Man’yōgana và Chữ Nôm
 


 

Tiếc cho Chữ Nôm đáng lẽ đă có thể tạo nên một cuộc đổi đời
cho quảng đại quần chúng thất học mù chữ từ thời quân chủ.

Phạm Vũ Thịnh

Quá tŕnh h́nh thành chữ Nhật và chữ Nôm có nhiều phần giống nhau ở giai đoạn ban đầu.

Ban sơ, Nhật Bản và Việt Nam có lẽ đă có dạng chữ viết riêng để ghi lại và truyền đi tiếng nói của cộng đồng, thế nhưng chỉ ở trạng thái quá thô sơ chưa thành hệ thống thực dụng. Đến khi tiếp xúc với chữ Hán, th́ dạng chữ viết riêng đó đă bị bỏ quên, nhường chỗ cho hệ thống khá hoàn-bị và thực dụng hơn, là tiếng Hán cùng chữ Hán bắt đầu được dùng ở Nhật Bản và Việt Nam.

A. Trường hợp Nhật Bản

Chữ Hán nhập vào Nhật Bản khởi đầu qua các vật phẩm thương mại như tiền xu, con dấu,... Vật phẩm đầu tiên được biết đến là con dấu vàng Hoàng đế Quan Vũ nhà Hán đă ban tặng cho Vua Nhật vào năm 57, thế kỷ thứ nhất. Tiếp theo đó là kinh sách Phật giáo truyền sang qua ngả Bách Tế (Cao Ly). Những khai quật khảo cổ cho biết: khoảng cuối thế kỷ thứ 4, người Nhật song ngữ đă đọc và viết tiếng Hán trong triều đ́nh và văn bản chính thức.

Tất nhiên, người Nhật Bản đă cần có một hệ thống kư tự để ghi lại những từ ngữ của tiếng Nhật, và họ đă cố gắng dựa vào chữ Hán để tạo ra hệ thống chữ viết riêng. Hệ thống thực dụng đầu tiên được chế tạo ra là Man’yōgana.

A-1. Lược sử Man’yōgana

Một di tích có thể cho là h́nh tích thô sơ và lâu đời nhất của hệ thống chữ viết Man’yōgana, là thanh kiếm Inariyama bằng sắt được khai quật tại phần mộ Inariyama vào năm 1968; đến năm 1978, phân tích bằng tia X cho thấy thanh kiếm này có lẽ đă được làm vào năm 471, thế kỷ thứ 5, có một ḍng chữ dát vàng bao gồm ít nhất là 115 chữ Hán có cả vài tên người Nhật Bản, như tên nhà vua, tên người chế kiếm,...

Việc khai quật được tiếp theo đó những di tích bằng gỗ có ghi khắc chữ cho biết đến thế kỷ thứ 8, khoảng năm 712 th́ có sách  Kojiki (古事記, cổ sự kư - sổ ghi chuyện đời xưa), rồi đến năm 720 th́ có sử Nihon Shoki (日本書紀, Nhật Bản thư kỷ - sử biên niên Nhật Bản), hai bộ sách này phần lớn viết bằng Hán văn, Hán tự, nhưng cũng đă có những chữ theo kiểu Man’yōgana dùng chữ Hán chỉ để ghi chú các âm tiết tiếng Nhật.

Đến năm 783, cũng thế kỷ thứ 8 thời Nara (710 – 794) mới có tập thơ ca Man'yōshū (万葉集, vạn diệp tập - tập thơ ca có vạn lá hay vạn tờ) dùng nhiều kư tự Man’yōgana hơn, và có tính cách hệ thống hơn, nên tên sách này đă được dùng để đặt cho hệ thống chữ viết Man’yōgana.

A-2. Cấu tạo của Man’yōgana

Như thế, Man’yōgana ( , vạn diệp giả danh) là loại kư tự ( kanagiả danh) thực dụng đầu tiên dùng nguyên chữ Hán để ghi âm tiếng Nhật, có tất cả khoảng 8,970 chữ Hán đă được dùng.

Người Nhật đọc mỗi Hán tự (Kanji) theo hai cách: On-yomiKun-yomi. On-yomi (Âm độc – đọc theo âm nghe được) là phát âm kiểu Nhật Bản của chữ Hán như họ nghĩ là đă nghe được từ miệng người Hán, từ đây xin gọi là âm Hán Nhật của chữ Hán. C̣n Kun-yomi (Huấn độc – đọc theo nghĩa của chữ như đă được dạy) là âm đọc của từ đồng nghĩa tiếng Nhật để diễn tả ư nghĩa của chữ Hán ấy. Ví dụ người Hán nói “ Wŏ” (Ngă, theo âm Hán Việt), âm này không có trong tiếng Nhật, nên người Nhật nghe thành âm gần nhất trong tiếng Nhật là “ga”, đọc theo cách On-yomi, tức là âm Hán Nhật; và cũng chữ   đó, người Nhật c̣n đọc là “ware” theo ư nghĩa (Kun-yomi) trong tiếng Nhật, có nghĩa là “tôi, ta”. Hoặc chữ Hán “ ” (xuyên) người Nhật nghe ra là “sen” theo âm Hán Nhật (On-yomi); và cũng chữ đó, người Nhật c̣n đọc là “kawa” theo ư nghĩa (Kun-yomi) trong tiếng Nhật cùng có nghĩa là “ḍng nước”.

Man’yōgana tùy người viết chữ mà dùng âm theo On-yomi hay Kun-yomi của chữ Hán để ghi mỗi âm tiết trong một từ ngữ Nhật Bản vốn đa âm tiết, chứ không đơn âm như từ ngữ Hán.

Ví dụ, bài thơ 17-4025 (bài thứ 4025 trong cuốn thứ 17) của Man'yōshū được viết như sau:

Man’yōgana

之乎路可良

多太古要久礼婆

波久比能海

安佐奈藝思多理

船梶母我毛

Katakana

シオジカラ

タダコエクレバ

ハクヒノウミ

アサナギシタリ

フネカジモガモ

Modern

志雄路から

ただ越え来れば

羽咋の海

朝凪したり

船梶もがも

Romanized

Shioji kara

tadakoe kureba

Hakuhi no umi

asanagi shitari

funekaji mogamo


Hàng thứ nhất là ḍng chữ Man’yōgana đúng như trong nguyên bản Man'yōshū, gồm toàn chữ Hán.
Hàng thứ hai là cũng ḍng chữ ấy viết lại theo hệ thống kư tự Katakana chỉ ghi âm Nhật mà thôi.
Hàng thứ ba là cũng ḍng chữ ấy viết lại theo hệ thống kư tự Nhật Bản ngày nay, gồm cả Hán tự (Kanji) và Hiragana để đọc âm và nghĩa tùy theo chữ.
Hàng thứ tư là cũng ḍng chữ ấy ghi theo kư tự La Tinh cho người nước ngoài có thể đọc lên.

Và dưới đây là câu văn giải thích ư nghĩa của bài thơ đó, viết theo hệ thống kư tự Nhật Bản ngày nay, gồm cả Kanji và Hiragana.

志雄街道からまっすぐ越えて来ると、羽咋の海はいかにも穏やかだ。この海を漕ぎ渡って行く船やかじがあればいいのだが。

Ư nghĩa này có thể dịch ra tiếng Việt là:

Đi thẳng đến hết đường núi Shio th́ thấy biển Hakui lúc này đang thực sự tĩnh lặng. Phải chi có một con thuyền, một mái chèo cũng qua được vùng biển này.

Xin lưu ư là trong nguyên bản, các âm mo (,,) và shi (,,) đă được viết với hai kư tự khác nhau. Và trong khi hầu hết các từ đều được viết theo ngữ âm, ví dụ: 多太  tada, 安佐  asa (On-yomi), th́ các từ ji (), umi () và funekaji ( ) lại được viết theo ngữ nghĩa (Kun-yomi). Đây là tính cách thiếu nhất quán của Man’yōgana, tùy theo người viết mà dùng một trong các cách tạo kư tự sau đây: 

A-2-1. Cách dùng On-yomi: Âm của tiếng Nhật có thể được ghi bằng âm của chữ Hán đọc theo On-yomi trong cách thức gọi là Shakuon 借音  (tá âm) mượn âm (Hán) để tạo ra kư tự ghi âm Nhật, ví dụ:

 

 

-         Một chữ Hán cho một âm:

( i), ( ro), ( ha), ( a), (ra)

-         Hay một chữ Hán nhưng chỉ lấy âm đầu tiên:

(しな shi na, chỉ lấy âm shi), (らむ ra mu, chỉ lấy âm ra)

A-2-2. Cách dùng Kun-yomi: Âm tiết của tiếng Nhật có thể được ghi bằng âm của chữ Hán đọc theo Kun-yomi trong cách thức gọi là Shakkun 借訓  (tá huấn) mượn âm từ tiếng Nhật đồng nghĩa, để tạo ra kư tự ghi âm Nhật, ví dụ:

 

 

-         Âm duy nhất của tiếng Nhật đồng nghĩa của một chữ Hán:

( me)
( ke)
( ka)

 

 

 

 

 

-         Hay âm đầu tiên của tiếng Nhật đồng nghĩa của một chữ Hán:

  (あり a ri, chỉ lấy a)
  (まく ma ku, chỉ lấy ma)
  (かも ka mo, chỉ lấy ka)

A-3. Kư tự Hiragana và Katakana từ nền tảng Man’yōgana

Man’yōgana có tính cách thiếu nhất quán như thế: có hai cách tạo kư tự khác nhau, và dùng nhiều chữ gốc quá (có đến 8,970 chữ Hán được dùng tùy theo người viết) khiến lắm khi khó xác định được là từ cách nào hay từ chữ Hán nào, do đó phải đọc ra làm sao; vả lại dùng nguyên chữ Hán vốn có nhiều nét phức tạp, nên người Nhật đă tiến thêm một bước nữa, dựa trên căn bản Man’yōgana này mà tạo ra hai hệ thống kư tự Hiragana và Katakana giản dị hơn, để ghi âm tiếng Nhật căn bản chỉ cần có hơn 50 âm tiết khác nhau.

Hiragana phát triển từ Man’yōgana viết Hán tự bằng lối chữ “thảo sōsho (草書, thảo thư) được phụ nữ Nhật sử dụng phổ biến; c̣n Katakana phát triển do các nhà sư Phật giáo như một dạng viết tắt, trong hầu hết các trường hợp chỉ sử dụng một vài bộ phận nhỏ, ví dụ một vài nét đầu tiên hoặc cuối cùng, của các kư tự Man’yōgana viết bằng lối chữ “khảikaisho (楷書, khải thư).

Kư tự Hiragana có thể có gốc Man’yōgana dùng chữ Hán khác với kư tự Katakana đồng âm, ví dụ, Hiragana (ru) có nguồn gốc từ Man’yōgana   (lưu – giữ lại), trong khi Katakana (ru) có nguồn gốc từ Man’yōgana   (lưu – ḍng chảy).

Dưới đây là bản liệt kê toàn bộ kư tự Katagana căn bản, mỗi ô ghi một âm Nhật, từ trái qua phải là các cột A, I, U, E, O; từ trên xuống dưới là các hàng A, Ka, Sa, Ta, Na, Ha, Ma, Ya, Ra, Wa, N; mỗi ô có kư tự cho âm Nhật ngay trước gốc Man’yōgana chữ Hán viết theo lối chữ khải, phần màu đỏ là bộ phận đă được trích ra để tạo nên kư tự Katakana này.

C̣n sau đây là bản liệt kê toàn bộ kư tự Hiragana căn bản, mỗi ô ghi một âm Nhật, từ phải qua trái là các cột A, Ka, Sa, Ta, Na, Ha, Ma, Ya, Ra, Wa, N; từ trên xuống dưới là các hàng A, I, U, E, O; mỗi ô có gốc Man’yōgana chữ Hán viết theo lối chữ khải (cho dễ nhận ra), rồi đến chữ viết tháu theo lối chữ thảo của chữ Hán đó, và dưới cùng là kư tự Hiragana được tạo ra cho âm Nhật.

 

*

Xem thế, Hiragana và Katakana đơn giản (chỉ có khoảng 50 kư tự cho âm tiết Nhật Bản) và tiện dụng hơn Man’yōgana (có đến 8,970 chữ Hán) rất nhiều, nhưng đều đă được tạo ra nhờ vào căn bản là Man’yōgana.

Kư tự Katakana cổ nhất t́m thấy được có lẽ là bộ kinh Phật giáo “Daihōkō Butsu Kegon Kyō” (大方広仏華厳経 kinh Hoa Nghiêm) từ thời Nara (710-794) thế kỷ thứ 8, có các chữ khắc giống chữ katakana. C̣n kư tự Hiragana cổ nhất t́m thấy được trên di tích đồ dùng bằng sành th́ vào khoảng thế kỷ thứ 9, thời Heian (794-1192) ở Kyoto.

Katakana có trước Hiragana là điều dễ hiểu hợp luận lư. Bởi v́ giới tăng lữ thời bấy giờ có nhu cầu khẩn thiết phải có ngay một loại kư tự để ghi chú âm đọc và ư nghĩa tiếng Nhật của kinh điển truyền sang, cho mục đích hoằng pháp phổ biến Phật giáo đến mọi giai tằng trong xă hội Nhật Bản. Điều đáng khâm phục là hệ thống kư tự Katakana đă được sư tăng Nhật Bản sáng tạo từ các nét đơn giản của chữ-gốc Man’yōgana thật nhanh chóng ngay trong thế kỷ thứ 8 không bao lâu sau khi kư tự Man’yōgana thành h́nh.

Sau đó Hiragana xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 9. Ở đây, xin “mạo hiểm” phỏng đoán rằng: thế nào cũng phải có bàn tay nam giới trong việc sáng tạo hệ thống kư tự Hiragana được giới phụ nữ ưa chuộng sử dụng. Bởi lẽ thời xưa, nam giới quư tộc mới được học và dùng Hán văn Hán tự (cho công việc hành chánh và văn bản chính thức, kể cả những sáng tác văn học bằng Hán văn). Có lẽ do t́nh thân gia đ́nh mà nam giới đă giảng giải về văn chương, chữ khải, chữ thảo, và kư tự Katakana cho thân nhân phụ nữ, từ đó chung sức sáng tạo ra Hiragana cho phụ nữ dùng. Và họ đă chọn lối viết chữ thảo của các chữ-gốc Man’yōgana v́ hai lư do chính (1) để phân biệt với tư liệu chính thức hay hành chánh (dùng Katakana), và (2) để có nét mềm mại uyển chuyển được phái nữ ưa chuộng, chứ không cứng cỏi như các kư tự Katakana. Thời xưa, nam nhi quư tộc chỉ thích viết Hán văn bằng Hán tự mà thôi, c̣n giới phụ nữ mới viết bằng Hiragana, sáng tác những tác phẩm văn học được truyền tụng đến ngày nay. 

Chính v́ Hiragana (và Katakana) đơn giản dễ học, nhờ vậy đă phổ biến đến cả những tầng lớp trước kia bị thất học, mù chữ thời phong kiến, phần lớn nhất là nông dân. Đă có nhiều cuộc kiểm kê dân số trong khoảng năm 1877-1889 cho thấy thời đại Edo Phủ Chúa Tokugawa (1600-1868), suất biết đọc biết viết đạt đến khoảng 36.3% (nam 55%, nữ 16.5%) cao không kém ǵ nhiều nước Âu Tây cùng thời, trong thành tích đó có công lớn của hệ thống kư tự thực dụng Hiragana (và Katakana). Năm 2019, suất biết đọc biết viết của Nhật Bản vào khoảng 99%.

*

Ngày nay, Man’yōgana vẫn c̣n được thấy trong một số tên khu vực của Nhật Bản, đặc biệt là ở Kyushu. Và vẫn c̣n tồn tại một cách thức dùng chữ Hán tương tự như cách tạo chữ Man’yōgana, gọi là “ateji” (当て字 gán ghép chữ), trong đó chỉ có phần ngữ âm Nhật Bản của các chữ Hán (bỏ đi phần ngữ nghĩa) được ghép lại để tạo ra từ ngữ Nhật Bản mới, ví dụ 倶楽部  (kurabu, câu lạc bộ, chữ “lạc” ở giữa đọc theo On-yomi là raku nhưng chỉ âm tiết đầu là “ra” được dùng) dịch từ “club” trong tiếng Anh. Hoặc từ 冗句  (jo-ku, nhũng cú – câu nói đùa) dịch từ “joke” trong tiếng Anh. Hay từ 野暮  (yabochỉ dùng âm của hai chữ Hán “dă mộ”) để viết, gán cho từ やぼ (yaboviết bằng Hiragana, ư nghĩa là quê kệch, xưa cũ) là một tiếng thuần Nhật.

*

B. Trường hợp Việt Nam

Chữ Hán nhập vào Việt Nam thời Hán thuộc khoảng năm 111 BC (thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên), từ đó tầng lớp cai trị dùng tiếng Hán và chữ Hán v́ nhu cầu hành chính. Ngay cả sau khi Việt Nam được độc lập năm 938, tiếng Hán và chữ Hán vẫn tiếp tục được dùng, và được chính thức công nhận là ngôn ngữ hành chính vào năm 1010, thế kỷ thứ 11.

Tất nhiên, người Việt Nam cũng đă cần có một hệ thống kư tự để ghi lại những từ ngữ của tiếng Việt, và họ cũng đă cố gắng dựa vào chữ Hán để tạo ra hệ thống chữ viết riêng. Do đó đă tạo ra hệ thống kư tự gọi là Chữ Nôm.

B-1. Lược sử Chữ Nôm

Các học giả so sánh đối chiếu hệ thống ngữ âm tiếng Hán và tiếng Hán Việt đă đi đến kết luận rằng âm Hán Việt (âm của người Việt đọc chữ Hán) đă bắt nguồn từ thời nhà Đường hoặc nhà Tống thế kỷ 8 - 9. Do đó, chữ Nôm vốn dựa trên âm Hán Việt chỉ có thể ra đời sớm lắm cũng khoảng thế kỷ thứ 10 khi người Việt thoát khỏi ngh́n năm Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 938. Có thể tên nước  Đại Cồ Việt 大瞿越  dưới thời Đinh Bộ Lĩnh (924–979), có chữ Cồ là tiếng Việt đầu tiên được ghi bằng chữ Nôm.

Chứng tích lịch sử sớm nhất là một số chữ Nôm khắc trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Pḥng đúc năm 1076, thế kỷ thứ 11; rồi đến bài kư viết trên bia ở chùa xă Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ tạc năm 1173, thế kỷ thứ 12. C̣n trước tác thơ văn th́ phải sang thời nhà Trần mới có dấu tích rơ ràng với thơ chữ Nôm của Nguyễn Thuyên (tức Hàn Thuyên) viết khoảng năm 1282, thế kỷ thứ 13, dưới thời Trần Nhân Tông.

B-2. Cấu tạo của Chữ Nôm

Tiếng Việt cũng có tính cách căn bản là đơn âm như tiếng Hán, chứ không đa âm như tiếng Nhật. Và người Việt Nam ngày xưa đă dùng tiếng Hán suốt hai ngàn năm trong triều đ́nh, trong giới học thuật, khoa cử, trong văn kiện, văn học,... ; tuy nhiên ngay trong nước th́ họ nói hay đọc theo âm Hán Việt chứ không dùng âm Hán giọng Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Bắc Kinh, Hải Nam,... Trong đời sống hàng ngày, giới có học này nhiều khi dùng cả những từ ngữ tiếng Hán với nhau, và dạy bảo cả cho người thân không thuộc giới có học nữa, do đó dần dần nhiều tiếng Hán đă thẩm thấu vào tiếng Việt trở thành những từ Hán Việt, ngày nay chiếm đến 70% trong ngôn ngữ Việt Nam; và lắm từ ngữ, lắm thành ngữ Hán Việt lại có ư nghĩa lệch đi, thậm chí hoàn toàn khác với từ gốc trong tiếng Hán, một phần cũng v́ dùng theo văn phạm, văn pháp tiếng Việt vốn ngược với văn pháp tiếng Hán. Ví dụ từ “tử tế” tiếng Hán có nghĩa là “nhỏ nhặt, tỉ mỉ” đă được người Việt dùng làm từ Hán Việt có nghĩa là “hay giúp đỡ, thương người” hoặc “đàng hoàng”; hay từ “tiểu tâm” tiếng Hán có nghĩa là “cẩn thận” đă được người Việt dùng làm từ Hán Việt có nghĩa là “nhỏ mọn, hẹp ḥi".

Do đó, việc tạo ra một hệ thống kư tự Việt Nam gọi là “Chữ Nôm” th́ đă tiến hành như sau:

Đối với những từ Hán Việt trong ngôn ngữ Việt th́ đă có sẵn chữ Hán, chỉ cần giữ nguyên mà cho vào chung trong hệ thống kư tự Nôm là được.

Đối với những từ thuần Việt trong ngôn ngữ Việt th́ có các cách tạo chữ Nôm căn bản sau đây:

B-2-1. Giả tá (vay mượn)

Là cách người Việt mượn nguyên chữ Hán nào có phát âm Hán Việt giống hệt hoặc gần giống âm của từ ngữ Việt Nam để viết thành kư tự Nôm cho tiếng Việt cho dù hoàn toàn khác nghĩa.

Ví dụ phát âm Hán Việt giống hệt: chữ Hán   - “một" nguyên nghĩa là "ch́m" hay “mất đi” được mượn dùng để ghi từ "một" của tiếng Việt trong nghĩa "một ḿnh"; chữ   - "tốt" nguyên nghĩa là "binh lính" được mượn dùng để ghi từ "tốt" của tiếng Việt trong nghĩa "tốt xấu".

Ví dụ phát âm Hán Việt gần giống: chữ Hán âm Hán Việt là “biệt”, nguyên nghĩa là “khác biệt” hoặc “ly biệt”, được dùng để ghi âm “biết” của tiếng Việt trong nghĩa “hiểu biết”.

B-2-2. Huấn độc (mượn nghĩa)

Là cách người Việt mượn nguyên chữ Hán nào có ư nghĩa giống hệt hoặc gần giống từ ngữ Việt Nam để viết thành kư tự Nôm cho tiếng Việt cho dù hoàn toàn khác nghĩa. Ví dụ: chữ   - "dịch" nguyên nghĩa là "nách" được dùng để ghi lại từ "nách" trong tiếng Việt nghĩa là "cái nách"; hoặc chữ   - "năng" nguyên nghĩa là "có tài" được dùng để ghi lại từ "hay" của tiếng Việt trong nghĩa "văn hay chữ tốt" hoặc trong nghĩa “thường khi”.

B-2-3. H́nh thanh (ghép âm và nghĩa)

Là cách ghép hai chữ Hán với nhau, một chữ Hán gợi âm, chữ Hán kia gợi nghĩa, để cấu tạo một chữ Nôm mới.

Ví dụ chữ Nôm "chân" trong nghĩa "chân tay" được cấu thành từ hai chữ Hán: - "túc"  là “cái chân biểu ư, và chữ - "chân" nghĩa là “thực” biểu âm trong chữ Nôm mới ấy.

*

C. So sánh trường hợp Việt Nam và Nhật Bản

So với Nhật Bản đă đọc và viết tiếng Hán trong triều đ́nh và văn bản chính thức vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4, th́ Việt Nam dùng tiếng Hán và chữ Hán v́ nhu cầu hành chính vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, sớm hơn ít nhất là sáu thế kỷ. Nhưng nếu chữ Nôm đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ thứ 10, th́ đă trễ hơn đến 5 thế kỷ so với chữ Man’yōgana trên thanh kiếm Inariyama ở thế kỷ thứ 5. Và thơ Nôm của Hàn Thuyên xuất hiện ở thế kỷ thứ 13 th́ cũng đă trễ hơn 5 thế kỷ so với các sách sử Nhật Bản dùng kư tự Man’yōgana ở thế kỷ thứ 8.

C-1. Những điểm giống nhau
 

      Nhật Bản và Việt Nam đều có ngôn ngữ riêng khác với tiếng Hán, nhưng chữ viết ban sơ th́ có lẽ đă quá thô sơ không thực dụng, nên từ ngày xưa đă phải mượn chữ Hán để chế tạo hệ thống chữ viết riêng để ghi lại tiếng nước ḿnh, đó là Man’yōgana và Chữ Nôm. Sáng kiến đó giống nhau và hợp với trực giác hay luận lư gần như tự nhiên.

      Cách tạo ra chữ Man’yōgana từ âm Hán Nhật On-yomi kiểu người Nhật đọc Hán tự, cũng giống như cách tạo ra chữ Nôm từ âm Hán Việt kiểu người Việt đọc Hán tự.

      Cách tạo ra chữ Man’yōgana từ nghĩa tiếng Nhật của Hán tự theo Kun-yomi của người Nhật cũng tương tự như cách tạo ra chữ Nôm từ nghĩa tiếng Việt của Hán tự.

      Cả Man’yōgana lẫn Chữ Nôm đều có tính cách thiếu nhất quán, v́ có nhiều cách tạo kư tự khác nhau, và tùy người viết mà dùng nhiều chữ-gốc Hán tự khác nhau, cũng cùng do nguyên nhân chính là v́ Hán tự vốn đơn-âm-tiếtsố âm căn bản quá ít, hóa ra có quá nhiều chữ đồng âm mà ư nghĩa khác nhau và viết khác nhau, đưa đến hậu quả là kư tự Man’yōgana hay Chữ Nôm thường khó xác định được là từ cách chế tạo nào, hay từ chữ Hán nào, và phải đọc ra làm sao.

      Cả Man’yōgana lẫn Chữ Nôm đều phức tạp, thiếu nhất quán, nên khó học, đ̣i hỏi công của và th́ giờ đến mức xa xỉ đối với giới b́nh dân, rốt cuộc chỉ là công cụ đặc quyền của giới có học để ghi chú kinh sách hay sáng tác thơ ca văn chương, chứ đă chẳng giúp ǵ cho quảng đại quần chúng thất học mù chữ, chiếm phần lớn dân số.

*

C-2. Những điểm khác nhau

Tiếng Việt có tính cách căn bản là đơn âm như tiếng Hán, chứ không đa âm như tiếng Nhật.
 

      Mỗi kư tự trong Chữ Nôm cũng là một từ ngữ có ư nghĩa trọn vẹn, không như kư tự Man’yōgana chủ yếu là chỉ một âm tiết không mang ư nghĩa riêng hay trọn vẹn.

      Phần lớn kư tự trong Chữ Nôm là do cách ghép hai chữ Hán hay thêm nét vào một chữ Hán làm gốc, trong khi kư tự Man’yōgana chủ yếu chỉ dùng một chữ Hán giữ nguyên dạng làm gốc.

      Nhưng khác biệt lớn nhất và quan trọng nhất về mặt kết quả hay hiệu quả, chính là: người Nhật đă tiến xa hơn, dựa trên Man’yōgana để tạo ra hệ thống Hiragana (và Katakana) đơn giản hơn nhiều và thực dụng cho đến ngày nay. Trong khi Chữ Nôm th́ không tiến thêm nữa, vẫn thiếu nhất quán, thiếu tiêu chuẩn, và phức tạp nên kém thực dụng, kết cuộc đă bị phế bỏ, thay vào đó hệ thống kư tự La Tinh hóa trở thành Chữ Quốc ngữ Việt Nam.
hai lư do chính giải thích tại sao Chữ Nôm đă không tiến theo hướng giản dị hóa như ở Nhật Bản.
1. Lư do thứ nhất là v́ người Việt đă nhắm mục đích là tạo ra một hệ thống kư tự thống nhất cho cả chữ thuần Việt cần kư tự mới, lẫn chữ Hán Việt đă có sẵn kư tự Hán rồi. Với Chữ Nôm, họ đă đạt thành mục đích ấy. Nguyễn Du đă viết Truyện Kiều bằng hệ thống Chữ Nôm đó, gồm cả những kư tự Nôm mới và kư tự Hán Việt của những chữ Hán đă được Việt Nam hóa hiểu theo ư nghĩa của người Việt nên có thể gọi là những chữ Nôm cũ. Đoàn Thị Điểm đă viết Chinh Phụ Ngâm Khúc cũng bằng hệ thống Chữ Nôm đó, dịch từ nguyên tác Chinh Phụ Ngâm mà Đặng Trần Côn đă viết bằng Hán tự. Không thể bảo là Nguyễn Du đă viết Truyện Kiều bằng Chữ Nôm và chữ Hán. Cũng không thể bảo là Đoàn Thị Điểm đă viết Chinh Phụ Ngâm Khúc bằng Chữ Nôm và chữ Hán. V́ cả hai người đều đă viết bằng Chữ Nôm mà thôi!

2. Lư do thứ hai là v́ tiếng Việt vốn đơn âm, người Việt ngày xưa không phân tích âm tiết; với họ, một từ chỉ có một âm mà thôi. Tạo ra một kư tự Nôm để ghi một từ trong tiếng Việt, th́ kư tự đó phải biểu thị được cả ư nghĩa lẫn âm đọc. Đă không có khái niệm âm tiết trong Chữ Nôm. Trong khi, tiếng Nhật đa âm, người Nhật phải chú ư đến âm đọc trước đă, khi tạo ra kư tự mới cho tiếng Nhật. Chính v́ kư tự mới không cần phải biểu thị ư nghĩa của từ, cho nên người Nhật đă có thể giản dị hóa cùng cực những kư tự Man’yōgana, chỉ giữ lại vài nét tối thiểu vừa đủ để phân biệt giữa các âm với nhau (căn bản chỉ có 50 âm!) mà vẫn biểu thị được đủ số âm tiết cần có.

*

Kết luận:

Các trang mạng của Wikipedia, Viện Việt học (ở nước ngoài), Viện Hán Nôm (ở trong nước),... cho nhiều chi tiết cặn kẽ hơn về hai hệ thống kư tự Man’yōgana và Chữ Nôm mà bài viết này đă ghi lại sơ lược; chủ ư của người viết chỉ là vài điểm sau đây:

 

      Tiếng Việt (ngôn ngữ Việt Nam) là hệ thống gồm những từ thuần Việt và cả những từ Hán-Việt đă được Việt-hóa trở thành Việt ngữ. Từ Hán Việt cũng là một phần quan trọng không thể thiếu trong ngôn ngữ Việt Nam. Nếu thành phần từ thuần Việt là xương cốt,  th́ thành phần từ Hán Việt cũng là máu thịt của tiếng Việt. Không có lư do ǵ để ghét bỏ từ Hán Việt như thể một thứ quá khứ nô lệ cần quên đi. Từ Hán Việt c̣n là vốn quư, có tiềm năng phát triển lớn, giúp tạo ra được những từ ngữ mới đáp ứng nhu cầu của tiếng Việt theo kịp với thời đại.

      Trên căn bản ấy, Chữ Nôm là hệ thống gồm những kư tự thuần Việt và cả những kư tự Hán-Việt đă được Việt-hóa. Nhờ có Chữ Nôm mới lưu truyền và bảo tồn được tài sản văn học văn hóa Việt Nam gần như trọn vẹn đến ngày nay. Và vẫn c̣n phải tiếp tục nhờ vào Chữ Nôm để nghiên cứu và nhận thức về lịch sử của dân tộc.

      Hai lư do chính cố gắng giải thích tại sao Chữ Nôm đă không tiến thêm theo hướng giản dị hóa như ở Nhật Bản. Điều căn bản vẫn là mục đích của việc tạo ra Chữ Nôm, đó là tạo ra một hệ thống kư tự thống nhất cho cả chữ thuần Việt cần kư tự mới, lẫn chữ Hán Việt đă có sẵn kư tự Hán, trong khuôn mẫu kư tự của tiếng Hán cùng đơn âm (mỗi từ một âm) như tiếng Việt. Chứ không c̣n đích nhắm ǵ khác. Và mục đích đó đă đạt thành.
*

Dù vậy, có thể vẫn thấy đáng tiếc là nỗ lực của tiền nhân đă ngừng lại, không tiến thêm được đến mức thực dụng như trường hợp Nhật Bản, bởi đă không hề có thêm mục đích quảng bá chữ viết xuống đến cả giới b́nh dân. Do đó rốt cuộc Chữ Nôm đă chỉ là công cụ đặc quyền của giới có học để ghi chú kinh sách hay sáng tác thơ ca văn chương, chứ đă chẳng giúp ǵ cho quảng đại quần chúng thất học mù chữ, chiếm phần lớn dân số.

Phạm Vũ Thịnh
12 Jun 2021


® "Khi phát hành lại thông tin từ trang này cần phải có sự đồng ư của tác giả 
và ghi rơ nguồn lấy từ www.erct.com"

Cảm tưởng, ư kiến xin gởi về  t4phamvu@hotmail.com