
Vài ư về bài thơ
“Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ” của Hàn Mạc Tử
Phạm Vũ Thịnh
Hàn Mạc Tử
là nhà thơ thiên tài bạc mệnh được người Việt yêu thích, ông có
nhiều tác phẩm để đời, trong đó nổi tiếng và được ái mộ bậc nhất
có lẽ là bài thơ này:
Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ
Sao anh không về chơi thôn
Vỹ
Nh́n nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
*
Gió theo lối gió, mây đường mây
Ḍng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
*
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá, nh́n không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết t́nh ai có đậm đà?!
*
Tuy nhiên, vừa đọc xong
nhan đề bài thơ hẳn đă có người kháng cự, rằng nhan đề viết sai
rồi, xưa nay sách báo vẫn ghi là “Đây thôn Vỹ Dạ” chứ làm ǵ có
chữ “Ở”, và chữ “Dạ” chứ ai lại viết là “Giạ”?
Xin thưa, viết như thế là v́ có chứng cớ khả tín từ nhà báo
PHANXIPĂNG,
trên Facebook của anh có h́nh chụp thủ bút của chính nhà thơ
Hàn Mạc Tử mà bản chính đă được gửi cho bạn gái của ông là nữ
sĩ Hoàng
Thị Kim
Cúc vào khoảng năm 1939, như bản sao dưới đây:

Và tất cả chữ chép lại
trên đây trong bài thơ cũng là từ h́nh chụp này, chứ bài thơ này
đă được sao chép thành vô số phiên bản qua nhiều thời kỳ và nhiều
người, đă có nhiều chữ bị thay đổi khác đi.
Lại nữa, trên Facebook của
nhà báo
PHANXIPĂNG
c̣n có h́nh chụp “Trên tờ Đông Á Tân Văn số 2 (Sài G̣n,
19/10/1940 - lúc Hàn Mạc Tử c̣n tại thế), bài thơ này đăng lần đầu
cùng bài thơ “Ghen”, qua ảnh do Vũ Hà Tuệ chụp. Lưu í rằng bản in:
* Nhan đề “Ở đây thôn Vĩ Dạ”, không bỏ từ “Ở”, và * Bút hiệu / bút
danh chính thức của tác giả là “Hàn Mạc Tử”, không phải “Hàn Mặc
Tử”.

*
Thật vui
mừng được dịp “chiêm ngưỡng” nét bút của nhà thơ Hàn Mạc Tử, rất
có cá tính và có vẻ đẹp riêng rất khác thường. Có lẽ đấy là một
bản hoàn chỉnh hay “final” mà tác giả đă chép lại từ các bản
thảo bản nháp trước đó, bởi hoàn toàn không có “đồ, di, câu, cải”
những chỗ xóa bỏ, dời đi, móc thêm hay sửa đổi ǵ cả. Những khoảng
trống, cách xuống ḍng, chiều nghiêng của ḍng chữ,... có phong
thái ǵ đó rất đặc biệt, rất Hàn Mạc Tử!
Lại nữa, căn cứ vào
các tư liệu ấy, có thể nhận ra được hai điểm, tạm gọi là phát
kiến, khá thú vị.
(1)
Một phát kiến là chữ “Giạ” bất ngờ. Hiếm khi thấy được chữ
“Giạ” như thế, mà chỉ thấy chữ “Dạ” hầu như được mặc nhận là tiêu
chuẩn. Khổ nỗi chữ “Dạ
夜”
th́ chỉ có nghĩa là đêm tối. Đâm ra thắc mắc về ư nghĩa của chữ
“Giạ”, mới nhớ ra ngày xưa ở Huế có nhà thơ Ưng B́nh Thúc Giạ
Thị, tên hiệu của cụ viết chữ Hán là
菽野氏Thúc
Giạ Thị, chữ “Giạ” trong tên cụ có vẻ là giọng Huế của chữ
“Dă
野”
có nghĩa là cánh đồng, cơi bờ, chốn quê, dân quê. Vậy th́
có thể đoán là “Vỹ Dạ” có lẽ cũng có nghĩa là cánh đồng Vỹ (trong
từ điển Thiều Chửu th́ từ Hán Việt không có chữ Vỹ mà chỉ có chữ
Vĩ có đến bảy ư nghĩa khác nhau!), khiến dễ đoán ṃ là “cánh đồng
bao la”, hay “cánh đồng ở phía đuôi (?)” ǵ đấy. Nói ǵ đi nữa th́
chữ “Giạ” này cũng rất Huế, đặc biệt Huế, mà Hàn Mạc Tử yêu mến
Huế đến viết ra theo giọng Huế (hay cũng có thể bảo là một tiếng
riêng của người Huế).
Và chữ
“Giạ” của Hàn Mặc Tử cũng khiến thắc mắc về ư nghĩa của địa danh
“Vỹ Dạ”, nên t́m kiếm và đọc được trên mạng bài này: “Hàn Mạc
Tử: T́nh đầu với nguyên tác “Ở đây thôn Vỹ Giạ” - Ḱ II: Nguyên
tác áng thơ” cũng của nhà báo PHANXIPĂNG, đăng ngày
18/05/2021:
https://giaoducthoidai.vn/van-hoa/han-mac-tu-tinh-dau-voi-nguyen-tac-o-day-thon-vy-gia-ki-ii-nguyen-tac-ang-tho-6brVTljGR.html
và hiểu ra
là: “Vỹ
Dạ” hay
“Vỹ
Giạ” theo
cách viết của cụ Ưng B́nh Thúc Giạ Thị, đều là do đọc theo giọng
Huế (mà biến âm) từ gốc “Vi Dă
葦野”:
Vi là lau sậy, và Dă là cánh đồng. “Vỹ
Dạ” hay
“Vỹ
Giạ” nghĩa
là “cánh đồng lau”.
(khiến nhớ đến “Khu Rừng Lau” của Doăn Quốc Sỹ!).
(2)
Phát kiến thứ hai là Hàn Mặc Tử đă viết nhan đề bài thơ là “Ở
đây thôn Vỹ Giạ” chứ không phải “Đây thôn Vĩ Dạ” như sách báo
thường ghi. Ngẫm lại th́ “Đây thôn Vĩ Dạ” nghe như lời lẽ của một
anh hướng dẫn du lịch, hoặc một anh môi giới buôn bán nhà đất! Bởi
bài thơ này đă giúp thôn Vỹ Dạ nổi tiếng khắp đất nước, với những
h́nh ảnh đẹp lăng mạn như nắng mới trên hàng cau, lá trúc xanh như
ngọc bích, hoa bắp lay động trên gịng nước buồn thiu, chiếc
thuyền nơi bến sông chở ánh trăng, áo em trắng quá nh́n không ra
là ai trong sương khói mờ nhân ảnh,... Đến nỗi người ta có thể tập
trung chú ư đến phong cảnh hữu t́nh của thôn Vỹ Dạ, mà quên mất
tâm t́nh của tác giả mới chính là chủ đích của bài thơ. Bởi hẳn
phải là “Ở đây thôn Vỹ Giạ” mới nói lên được nỗi cô đơn của
một người đang “ở đây”, đang khắc khoải ngóng chờ “sao
anh không về chơi thôn Vỹ?”, nơi chẳng có ai quen, “vườn
ai” đó chẳng biết là của ai mà “mướt quá xanh như ngọc”, đến
“thuyền ai đậu bến sông trăng đó” cũng chẳng biết là thuyền của
ai, trên “gịng nước buồn thiu” chỉ có “hoa bắp lay”, chung quanh
th́ “nhân ảnh” chỉ mờ mờ nh́n chẳng ra được ai là ai cả! Người ở
phương nào, ta ở đây! Để cứ phải ngóng trông “vọng cố nhân hề
thiên nhất phương” ngóng người xưa ôi đăm đắm một phương trời.
Về nhan đề
bài thơ có các từ “Ở đây”, nhà báo PHANXIPĂNG cho biết thêm
rằng:
“Nguyên
tác, Hàn viết “Ở đây thôn Vỹ Giạ” chứ không phải “Đây thôn
Vĩ Dạ” như sách báo, kể cả giáo khoa và giáo tŕnh, vẫn in.
Lưu ư rằng
tuần báo Đông Á Tân Văn số 2 ra ngày 19/10/1940, lúc Hàn c̣n tại
thế, đă in đúng nhan đề bài thơ của Hàn: “Ở đây thôn Vĩ Giạ”. Nhà
văn Trần Thanh Địch sinh thời từng nhận xét: Chữ “Ở” được Hàn dùng
có chủ đích. Đọc kỹ bài thơ mới thấy chữ đó nhấn mạnh đến thôn Vỹ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”.
Soạn sách
“Hàn Mạc Tử thơ văn và cuộc đời” (Tuần báo Dân Việt ấn hành,
Sydney, 1997), Hồ Đ́nh Chữ khẳng định: “Tóm lại, bài thơ nổi tiếng
mà Hàn Mạc Tử gởi tặng cho chị (Hoàng Thị) Kim Cúc và đă
được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc trên bốn chục năm nay [phổ năm 1993
là mới 4 năm thôi], có nhan đề nguyên thủy là “Ở đây thôn Vỹ Dạ”.”
Cũng xin
nhắc rằng
https://www.facebook.com/pang.phanxi
c̣n có các video ca sĩ tŕnh bày bản nhạc mà Phạm Duy đă phổ nhạc
từ bài thơ này.
Ngoài ra,
về nhà thơ Ưng B́nh Thúc Giạ Thị (1877 - 1961) th́
Wikipedia cho biết: tên thật là Nguyễn Phúc Ưng B́nh (chữ Hán:
阮福膺苹),
hiệu Thúc Giạ Thị (菽野氏);
là một hoàng thân nhà Nguyễn và là nhà thơ Việt Nam thời tiền
chiến.
Năm 1922,
ông làm Bố chính Hà Tĩnh, Tuần vũ, Phủ doăn Thừa Thiên.
Năm 1933,
khi 57 tuổi, ông về hưu và được thăng Thượng thư trí sự.
Năm 1939 -
1940, ông làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Trung Kỳ.
Năm 1940 -
1945, ông được bầu làm Viện trưởng Viện dân biểu Trung kỳ...
Ông có bài thơ này: Bảy mươi tuổi tự thuật
Ngưỡng mong ơn Phật với ơn Trời,
Tuổi
thọ nay đà đến bảy mươi.
Rượu
có mùi hương nên uống măi,
Thi là
thuốc bổ cứ ngâm chơi.
Thuở
ra sân khấu không làm rộn,
Khi hạ
vai tuồng ít hổ ngươi.
Giở
tấm gương vàng soi tóc bạc,
Sương
pha tuyết điểm lại càng tươi.
Phạm Vũ Thịnh
27 May 2021
®
"Khi phát hành lại thông tin
từ trang này cần phải có sự đồng
ư của tác giả
và ghi rơ nguồn lấy từ www.erct.com"
Cảm tưởng, ư kiến xin gởi về
t4phamvu@hotmail.com
|