1
Đường Cây Xanh ở
Sydney thật ra không khoái thích đến như bạn tưởng tượng từ cái
tên ấy đâu -tất nhiên là tôi tưởng tượng rằng có lẽ bạn sẽ tưởng
tượng như thế-. Trước nhất, con đường này chẳng có lấy một cây
cối ǵ ráo. Mà cả bồn cỏ, công viên hay ṿi nước uống cũng chẳng
có. Vậy th́ v́ cớ ǵ lại được đặt tên là Đường Cây Xanh -Green
Street-, th́ chỉ có Trời hiểu. Có khi cả Trời cũng chẳng hiểu
nổi nữa kia. Nói cho thành thực hết cỡ th́ đường Green Street
này là con đường u ám nhất trong cả thành phố
Sydney. Chật hẹp, đông đúc, chen chúc mà bẩn thỉu, nghèo nàn,
hôi hám, cũ kỹ, kém an ninh, lại thêm khí hậu xấu tệ. Mùa hè th́
lạnh ngắt, mùa đông lại nắng cháy da.
Mùa hè th́ lạnh
ngắt, mùa đông lại nắng cháy da,
nói thế nghe chừng kỳ quái. Cho dù Nam Bán Cầu và Bắc Bán Cầu
thời tiết có ngược hẳn nhau đi nữa, thực tế th́ mùa nóng vẫn là
hè, mùa lạnh vẫn là đông chứ. Nghĩa là, tháng 8 là mùa đông,
tháng 2 là mùa hè. Dân Australia ai cũng nghĩ như thế cả.
Thế nhưng, tôi th́
nghĩ chuyện trên đời này không thể nào quyết đoán một cách đơn
giản như thế được. Bởi có vấn đề trọng đại rằng: "Thời tiết là
cái ǵ?" bao hàm trong đó rồi. Nghĩa là, cứ tháng 12 th́ là mùa
đông, hay phải lạnh th́ mới là mùa đông?
Có thể bạn bảo rằng:
"Đơn giản quá mà, phải lạnh mới là mùa đông chứ ǵ nữa!". Nếu
lạnh là mùa đông, thế th́ cỡ nhiệt độ dưới bao nhiêu độ Celsius
th́ là mùa đông nào? Mà ngay trong mùa đông cũng có vài ngày
liên tiếp thật ấm áp, lại nói "Ấm áp rồi, là đă sang Xuân" được
sao?
Đấy, có đơn giản đâu?
Cả tôi cũng chẳng
hiểu nữa là!
Tôi cho rằng lối suy
nghĩ "Mùa đông th́ không lạnh không được" ấy có vẻ phiến-diện
quá. V́ thế, cũng để phá vỡ thành kiến của những người chung
quanh đây, khoảng từ tháng 12 đến tháng 2, tôi gọi là mùa đông,
c̣n từ tháng 6 đến tháng 8, tôi gọi là mùa hè. Từ quan điểm đó
th́ ở đây, mùa hè lạnh ngắt, mà mùa đông lại nắng cháy da.
Do vậy, người chung
quanh đây cho rằng tôi là đứa dở-hơi.
Nhưng mà, chuyện đó
th́ sao cũng được. Hăy nói về chuyện Đường Cây Xanh ở Sydney.
2
Như đă nói, đường
Green Street này là con đường u ám nhất trong cả
thành phố Sydney. Không chừng c̣n là con đường u ám nhất trong
toàn Nam Bán Cầu nữa kia. Chẳng hạn ngay bây giờ, giữa trưa đứng
bóng tháng Mười, tôi đứng ở văn pḥng trên tầng ba, nh́n qua cửa
sổ xuống khoảng ngay giữa đường Green Street này.
Tôi thấy ǵ?
Thấy đủ thứ.
Một kẻ không nhà
nghiện rượu da rám nắng đang xoạc một chân xuống rănh nước mà
ngủ trưa -hoặc là say quắt-cần-câu ra đấy-.
Một thằng nhóc du
đăng bộ điệu nghênh ngang thọc dây xích vào túi áo khoác, vừa
khua động rèn rẹt vừa đi ṿng ṿng khắp đường.
Một con mèo bệnh,
trụi lông hết nửa, đang bươi thùng rác.
Bảy tám đứa con nít
cầm dùi nhọn đi thọc thủng bánh xe hơi, từ chiếc này đến chiếc
khác.
Tường nhà bằng gạch
dính những vết nôn mửa khô đủ màu.
Hầu hết các tiệm buôn
đóng cửa im ỉm. Ai cũng ớn mứa con đường này rồi, nên đă dẹp
tiệm, cuốn gói đi đâu mất cả. Đến bây giờ mà c̣n mở cửa buôn bán
th́ chỉ có một tiệm cầm đồ, một tiệm bán rượu và quán bán pizza
tên là "Charlie".
Một cô gái trẻ mang
giày cao gót, ôm vào ngực cái xách tay tráng men màu đen, chạy
toàn tốc lực trên đường, vang tiếng đế giày cộp cộp. Cứ
như là đang bị người nào đuổi bắt, nhưng phía sau chẳng thấy có
ai chạy theo cả.
Hai con chó hoang đi
ngang mặt nhau giữa con đường. Một con bước từ đông sang tây,
con kia bước từ tây sang đông. Cả hai con chó vừa bước đi vừa ḍ
mặt đường suốt, đi ngang mặt nhau cũng chẳng thèm nh́n lên.
Đường Cây Xanh ở
Sydney là con đường như thế. Tôi hay nghĩ là nếu đến lúc cần
phải đào một cái hậu- môn vĩ đại cho quả đất này th́ ngoài chỗ
này ra, chẳng c̣n đâu khác cả. Nghĩa là Đường Cây Xanh ở Sydney
đấy.
3
Tôi chọn Đường Cây
Xanh ở Sydney để đặt văn pḥng làm việc tất nhiên cũng phải có
lư do thích đáng. Chẳng phải v́ tôi nghèo đâu. Giá thuê nhà ở
đường này quả thật rất hạ, nhưng tôi chẳng phải v́ túng tiền mà
đến đây. Ngược lại, tôi có nhiều tiền đến nỗi chẳng làm sao tiêu
cho hết. Ngay cả chuyện mua luôn một lèo mười cái bin-đinh mười
sáu tầng mới toanh ở ngay đại lộ nổi tiếng nhất Sydney, tôi cũng
làm được, hoặc mua nguyên một chiếc hàng không mẫu hạm tối tân
nhất có kèm theo cả năm chục chiếc phi cơ chiến đấu, cũng chẳng
khó khăn ǵ. Nói ngắn gọn là tôi có nhiều tiền đến nỗi ớn mứa
chẳng muốn nh́n đến nữa. Bởi cha tôi là vua vàng vụn, đă qua đời
hai năm trước đây, để lại toàn bộ tài sản cho đứa con duy nhất
là tôi đây.
Tiền của nhiều quá
không dùng hết được nên giữ cả trong ngân hàng cứ sinh ra tiền
lời nhiều quá không dùng hết được. Rồi tiền lời ấy cũng phải giữ
cả trong ngân hàng lại sinh thêm tiền lời nhiều hơn nữa. Chỉ
nghĩ đến chuỗi sinh lợi, lợi sinh ấy không thôi cũng đủ ớn mứa
lên rồi.
Sở dĩ tôi chọn Đường
Cây Xanh ở Sydney để đặt văn pḥng làm việc là v́ người quen
biết tôi sẽ chẳng ai xớ rớ đến đây làm ǵ. Người đàng hoàng th́
chẳng ai t́m đến Đường Cây Xanh ở Sydney này cả. Ai cũng sợ con
đường này. V́ thế, họ hàng sẽ chẳng ai đến để nói này nói kia
nhức óc, bạn bè tọc mạch sẽ chẳng ai ṃ đến quấy rầy, mà đám đàn
bà con gái nhắm chuyện đào mỏ cũng chẳng ai t́m đến được đây.
Bọn luật sư cố vấn sẽ chẳng đến để bàn thảo chuyện đầu tư tài
sản; tụi giám đốc ngân hàng sẽ chẳng đến để tán tỉnh gửi tiền;
mà nhóm con buôn xe Rolls Royce cũng chẳng ôm theo một núi những
tờ quảng cáo xe hơi hạng sang mà đến gơ cửa.
Điện thoại chẳng có.
Thư nào đến là xé bỏ. Quả thật là yên tĩnh.
4
Trên Đường Cây Xanh ở
Sydney, tôi mở một văn pḥng thám tử tư. Vị chi, tôi là một thám
tử tư.
Bảng hiệu ghi rằng:
[Thám tử tư. Giá
rẻ. Duy chỉ nhận vụ nào hay ho mà thôi]
Trên bảng hiệu chỉ
ghi những chữ đơn giản như thế tất nhiên là có chủ ư. Bởi ở
Đường Cây Xanh ở Sydney này chẳng có một người nào hiểu được
những chữ gốc Hán khó khăn cả.
Văn pḥng là một căn
pḥng cỡ sáu chiếu[1] bẩn thỉu vô cùng. Trên tường
lẫn trần pḥng đầy cả những vệt màu vàng hoen ố. Cửa ra vào th́
gắn cẩu thả nên đóng mở khó khăn, đă đóng lại rồi th́ mở được nó
ra là cả một công tŕnh lao lực. Trên kính cửa có hàng chữ "Thám
tử tư". Ở tay nắm cửa có treo tấm bảng nhỏ hai mặt ghi "Có mặt"
và "Đi vắng". Khi bảng này lật ra bề "Có mặt" th́ có tôi trong
pḥng. Khi bảng lật sang bề "Đi vắng" th́ tôi đi đâu đấy rồi.
Nếu không ở trong văn
pḥng th́ tôi hoặc là đang ngủ trưa ở pḥng bên cạnh, hoặc là
đang ở quán pizza, vừa uống bia vừa tán chuyện thiên-hạ với cô
hầu bàn tên là Charlie. Chỉ một trong hai chỗ đó thôi. Charlie
kém tôi vài tuổi, rất xinh, lai Trung Quốc. Sydney tuy rộng lớn
thật, nhưng con gái mang ḍng máu lai Trung Quốc th́ chỉ có mỗi
Charlie.
Tôi rất thích
Charlie. Và tôi nghĩ có lẽ Charlie cũng thích tôi. Nhưng không
chắc. Người khác suy nghĩ thế nào th́ tôi hoàn toàn không hiểu
được.
-"Thám tử tư th́ có
làm ra tiền không?". Charlie hỏi tôi.
-"Có làm ra tiền đâu".
Tôi nói. -"Chỉ là chuyện tiền có vào hay không mà thôi chứ".
-"Cái anh này thật là
người kỳ quái". Charlie nói.
Charlie không biết
tôi là người lắm tiền.
5
Khi tấm bảng ngoài
cửa lật ra bề "Có mặt", thường thường tôi ngồi ở ghế sofa bọc
nhựa trong văn pḥng, vừa nhấm bia vừa nghe đĩa nhạc Glen Gould.
Tôi rất thích Glen Gould đàn dương cầm. Chỉ Glen Gould thôi, tôi
cũng đă có đến 38 đĩa nhạc rồi.
Sáng vừa thức dậy là
tra sáu đĩa vào máy quay đĩa tự động thay đĩa, cứ thế mà nghe
Glen Gould suốt. Vừa uống bia. Khi nghe chán Glen Gould th́
thỉnh thoảng lại cho chạy đĩa Bing Crossby hát White
Christmas.
Charlie th́ thích ban
nhạc AC/DC.
6
Gọi là văn pḥng thám
tử tư thế chứ hầu như chẳng có khách viếng. Bởi dân sống ở Đường
Cây Xanh ở Sydney không hề nghĩ ra chuyện giải quyết vấn đề ǵ
mà lại phải trả tiền. Vả lại, họ có quá nhiều vấn đề phải giải
quyết nên thay v́ giải quyết vấn đề, họ t́m cách này cách khác
để chịu đựng cho qua. Dù ǵ đi nữa, Đường Cây Xanh ở Sydney
không phải là chỗ dễ sống cho loại thám tử tư.
Thảng hoặc một đôi
khi cũng có một hai người khách nào đấy bị lôi cuốn bởi chữ "Giá
rẻ" mà ṃ vào. Nhưng phần lớn chuyện họ muốn -ấy là tôi cảm nhận
thế-đều là những việc bá láp, vô cùng nhàm chán. Chẳng hạn "Nhà
tôi có con gà mấy hôm nay chỉ đẻ được một trứng mỗi hai ngày là
v́ sao?" hoặc là "Sáng nào chai sữa tươi người ta giao trước cửa
cũng bị lấy trộm, xin t́m cho ra kẻ cắp" hoặc là "Bạn tôi không
chịu trả lại tiền đă mượn của tôi, có thể nào nói khéo để bạn ấy
trả lại hộ tôi không?",......
Những yêu cầu nhạt
nhẽo kiểu ấy tôi đều từ chối cả. Chứ không phải sao? Tôi thành
thám tử tư thế này đâu phải để lo chuyện gà đẻ hay sữa trộm hay
chút đỉnh tiền vay, cho thiên hạ! Việc tôi muốn làm là những vụ
giật gân kia. Chẳng hạn, có một quản gia cao cỡ hai thước, mắt
có một con ngươi giả, đi xe ḥm dài ngoằng màu đen, đến yêu cầu
"Ngài có thể nào ra sức bảo vệ viên hồng ngọc quư giá của
công-nương con bá-tước được không?",... đại khái những vụ như
thế.
Thế nhưng ở cái xứ
Australia này làm ǵ có công-nương hay bá-tước. Chẳng những
bá-tước đă không có, mà cả nam-tước hay tử-tước cũng chẳng có.
Thật là kẹt. V́ thế mà tôi quá rảnh rỗi, ngày này qua ngày khác.
Đành phải cắt móng tay hay nghe đĩa nhạc Glen Gould, hay lau
chùi khẩu súng lục kiểu cổ, hay đến quán pizza nói chuyện tầm
phào với Charlie cho qua th́ giờ.
-"Anh dẹp chuyện thám
tử tư điên khùng vớ vẩn đó đi mà làm ăn đàng hoàng có hơn không?".
Charlie nói. -"Làm thợ nhà in hay ǵ đấy, chẳng hạn".
Thợ nhà in à? Tôi
nghĩ. Cũng được đấy chứ. Cưới Charlie rồi suốt đời làm thợ nhà
in cũng là chuyện nghe được quá.
Nhưng tạm thời th́
hăy cứ làm thám tử tư đă.
7
Người đàn ông nhỏ con
đội lốt cừu ấy bước vào văn pḥng tôi buổi chiều thứ Sáu. Người
đàn ông nhỏ con đội lốt cừu bước vội vào pḥng, quay lại ló đầu
ra ngoài cửa xem có ai theo dơi ḿnh không, rồi đóng cửa. Cánh
cửa khư khư không chịu đóng lại. Tôi phải phụ ông ta, hai người
góp sức vào mới đóng lại được.
-"Chào ông". Người
đàn ông thấp bé nói.
-"Chào ông... ừm..."
-"Xin gọi tôi là
người cừu". Ông ta nói.
-"Hân hạnh được gặp
ông người cừu". Tôi nói.
-"Hân hạnh". Người
cừu nói. -"Ông đây là thám tử tư?"
-"Vâng, thám tử tư là
tôi đây". Tôi nói, rồi tắt máy quay đĩa, cất đĩa nhạc
Invention của Glen Gould vào kệ đựng đĩa nhạc, dẹp lon bia
không, cho kéo cắt móng tay vào ngăn kéo, và đưa tay mời người
cừu ngồi.
-"Tôi cần thám tử tư".
Người cừu nói.
-"Thế ạ". Tôi nói.
-"Thế nhưng đến đâu
th́ gặp thám tử tư, tôi lại chẳng biết".
-"Ừm, ừm".
-"Thế rồi, khi tôi
nói chuyện ấy trong quán pizza ở góc đường, cô gái ở đấy mách là
cứ đến đây th́ gặp được".
Cô gái ấy là Charlie
rồi.
-"Vậy th́ ông người
cừu ạ". Tôi nói. -"Tôi sẵn sàng nghe đây".
8
Người cừu đội lốt cừu.
Không phải thứ lốt cừu sơ sài làm bằng vải, mà bằng da và lông
cừu thật. Có đủ cả đuôi cừu và sừng nữa. Chỉ có phần tay, chân
và mặt chừa trống. Ngang mắt có mặt nạ đen. V́ lư do ǵ mà người
đàn ông này lại phải đội lốt cừu như thế, tôi chẳng hiểu. Đang
là cuối thu mà đóng bộ kiểu ấy hẳn là nóng toát mồ hôi ra đấy.
Vả lại, đóng bộ thế mà ra đường thế nào cũng bị tụi trẻ con trêu
chọc nữa. Khó hiểu thật.
-"Nếu nóng quá xin cứ
tự nhiên cởi... ừm... áo khoác ra". Tôi nói.
-"Ấy, xin ông đừng
bận tâm". Người cừu nói. -"Tôi thế này đă quen rồi".
-"Vậy th́ ông người
cừu ạ". Tôi nói. -"Tôi sẵn sàng nghe đây".
9
-"T́nh thật là tôi
muốn ông giúp lấy lại cái tai của tôi". Người cừu nói.
-"Tai của ông?". Tôi
hỏi lại.
-"Nghĩa là cái tai
của bộ y phục tôi mặc đây. Chỗ này". Người cừu nói, ngón tay chỉ
vào phía bên phải trên đầu. Đồng thời, con ngươi của ông ta cũng
nhướng lên phía trên bên phải. -"Tai tôi phía này đă bị xé mất
đi đấy".
Quả thật lốt cừu ông
đang mặc, phía tai bên phải -nghĩa là phía bên trái từ chỗ tôi
nh́n- đă bị xé rách, lấy mất đi. Tai bên trái th́ c̣n nguyên. Từ
trước đến nay có khi nào tôi suy nghĩ chuyện loài cừu có tai như
thế nào đâu. Bây giờ mới để ư tai cừu phẳng ĺ, đâm ngang ra, ve
vẩy.
-"Bởi thế nên mong
ông giúp lấy lại tai cho tôi". Người cừu nói.
Tôi cầm lên cuốn sổ
tay và cây bút bi trên bàn, rồi nhịp đầu bút bi lên mặt bàn kêu
"cốc cốc".
-"Xin ông nói rơ thêm".
Tôi nói. -"Bị lấy mất lúc nào? Ai lấy? Và ông là người như thế
nào?"
-"Bị lấy mất ba hôm
trước. Bác-học Cừu lấy đấy. Và tôi là người cừu đây".
-"Chao ôi!".
Tôi nói.
-"Xin lỗi ông". Người
cừu nói.
-"Xin ông cho biết rơ
hơn". Tôi nói. -"Chứ Bác-học Cừu ǵ ǵ đấy th́ tôi chẳng hiểu tí
ǵ cả".
-"Vậy th́ xin được
nói rơ ra". Người cừu nói. -"Tôi nghĩ là ông không biết, chứ
trên thế giới này, có đến khoảng ba ngàn người cừu đấy".
10
-"Tôi nghĩ là ông
không biết, chứ trên thế giới này, có đến khoảng ba ngàn người
cừu đấy". Người cừu nói. -"Ở Alaska, Bolivia, Tanzania,
Iceland,... nơi nào cũng có người cừu cả đấy. Nhưng không phải
là hội kín, hay tổ chức cách mệnh, hay đoàn thể tôn giáo ǵ ǵ
đâu. Cơ bản là: chúng tôi chỉ là những người cừu, và chỉ muốn
sống đời người cừu trong hoà b́nh mà thôi. Muốn suy nghĩ như
người cừu, ăn uống như người cừu, lập gia đ́nh như người cừu.
Được thế, chúng tôi mới đúng là người cừu. Ông hiểu cho không?"
Tôi chẳng hiểu ǵ mấy
nhưng cũng nói "Hừm hừm".
-"Thế nhưng con đường
chúng tôi đi có nhiều người muốn cản trở. Nhân vật đại biểu của
đám người này là Bác-học Cừu. Bác-học Cừu tên thật là ǵ, người
nước nào, không ai biết rơ. Mà là một người hay nhiều người cũng
chẳng ai biết. Duy chỉ rơ ràng là người già lắm rồi. Và lẽ sống
của Bác-học Cừu là cắt tai người cừu chúng tôi mà làm sưu-tập đó
thôi".
-"V́ sao chứ?". Tôi
hỏi.
-"Bởi Bác-học Cừu
không thích lối sống của người cừu chúng tôi. Nên quấy nhiễu
bằng cách cắt tai đi. Lấy đó làm thú vui".
-"Nghe có vẻ hung bạo
quá nhỉ". Tôi nói.
-"Nhưng mà, tôi nghĩ
ông ấy cũng không phải là người xấu đến như thế đâu. Có lẽ chỉ
v́ đă bị ngược đăi đâu đó nên tâm tính thay đổi thành ngang
ngược mất rồi. Cho nên, tôi th́ chỉ cần lấy lại tai là đủ. Đối
với Bác-học Cừu th́ tôi không oán hận ǵ cả".
-"Được rồi, thưa ông
người cừu". Tôi nói. -"Tôi sẽ giúp ông lấy lại cái tai ấy".
-"Xin cảm ơn ông".
Người cừu nói.
-"Chi phí mỗi ngày
một ngàn Yen[2] , lấy lại được tai th́ thưởng năm
ngàn Yen. Xin ông trả trước chi phí ba ngày".
-"Trả trước à?"
-"Vâng". Tôi nói.
Người cừu lấy từ
trong túi trước ngực ra một cái ví lớn, kéo ra ba
tờ giấy bạc xếp gấp cẩn thận, buồn bă đặt lên bàn.
11
Người cừu về rồi, tôi
vuốt thẳng thớm mấy tờ giấy bạc và cho vào ví ḿnh. Giấy bạc
dính đầy những vết và mùi. Rồi tôi ra quán pizza, gọi pizza có
cá mắm anchovy và bia bọt. Tôi ăn pizza ngày ba bữa.
-"Cuối cùng rồi cũng
có khách đến đấy nhỉ". Charlie nói.
-"Chứ sao. Bận rộn
rồi đây". Tôi vừa ăn pizza vừa nói. -"Phải t́m cho ra Bác-học
Cừu đấy".
-"Ai chứ Bác-học Cừu
th́ chả cần phải t́m. Ông ấy ở gần đây thôi. Chứ thỉnh thoảng
vẫn đến đây ăn pizza đấy mà". Charlie nói.
-"Thế nhà ông ấy ở
đâu?" Tôi ngạc nhiên hỏi.
-"Chẳng biết. Anh ḍ
trong niên-giám điện thoại xem sao. Chứ anh là thám tử tư cơ mà".
Tôi không tin lắm
nhưng cũng t́m thử trong niên-giám điện thoại ở hàng chữ "C".
Quả thật có số điện thoại của Bác-học Cừu rành rành ra đấy. Có
cả số điện thoại của người cừu nữa. Thế gian này khó hiểu thật.
Cừu - người cừu (không
có nghề nghiệp)... 363-9847
Cừu - quán Cừu (quán
rượu)... 497-2001
Cừu - Bác-học Cừu
(không có nghề nghiệp)... 202-6374
Tôi giở cuốn sổ tay
ghi số điện thoại và địa chỉ của Bác-học Cừu. Xong uống bia và
ăn nốt miếng pizza. Vụ này không ngờ có thể phăng ra manh mối
sớm thế.
12
Nhà Bác-học Cừu ở đầu
mút phía tây của đường Green Street. Nhà nhỏ bằng gạch, vuờn
trước trồng hoa hồng đang nở. Trông tề chỉnh lạ lùng so với con
đường Green Street này. Tất nhiên, nhà cũng đă cũ rích và lung
lay rồi, nhưng ít nhất th́ cũng trông ra vẻ một căn nhà.
Tôi soát lại cảm giác
nằng-nặng của khẩu súng kẹp dưới nách, đeo kính râm vào, rồi vừa
huưt sáo miệng đoạn khai-tấu-khúc Pariarch vừa đi kiểm
một ṿng chung quanh ngôi nhà. Chẳng có ǵ lạ cả. Phía trong nhà
im ĺm không một tiếng động. Cửa sổ treo màn đăng-tên màu trắng.
Thật im vắng tĩnh lặng, không sao nghĩ được là chỗ ở của một
nhân vật đă làm những chuyện như rứt đứt tai của người cừu.
Tôi ṿng ra cửa trước
xem xét. Tấm bảng gắn ở cửa có ghi "Bác-học Cừu". Đúng đây rồi.
Hộp thư chẳng có ǵ bên trong cả. Chỉ có dán miếng giấy ghi "Không
nhận báo chí hay sữa tươi".
Nhà ở của Bác-học Cừu
th́ t́m ra rồi, nhưng từ đây phải làm ǵ th́ tôi chẳng nghĩ ra.
Bởi đă t́m ra nhà ông ta quá dễ dàng như thế này! Đáng lẽ theo
thói thường th́ phải có khúc mắc khó khăn ǵ đấy, phải ôm đầu
bóp trán mà suy nghĩ nát óc, cuối cùng mới suy ra được chỗ
ở,..., chứ t́m ra đơn giản đến như thế này th́ tôi không sao
tỉnh trí suy nghĩ tiếp được. Thế này th́ kẹt thật. Tôi huưt sáo
bản "Lạy Chúa, xin ban phúc như ḷng người cầu khẩn" của
Bach, lúng túng không biết làm ǵ bây giờ.
Đơn giản nhất là cứ
bấm chuông gọi cửa. Bác-học Cừu ra mở cửa th́ nói: "Xin ông trả
lại tai cho người cừu". Thế thôi.
Và tôi định làm như
thế.
13
Tôi bấm chuông gọi
cửa đến 12 lần. Và đợi trước cửa 5 phút. Chẳng có ai trả lời.
Bên trong nhà vẫn im ĺm như trước. Mấy con chim sẻ đi qua đi
lại trên sân cỏ trước nhà. Tôi chán nản vừa định quay về th́
đúng lúc ấy, đột nhiên cửa mở, và một ông già to bự đầu tóc bạc
trắng tḥ mặt ra. Thật là một khứa lăo đáng sợ quá. Tôi dợm quay
đầu chạy trốn. Nhưng làm thế coi sao được.
-"Này, ồn quá thế".
Ông lăo quát. -"Người ta đang ngủ trưa yên tĩnh thế này mà tụi
bây lại...".
-"Thưa, cụ là Bác-học
Cừu đây ạ?". Tôi hỏi.
-"Kia có mảnh giấy
ghi rơ ràng đấy. Cậu không biết đọc à? Nghe đây, báo chí sữa
tươi th́..."
-"Thưa, tôi đọc được.
Nhưng không phải là người bán báo chí, sữa tươi. Tôi là thám tử
tư"
-"Thám tử tư? Ǵ đi
nữa cũng thế thôi. Đây không cần đâu". Bác-học Cừu nói xong định
đóng sầm cửa lại, nhưng tôi đă thọc chân vào ngáng lại. Cánh cửa
dộng vào xương mắt cá chân đau điếng người, nhưng tôi gắng gượng
không để lộ ra mặt.
-"Cụ không cần, nhưng
tôi th́ có chuyện cần đấy". Tôi nói.
-"Ăn nhằm ǵ chứ?".
Bác-học Cừu nói, vừa đá mũi giày vào mắt cá chân tôi. Đau đến
tưởng chân ḿnh đă bị nát nhừ ra, nhưng tôi cũng ráng chịu.
-"Xin b́nh tĩnh mà
nói chuyện với nhau". Tôi b́nh tĩnh nói.
-"C̣n chưa đi à!".
Bác-học Cừu quát, rồi vớ lấy b́nh hoa gần đấy mà thẳng cánh đập
lên đầu tôi. Tôi bất tỉnh nhân sự.
14
Tôi mộng thấy đang
múc nước giếng. Tḥng gàu múc nước lên xong đổ vào bồn nước.
Nước đầy bồn th́ có con cá sấu đến uống ừng ực một loáng hết
nước. Lại đổ nước vào đầy, lại có con cá sấu khác đến uống ừng
ực một loáng hết nước. Cứ thế lặp đi lặp lại. Tôi đếm được mười
một con cá sấu. Rồi mở mắt tỉnh dậy.
Chung quanh tối om.
Trên trời có sao. Trời sao đêm Sydney thật đẹp. Tôi thấy ḿnh
đang nằm lăn lóc trước cửa nhà Bác-học Cừu. Chung quanh im vắng.
Ví và súng vẫn c̣n nguyên.
Tôi nhỏm dậy, phủi
phành phạch những đất rác bám trên quần áo rồi cho kính râm
vào túi áo. Định bấm chuông gọi cửa một lần nữa, nhưng đầu đau
quá nên đành quay trở về. Đă làm được nhiều hơn phần việc của
một ngày rồi. Nghe chuyện khách hàng, nhận tiền đặt cọc, t́m ra
nhà của thủ phạm, bị đá vào mắt cá chân, bị đập vào đầu. Phần
việc tiếp theo th́ để ngày mai làm cũng được.
Tôi ghé quán pizza
uống bia, và nhờ Charlie băng bó chỗ bị thương.
-"Sưng tấy lên một
cục ghê quá". Charlie nói, vừa lấy khăn ướt lau đầu cho tôi. -"Làm
sao mà đến nỗi này?".
-"Bác-học Cừu đánh
đấy mà". Tôi nói.
-"Đời nào". Charlie
nói.
-"Thật đấy". Tôi nói.
-"Bấm chuông gọi cửa, tự giới thiệu xong là bị đập ngay b́nh hoa
vào đầu đấy".
Charlie suy nghĩ lung
lắm một hồi. Trong lúc ấy, tôi vừa xoa xoa trên đầu vừa uống bia.
-"Đi với em". Charlie
nói.
-"Đi đâu?". Tôi hỏi.
-"Đến nhà Bác-học Cừu
chứ c̣n đâu nữa." Charlie nói.
15
Charlie bấm chuông
gọi cửa nhà Bác-học Cừu liên tiếp 26 lần.
-"Này, ồn quá thế".
Bác-học Cừu ló mặt ra, quát. -"Báo chí, sữa tươi hay thám tử tư
ǵ cũng không..."
-"Ồn cái ǵ, lăo ôn
dịch kia!". Charlie quát lớn.
-"Ủa, Charlie đấy à?".
Bác-học Cừu nói, sửng sốt.
-"Có phải ông đă đập
b́nh hoa lên đầu người này đấy không?". Charlie nói, chỉ về phía
tôi.
-"Ừm... à... th́...
là...". Bác-học Cừu ấp úng.
-"V́ sao mà lại làm
thế chứ? Đây là người yêu của tôi cơ mà!"
Bác-học Cừu tỏ vẻ
sượng sùng khổ sở đưa tay lên găi đầu sột sột. -"Thật bậy
quá. Bởi có biết đâu. Nếu biết th́ đâu có làm thế".
Chứ chính tôi cũng
đâu có biết. Tôi mà là người yêu của Charlie à?
-"Thôi th́, xin mời
vào nhà". Bác-học Cừu nói, vừa mở toang cánh cửa ra. Tôi cùng
Charlie bước vào trong. Rồi đóng cửa lại lập cập thế nào, cánh
cửa lại va vào mắt cá chân. Thật xui quá.
Bác-học Cừu đưa chúng
tôi vào pḥng khách, lấy nước nho ra mời. Ly nước có vẻ bẩn nên
tôi chỉ nhấm một nửa. Charlie th́ chẳng nề hà ǵ, uống cạn ly,
c̣n gặm cả nước đá nữa.
-"Vậy th́, làm sao để
xin lỗi cho phải phép đây". Bác-học Cừu nói với tôi. -"Đầu cậu
có c̣n đau không nào?"
Tôi im lặng gật đầu.
Đă đập b́nh hoa lên đầu người ta rồi c̣n hỏi "đau không nào" nữa
chứ!
-"V́ sao mà đánh đập
người ta thế chứ, cái ông này?". Charlie hỏi.
-"À... à... Dạo này
đâm ra chán ghét người ta quá đấy". Bác-học Cừu nói. -"Cái bọn
bán báo chí hay sữa tươi ǵ ǵ đấy, cứ quấy nhiễu măi, nên ta hễ
thấy người lạ là muốn đập thôi. Xin lỗi vậy. Nhưng mà cậu trẻ ạ,
ta th́ không đọc báo chí mà cũng không uống sữa tươi đâu nhé".
-"Tôi có bán báo chí
hay sữa tươi ǵ đâu, thám tử tư đây chứ!". Tôi kháng nghị.
-"Ừ, ừ, phải rồi,
thám tử tư đấy nhỉ. Lại quên khuấy đi mất". Bác-học Cừu nói.
16
-"Sự thật là tôi đến
để xin cụ trả lại tai cho người cừu". Tôi nói. -"Ba hôm trước, ở
chỗ quầy tính tiền của siêu thị, cụ đă rứt rách tai của người ta
đấy chứ ǵ?"
-"Đúng đấy". Bác-học
Cừu nói.
-"Thế th́ xin trả lại".
Tôi nói.
-"Không muốn".
Bác-học Cừu nói.
-"Tai ấy là của người
cừu cơ mà". Tôi nói.
-"Bây giờ là của ta
rồi". Bác-học Cừu nói.
-"Không c̣n cách nào
khác". Tôi nói, rút khẩu súng lục tự động đeo dưới nách ra. Tôi
vốn là người thiếu kiên nhẫn. -"Tôi phải bắn chết cụ mà lấy cái
tai ấy về thôi".
-"Khoan đă nào".
Charlie can thiệp vào. -"Anh thật chẳng suy nghĩ cho thấu đáo".
Nàng nói với tôi.
-"Đúng thế đấy".
Bác-học Cừu nói.
Tôi nổi giận lên,
suưt nữa là bóp c̣ súng rồi. Charlie hốt hoảng ngăn tôi lại,
nàng thu hết sức đá vào mắt cá chân tôi rồi cướp lấy khẩu súng.
-"C̣n ông cũng chẳng
vừa ǵ". Charlie nói hướng về phía Bác-học Cừu. -"Tại sao lại
không chịu trả tai cho người cừu chứ?".
-"Tai th́ nhất định
không trả đâu. Người cừu là kẻ địch của ta. Lần tới gặp hắn, ta
sẽ rứt luôn cái tai bên kia". Bác-học Cừu nói,
-"Tại sao cụ lại ghét
người cừu đến như thế chứ? Ông ta là người tốt mà". Tôi nói.
-"Chẳng tại sao cả.
Chỉ ghét hắn, thế thôi. Hễ thấy hắn đội lối cừu khó coi ấy vào
mà sống nhởn nhơ thế là ta thấy ghét không chịu được".
-"Ghét bỏ chỉ v́ ao
ước được như thế đấy thôi". Charlie nói.
-"Hả?". Bác-học Cừu
nói.
-"Hử?". Tôi nói.
17
-"Thật ra, ông cũng
muốn thành người cừu đấy chứ ǵ. Thế nhưng lại không muốn thú
nhận như thế nên ghét ngược người cừu đấy".
-"Ra thế!". Bác-học
Cừu nói, có vẻ khâm phục Charlie. -"Có để ư thế đâu".
-"Làm sao mà em hiểu
ra được thế?". Tôi thử hỏi Charlie.
-"Hai người chưa từng
đọc Freud hay Jung sao chứ?"
-"Chưa hề". Bác-học
Cừu nói.
-"Rất tiếc là chưa".
Tôi nói.
18
-"Hoá ra, ta chẳng
ghét bỏ ǵ người cừu cả đấy nhỉ?". Bác-học Cừu nói.
-"Không thể hiểu khác
được". Tôi nói.
-"Chứ c̣n ǵ nữa".
Charlie nói.
-"Thế th́ ta đă làm
chuyện thật bậy đối với người cừu rồi nhỉ?". Bác-học Cừu nói.
-"Có vẻ thế". Tôi nói.
-"Đương nhiên là thế
rồi". Charlie nói.
-"Thế th́, tai người
cừu th́ nên trả lại cho chủ nó chứ nhỉ?". Bác-học Cừu nói.
-"À, có lẽ thế". Tôi
nói.
-"Trả lại ngay bây
giờ đi". Charlie nói.
-"Nhưng mà không c̣n
ở đây đâu". Bác-học Cừu nói. -"Ta đă vứt đi mất rồi".
-"Hả? Vứt đi? Vứt vào
đâu thế?". Tôi nói.
-"Ờ... th́...".
Bác-học Cừu nói.
-"Nói nhanh lên chứ!".
Charlie quát lớn.
-"Ừm, ta đă vứt nó
vào trong tủ lạnh đằng quán pizza Charlie rồi. Lẫn vào trong đám
xúc xích ấy. Chẳng phải v́ có ác ư ǵ...".
Không đợi ông ta dứt
lời, Charlie vớ lấy b́nh hoa gần đấy, thẳng tay choảng lên đỉnh
đầu Bác-học Cừu. Tôi cảm thấy thật là hả hê trong bụng.
19
Kết cuộc, tôi và
Charlie đă lấy lại được tai người cừu. Tuy lúc t́m thấy th́ tai
ấy đă cháy nám màu nâu, và dính đầy nước ớt Tabasco. Bởi đă có
người khách gọi pizza xúc xích, đúng lúc ông ta đưa miếng tai ấy
lên miệng th́ chúng tôi kịp thời chận lại. Xém chút nữa là đi
đời cái tai rồi. Tôi đă gắng rửa sạch, tẩy hết phó-mát đi rồi
nhưng vết nước ớt th́ tẩy bao nhiêu cũng không đi hết được.
Người cừu rất vui
mừng chuyện lấy lại được cái tai, nhưng thấy nó đă cháy nám màu
nâu, và dính nước ớt Tabasco th́ tuy không nói ra nhưng đă thất
vọng đôi chút. Thế nên tôi bớt tiền công cho ông ấy hai ngàn
Yen. Charlie lấy kim chỉ ra khâu cái tai vào lại lốt cừu của ông
ta. Người cừu đứng trước gương, nhảy thử lên 2, 3 lần. Cái tai
ve vẩy. Người cừu thoả măn lắm.
20
Cũng nên kể thêm rằng
Bác-học Cừu đă trở thành người cừu được như sở nguyện. Ông lăo
mỗi ngày đội lốt người cừu đến quán Charlie ăn pizza. Bác-học
Cừu kiêm người cừu có vẻ hạnh phúc tột cùng. Được thế hoàn toàn
là nhờ ở Freud cả.
21
Vụ này xong xuôi, tôi
ḥ hẹn đi chơi với Charlie. Chúng tôi ăn món Trung quốc xong đến
rạp chiếu bóng xem phim Ludwig của Luchino Visconti[3].
Trong bóng tối, tôi đ̣i hôn nàng. Nàng giở gót giày cao đá thẳng
cánh vào mắt cá chân tôi. Đau thấu trời xanh, đến nỗi cả mười
phút sau vẫn chưa thốt ra được tiếng nào.
-"Chứ em đă bảo anh
là người yêu của em rồi kia mà". Tôi nói, mười phút sau.
-"Lúc ấy là lúc ấy".
Charlie nói.
Nói thế chứ tôi nghĩ
là nàng yêu tôi. Có điều các cô th́ đôi lúc nói ngược lại ḷng
ḿnh. Tôi nghĩ thế thật đấy.
-"Xin lỗi em". Tôi
nói, sau khi xong phim.
-"Anh bỏ chuyện thám
tử tư điên khùng vớ vẩn đó đi mà làm nghề ǵ đàng hoàng, để dành
tiền được rồi th́ em sẽ suy nghĩ lại cho". Charlie nói.
Như đă nói, tôi có
nhiều tiền đến ớn mứa ra. Nhưng Charlie không biết thế. Mà tôi
cũng không định cho nàng biết. Tôi yêu Charlie hết ḷng. Nên
nghĩ ḿnh trở thành thợ nhà in cũng được. Nhưng hiện giờ th́ tôi
vẫn c̣n là thám tử tư, có văn pḥng trên Đường Cây Xanh ở
Sydney, nằm dài trên ghế sofa mà chờ khách đến. Từ loa vẳng
tiếng đàn dương cầm của Glen Gould. Đĩa Intermezzo của
Brahms, là đĩa tôi thích nhất.
Nếu bạn đang ôm một
vấn đề ǵ cần giải quyết, th́ trước khi tôi trở thành thợ nhà in
mất, hăy đến gơ cửa văn pḥng thám tử tư của tôi trên Đường Cây
Xanh ở Sydney. Tôi sẽ nhận làm với giá thật rẻ. Lại c̣n bớt thêm
nữa. Duy phải là vụ ǵ hay ho mới được đấy.
Phạm Vũ Thịnh
dịch
Sydney 05/05
Cước chú :
[1] Chiếu :
tấm cói dày lót sàn pḥng, cũng là đơn vị diện tích pḥng và nhà
ở, khoảng 180 cm x 90 cm.
[2] Giấy ngàn
Yen khoảng 10 đô-la Mỹ
[3] Luchino
Visconti (1906-1976): đạo diễn kịch, phim ảnh, và là văn sĩ,
người Ư, nổi tiếng với các phim Obsessione (1943, dựa trên tiểu
thuyết The Postman Always Rings Twice của James M. Cain,
1934), Boccacio 70 (1961), Death In Venice (1971, dựa trên tiểu
thuyết cùng tên của Thomas Mann), Ludwig (1972), The Innocent
(1976),...
Truyện ngắn "Shidoni-no Guri-nu Sutori-to" đă
đăng lần đầu tiên trên tạp chí Umi Số Đặc Biệt tháng 12 năm
1982, là truyện thứ 7 trong tập truyện "Bóng
ma ở Lexington" dịch từ nguyên tác của Murakami Haruki,
từ Nhà xuất bản Đà Nẵng, tháng 8 năm 2007.