Trở
lại bến phong kiều


Phạm
Vũ Thịnh

 

Nhà văn Hồ Dzếnh viết truyện ngắn "Ngày gặp gỡ" trong tập truyện "Chân trời cũ" - 1944, kể lại câu chuyện một lữ khách trọ lại nhà một cô lái đ̣ bên bờ sông Ghép - Thanh Hóa:

Trích: "Đêm ấy là đêm đầu tiên trong cuộc đời giang hồ, người lữ khách đặt lưng trên chiếc giường tre ẽo ợt, giữa những tiếng và h́nh ảnh khác hẳn với những cái quen biết ở quê hương.

Mái nhà tranh lợp sơ sài, để chảy xuống mặt khách một ḍng ánh trăng hạ tuần, và ngừng lại ở đấy thành những đồng hào mới long lanh.

Gió thổi trong vườn cau, xào xạc.

Tịch mịch dễ làm đuối ḷng người. Lữ khách lúc này, đă thấy chết chí phiêu lưu, bôn tẩu, để cảm khái trong niềm thương nhớ, trong giây phút chạnh ḷng tưởng đến một mảnh đất xa xôi.

Lữ khách ngạc nhiên ghé tai vào cơi yên lặng, cái yên lặng mênh mông và u uất, không bị phá bởi một tiếng súng bắn cướp nào như ở quê hương.

Mấy tiếng tù và khuya rúc lên, bay vào gian nhà vắng. Lắng biết mọi người đă ngủ yên cả, vị thần tử của giang sơn Trung Quốc vắt chân chữ ngũ, khe khẽ ngâm một bài thơ cổ, qua nỗi xúc động đột nhiên tụ lại trong người:

"Uỵt lọc, vú thày sướng mủn thín,
Coóng phống, d́ phổ, tui sảo ḿnh,
Cú chấu sèng ngồi Hồn Sán ś,
Dề phun, chống séng tâu hạc śn"

Ngay lúc ấy, từ gian buồng bên nổi lên mấy tiếng ǵ như chuột rúc. Lữ khách thấy đứt mạch cảm hứng, càu nhàu trong bóng tối:

- Ấy dà! Cầm tổ xỉ a! (Chà! Lắm chuột thế!)

Nhưng đó không phải là tiếng chuột rúc. Đó là tiếng người con gái chở đ̣ ban tối cười qua hai làn môi kín đáo khép lại"... (Hết trích.)

*

Chuyện bên lề tập truyện cho biết cô lái đ̣ sau này đă kếthôn với người lữ khách ấy, và sinh ra Hà Triệu Anh tức là nhà văn Hồ Dzếnh, cũng là nhà thơ tác giả của tuyệt tác thơ phổ nhạc "Chiều" nguyên đề là "Màu cây trong khói".

Và bài thơ được ngâm trong đêm đó là "Phong kiều dạ bạc" của Trương Kế, một trong những bài Đường thi được yêu mến nhất.

PHONG KIỀU DẠ BẠC

楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天
江楓漁火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船

Nguyệt lạc ô đề sương măn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Phỏng Dịch:

Đêm Neo Bến Phong Kiều

1

Trăng tà quạ rúc trời sương
Cây im lửa đóm nằm suông hững hờ
Nửa đêm neo bến Cô Tô
Hàn Sơn vẳng tiếng chuông chùa buồn tênh

2

Trăng tà quạ rúc trời đầy sương
Cây im lửa đóm người nằm suông
Cô Tô bến lặng đêm già nửa
Chùa cổ Hàn Sơn vẳng tiếng chuông

Tác giả: Trương Kế tự là Ư Tôn, người Tương Châu tỉnh Hồ Bắc. Năm 14 niên hiệu Thiên Bảo đời Đường Huyền Tông (756), thi đậu tiến sĩ. Cuối niên hiệu Đại Lịch đời Đường Đại Tông, vào triều làm chức Tự bộ viên ngoại lang. Về hưu rồi mất tại Hồng Châu.

Để biết thêm nhiều chi tiết lư thú về bài thơ "Phong kiều dạ bạc" này, xin mời đọc bài biên khảo rất công phu của nhà thơ, nhà biên khảo Vương Hải Đà (Vương Ngọc Long), trong trang mạng sau đây: http://www.vuonghaida.com/VAN/PhongKieuDaBac.htm 

*

Theo chỗ tôi t́m hiểu th́ Chữ Hán trải qua hàng ngàn năm đă tiêu chuẩn hóa và đơn giản hóa mà phát sinh ra năm lối viết (gọi là "書 - thư") căn bản, là Triện, Lệ, Thảo, Hành, Khải. Sau đây là bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc" viết theo các thư pháp của năm lối viết chữ Hán ấy, mà tôi đọc thấy và yêu thích.

Triện:

Triện - ví dụ 1:

 

Triện - ví dụ 2:

 

H́nh chụp bức trướng của một thân hữu ở Canada đem từ Việt Nam sang, viết bài "Phong Kiều Dạ Bạc" bằng chữ Triện theo lối âm-dương: chữ đen nền trắng và chữ trắng nền đen đan xen nhau.

Lệ:

 

Thảo:

Thảo - ví dụ1:

 

Thảo - ví dụ 2:

Hành:

Khải:

 

*

Xin ghi thêm đôi điều sơ lược về lịch sử các lối viết chữ Hán:

Giáp-cốt-văn 甲骨文字 là tên gọi loại chữ viết cổ được khai quật từ di tích của triều đại nhà Thương, khoảng từ năm 1600 TCN (trước Công nguyên) đến năm 1046 TCN, gồm những kư tự ghi chép về bói toán cổ đại, được ghi trên mai rùa hoặc xương động vật (như xương bả vai của loài ḅ,...) là dạng chữ Hán lâu đời nhất có thể xác nhận được hiện nay. Mặc dù Giáp cốt văn có dạng chữ tượng h́nh, nhưng cũng đă phát triển đến mức trừu tượng khá cao. V́ là chữ Hán cổ nhất có thể xác nhận, nên được sử dụng làm cơ sở để giải thích về h́nh dạng các loại kư tự phát hiện thêm sau đó.

Xuất hiện sau Giáp cốt văn là loại Kim-thuộc-văn 金文 gồmcác kư tự được đúc hoặc khắc trên bề mặt đồ đồng cuối đời nhà Thương và trong đời nhà Chu 1046 TCN - 256 TCN.

Có nguồn gốc từ Kim-thuộc-văn là Triện-thư-thể, dạng kư tự c̣n được gọi là Cổ triện, tức lối viết chữ Triện cổ, chung cho chữ Hán, chữ Mông Cổ và chữ Măn Châu, vào cuối đời nhà Chu, sau đó phát triển trong thời Chiến Quốc - Thế kỷ thứ 5 TCN - 221 TCN, được hệ thống hóa và tiêu chuẩn hóa thành lối viết chữ chính thức gọi là chữ Triện (dùng trong ấn triện, con dấu - seal script.)

Vào đầu thời Tây Hán, 206 TCN - 8, đă có sự chuyển đổi đơn-giản-hóa từ lối viết chữ Triện sang lối viết chữ Lệ (có nghĩa là quy tắc - clerical script) dùng cho văn thư chính thức.

Rồi từ lối chữ Lệ, nỗ lực đơn giản hóa thêm đă giúp nảy sinh ra lối viết chữ Hành (có nghĩa là bước vội, hay chạy - running script).

Và cũng từ trong thời đại này, dạng chữ Lệ lại được đơn giản hóa cực kỳ để tạo ra lối viết chữ Thảo Lệ, thích hợp cho lối viết tắt viết nhanh (người Việt gọi là viết tháu.)

Đến thời Đông Hán, 25–220, lối chữ Thảo Lệ đă phát triển hơn nữa, trở thành lối viết tốc kư tiêu-chuẩn-hóa ngày nay gọi là Thảo-thư (lối chữ Thảo - cursive script).

Cũng trong thời đại này, lối viết chữ Lệ phát triển mạnh mẽ thêm lên khi Nho giáo được chính thức hóa là quốc giáo dưới chính quyền ổn định, việc sử dụng Lệ-thư để ghi khắc bán-vĩnh-viễn trên đá trở nên phổ biến.

Từ thời Nam Bắc Triều 420 - 589 cho đến cuối đời nhà Đường năm 907, lối chữ Khải đơn giản hóa và tiêu chuẩn hóa thêm từ lối chữ Lệ đă trở thành lối viết chữ Hán tiêu chuẩn chính thức (regular script.)

*

Ngày nay, có thể hiểu tóm gọn như sau:

Lối chữ Triện (篆書 Triện thư, seal script) cổ nhất và nhiều kiểu mẫu h́nh dạng nhất, được dùng nhiều trong thư họa và con dấu (ấn triện.)

Lối chữ Lệ (隷書 Lệ thư, clerical script) đơn giản hóa từ chữ Triện, vốn đă được dùng để viết sổ sách tư liệu trong triều đ́nh thời xưa.

Lối chữ Thảo (草書 Thảo thư, cursive script) là lối viết nhanh viết tắt được giới trí thức ưa chuộng để ghi nhanh trong bản thảo, bản nháp, các bản văn không chính thức.

Lối chữ Hành (行書 Hành thư, running script) đơn giản hóa và tiêu chuẩn hóa thêm nữa từ lối chữ Lệ.

Lối chữ Khải (楷書 Khải thư, regular script) là lối chữ mẫu mực, tiêu chuẩn, viết từng nét tách bạch không dính vào nhau, trong khung vuông đúng nghĩa "chân phương", được dùng cho văn kiện văn bản chính thức ngày nay, và để dạy học.

Hán tự là loại chữ tượng h́nh, mỗi chữ phát sinh từ một h́nh tượng cụ thể, hoặc từ một khái niệm hay liên tưởng khơi gợi được h́nh ảnh như trong một khung tranh. Do đó, thêm với chức năng cố hữu của văn-tự là truyền đạt và ghi giữ, Hán tự đặc biệt c̣n có vẻ đẹp của tranh ảnh, khiến cho thay v́ chỉ cần một lối chữ viết (chữ Khải chẳng hạn), ngày nay và cả sau này nữa, năm lối chữ viết nói trên đều c̣n song song tồn tại và phát triển, cả trong lĩnh vực nghệ thuật như thư họa, lẫn lĩnh vực thực dụng, thương mại như ấn triện, sưu tập và buôn bán thư pháp tranh ảnh.

Và cả năm lối chữ viết ấy đều có giá trị mỹ thuật riêng, "mỗi lối một vẻ mười phân vẹn mười".

Phạm Vũ Thịnh

Sydney, 16/11/1996 - viết thêm 02/02/2023

 


® "Khi phát hành lại thông tin từ trang này cần phải có sự đồng ư của tác giả 
và ghi rơ nguồn lấy từ www.erct.com"

Cảm tưởng, ư kiến xin gởi về  t4phamvu@hotmail.com