được trồng khắp nơi trên thế giới và là loại
nông sản đứng hàng đầu về sản lượng. Khoai tây được thổ dân Indian ở
Peru và Chí Lợi trồng đầu tiên cách đây nhiều ngàn năm. Các nhà thám
hiểm Tây Ban Nha mang giống khoai về trồng và phổ biến ở Âu châu vào
thế kỷ thứ 15.
Ngày nay khoai được trồng nhiều ở Nga, Ba Lan,
Trung Hoa, Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác. Khoai tây không có liên hệ
ǵ về chủng loại với khoai lang.
Có hàng trăm loại khoai khác nhau về h́nh dáng,
mầu da, thời gian gặt hái.
Giá trị dinh dưỡng
Khoai tây là thực phẩm có nhiều carbohydrat, nhiều
tinh bột, chất xơ. Ngoài ra c̣n có chất đạm, gồm hai loại acid amin
là methionine và cystine.
Khoai có nhiều sinh tố B1, C và rất ít calori.
Một củ khoai trung b́nh cho 25mg sinh tố C, 22mcg
folacin, 5g chất đạm, 4g chất xơ, 840mg kali và một lượng rất ít sắt,
kẽm, magnesium.
Nhiều người cho rằng khoai tây làm mập. Thực ra
khoai cung cấp rất ít năng lượng. Vấn đề là khi ta chiên khoai tây
với dầu hoặc ăn chung với nhiều bơ, nước xốt béo. Một củ khoai trung
b́nh khi bỏ ḷ chỉ cung cấp khoảng 80 calori, nhưng nếu chiên dầu
th́ sẽ cung cấp tới gần 500 calori.
Lựa và cất giữ khoại
Khi mua, lựa củ khoai chắc mập, không bị trầy,
không vết đen, không mọc mầm, ít mắt đen.
Khoai tây có thể để trong nhà, chỗ mát, khô ráo,
không có ánh sáng, Nhớ đừng rửa khoai trước khi cất và dừng cất
khoai trong tủ lạnh, v́ độ ẩm sẽ làm khoai mau hư.
Không nên giữ khoai quá lâu v́ sinh tố C bị tiêu
hủy với thời gian.
Đừng để khoai chung với hành v́ khoai sẽ có mùi
của hành.
Khoai tây có thể để dành lâu bằng cách đông lạnh
nhưng phải làm khô trước
Nấu nướng
Có nhiều cách để nấu khoai tây. Hương vị và chất
dinh dưỡng của khoai tùy thuộc cách nấu.
Không nên gọt bỏ vỏ khoai trước khi nấu v́ hầu hết
các chất dinh dưỡng đều nằm dưới vỏ khoai. Chỉ cần rửa cho sạch đất
bụi bám ở ngoài với bàn chải mềm là được.
Chỉ cắt khoai ngay trước khi nấu, v́ để lâu không
khí sẽ làm khoai thâm đen. Có thể ngâm khoai trong nước lạnh hay
nước pha chút chanh, nhưng sinh tố sẽ mất bớt đi.
Dùng khoai để ninh, hầm với thịt, nấu súp... đều
được, nhưng phổ biến nhất là món khoai tây chiên và bỏ ḷ. Khoai hấp
cách thủy, bỏ ḷ hoặc trong ḷ vi ba đều giữ được nhiều chất dinh
dưỡng hơn.
Luộc khoai với rất ít nước và để cả vỏ sẽ giữ được
nhiều chất dinh dưỡng. Nước luộc khoai có thể dùng để nấu canh.
Khi bỏ ḷ hoặc nướng trong ḷ vi ba, phải dùng nĩa
trọc thủng vài lỗ để khoai khỏi nổ tung ra. Nướng trong ḷ vi-ba mau
chín hơn so với nướng mà lại tiết kiệm điện.
Khi chiên khoai với mỡ hoặc dầu, không nên đun quá
sôi, v́ như vậy dầu có thể sinh ra vài chất đắng không tốt ngấm vào
khoai chiên.
Công dụng y học
Về y học, nhiều người cho là khoai tây làm giảm
đau nhức khi bị phong thấp.
Nhưng khoai tây cũng có một hóa chất gọi là
solanin có thể gây vài bất lợi cho cơ thể như làm đau bụng, nôn mửa,
tiểu ra máu, kém hô hấp và thần kinh. Trường hợp này xẩy ra khi ta
ăn quá nhiều, khoảng vài kí lô khoai cùng một lúc hoặc khi ăn nhằm
khoai bị mốc meo hư thối. Đặc biệt khi khoai tây mọc mầm hay vỏ củ
khoai đă xanh để ngoài ánh sáng th́ tỷ lệ solanin tăng cao, dễ gây
ngộ độc hơn./.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos
|